Xe vận tải nhỏ trốn trốn tránh tránh khẩn trương lên đường. Ngược lại xe lửa thì cứ một đường chạy băng băng. Tư Đằng và Nhan Phúc Thụy đến Nang Khiêm không hề trễ hơn nhóm Tần Phóng. Có điều tuy Nang Khiêm nhỏ, nhưng cũng xem như là biển người mờ mịt, muốn đụng mặt nhau là điều hết sức viễn vông, huống chi còn là bị “bắt cóc” chứ?
Tại sao là Nang Khiêm vậy nhỉ, vùng Nang Khiêm này có gì đặc biệt sao? Sau khi đến đây, Tư Đằng luôn nghĩ đến vấn đề này.
Nhan Phúc Thụy làm xong thủ tục tạm trú liền thở hổn hển xách túi đi vào, oán trách: “Quy định của người Tạng nhiều quá, không cho hút thuốc, không cho nhóm lửa, không cho dùng thiết bị dẫn điện công suất lớn. Nói một lần chưa đủ còn lải nhải đến tận tám lần.”
Tư Đằng nói: “Ở đây từng bị cháy đương nhiên phải cẩn thận một chút rồi.”
Nhan Phúc Thụy thấy lạ: “Sao cô biết.”
“Tôi đốt.”
Đốt nhà? Nhan Phúc Thụy giật cả mình, định hỏi tiếp nhưng thấy sắc mặt Tư Đằng không tốt nên ngượng ngùng im miệng. Suốt quãng đường đi, cho dù có chậm hiểu đi nữa ông cũng biết Tư Đằng không ưa gì ông.
Đâu có cách nào, làm sao ông có thể so sánh với Tần Phóng được. Tần Phóng trẻ tuổi, tướng mạo cao ráo, đẹp trai lại có tiền. Nghe nói còn từng có bạn gái và vị hôn thê. Đương nhiên nếu biết nhìn người thì Nhan Phúc Thụy ông cũng có ưu điểm của riêng mình mà. Mỗi lần ông bày hàng bán xiên que nướng đều bị người ta giành nhau mua hết sạch. Ai bảo tiểu thư Tư Đằng không thích ăn xiên que nướng chứ?
Tư Đằng phân phó Nhan Phúc Thụy ra ngoài tìm Tần Phóng. Nhan Phúc Thụy cảm thấy đây chẳng qua là viện cớ để đuổi ông ra khỏi phòng cho đỡ chướng mắt thôi, điều này quá rõ ràng. Ông lấy hết can đảm lên tiếng phản đối: “Tiểu thư Tư Đằng, tôi nghĩ một chút cảm thấy như vậy không thích hợp.”
Ông sợ Tư Đằng sẽ ngay lập tức ra lệnh cưỡng chế ông “câm miệng, cút ngay” thì bản thân sẽ không kịp nói tiếp nên vội vàng giành nói trước Tư Đằng: “Tiểu thư Tư Đằng à, cô nghĩ đi. Tần Phóng là bị bắt cóc, người bắt cóc cậu ta chắc chắn rất cẩn thận. Tôi xem trên tivi, họ đều nhốt nạn nhân vào hầm đất hay hang núi gì đó. Làm sao có thể để cậu ta nhởn nhơ đi trên đường chứ? Cho nên tôi đi ra ngoài tìm cũng chỉ là uổng phí công sức thôi.”
Từ Đằng vô cảm ừ một tiếng, cũng lười tiếp lời ông. Cho nên hai người ở chung một phòng, Nhan Phúc Thụy nhanh chóng cảm thấy rất mất tự nhiên. Ông nghiêm chỉnh ngồi trên ghế salon, hai chân cũng khép lại. Quả thật ở cùng một chỗ với Tư Đằng chính là khảo nghiệm tính nhẫn nại của người khác. Cô mặt lạnh, không cho ông nói chuyện, dù cho ông có hành động rất nhỏ cô ta cũng sẽ cau mày hoặc không vui. Như muốn bảo: Ông câm miệng cho tôi! Ông ở yên cho tôi!
Thật không biết làm sao mà Tần Phóng chịu được nữa. Có điều nếu Nhan Phúc Thụy chịu được thì cũng không gọi là Nhan Phúc Thụy nữa rồi. Ông lại ấp úng cất lời:
“Tiểu thư Tư Đằng, Tần Phóng bị bắt cóc sẽ không gặp nguy hiểm chứ. Cô nói xem chúng ta có nên báo cảnh sát không?”
Tư Đằng lạnh lùng liếc ông một cái, Nhan Phúc Thụy vội vàng giải thích: “Không phải là tôi nghi ngờ năng lực của tiểu thư Tư Đằng. Nhưng có câu nói rất đúng, đông người lực lớn, ba cây cộng lại nên hòn núi cao, nhiều người bao giờ cũng có thêm sức lực… Dĩ nhiên tiểu thư Tư Đằng là yêu quái, nhất định có biện pháp.”
Thật sự không mở bình thì làm sao biết trong bình có gì. Tình trạng hiện nay của Tư Đằng rất khó xử, cô hút hết yêu lực của Thẩm Ngân Đăng. Nhưng lúc sử dụng lại gặp lắm điều cản trở, giống như gì nhỉ, giống như dây điện đã cũ không tải được dòng điện mạnh, mỗi lần sử dụng miễn cưỡng cũng có hiệu quả, nhưng bao giờ cũng khiến cho bản thân xẹt lửa tung tóe khắp nơi.
Giết người một vạn, tự tổn hại mình tám nghìn. Cho nên hiện tại cô cố gắng tránh sử dụng yêu lực trong phạm vi lớn. Đã một lần, hai lần bản thân cô đều phải chịu phản ứng dị thường. Ai biết tiếp theo có thể khiến dây điện cháy đứt hay không? Quả thật như thế, chẳng lẽ không phải là cái được không đủ bù cho cái mất hay sao?
Về phần gốc rễ ở đâu, giải quyết thế nào, chính bản thân cô cũng biết rất rõ.
Có điều câu nói gần như nịnh nọt “Nhất định có biện pháp” kia của Nhan Phúc Thụy, ha ha, trong khoảng thời gian ngắn cô thật sự đúng là chẳng nghĩ ra biện pháp gì. Chỉ có điều đó giờ xe đến trước núi tất có đường đi. Cứ vậy đi, yên lặng ngồi tại chỗ nhất định sẽ đợi được thôi.
Biết sớm thì nên hạ Đằng Sát cho Tần Phóng, dây mây chui vào cơ thể con người đều là đoạn cuối của dây mây cô. Nếu tĩnh tâm cảm ứng dù là trời nam đất bắc, khoảng cách xa gần cũng có thể cảm nhận được.
Có điều là Đằng Sát nếu muốn sống phải hút máu tủy, tổn hao nguyên khí của con người. Người trúng Đằng Sát tất cả các cơ năng của cơ thể đều yếu kém hơn người thường. Hạ Đằng Sát cho Tần Phóng à, không nên chút nào. Đêm hôm đó, trái lại cô rất muốn hạ Đằng Sát vào kẻ bắt cóc Tần Phóng, như vậy cũng dễ dàng truy tìm tung tích. Nhưng khi đó cơ thể suy yếu đã phải hiện ra nguyên hình, dù sao cũng có lòng mà không có sức.
Đêm xuống, Nhan Phúc Thụy nằm ngoài ghế salon ngáy khò khò. Tư Đằng vốn trong phòng đang tựa vào đầu giường đọc sách. Tối nay tinh thần cô rất tốt, tai thính mắt tinh, thỉnh thoảng nín thở lắng nghe cũng có thể nghe được cả tiếng nức nở trong căn phòng ở rất xa. Trước đó cô còn nghĩ rằng trải qua một hai ngày nghỉ ngơi này rốt cuộc yêu lực đã có thể khôi phục. Cô dừng một chút, bỗng dưng trong lòng khẽ động, đặt sách xuống giường, nhẹ nhàng kéo rèm cửa sổ ra.
Quả nhiên, trên bầu trời đêm màu tía có vầng trăng bán nguyệt treo cao, rõ ràng tựa như đưa tay là có thể chạm đến. Nếu cô nhớ không lầm, cô sống lại chính là vào lúc trăng bán nguyệt hạ huyền này.
Vạn vật trên đời, có tri giác hoặc không có tri giác đều bị mặt trăng ảnh hưởng. Cơ thể con người tám mươi phần trăm là nước, dưới lực hấp dẫn của mặt trăng cũng sẽ xảy ra phản ứng giống như thủy triều đại dương, tạo nên từng cơn sóng nhỏ trong cơ thể của loài người. Nghe nói lúc trăng tròn con người dễ dàng bị kích động, tâm trạng bất ổn nhất. Cho nên lúc trăng tròn số vụ án ở sở cảnh sát sẽ tăng thêm, tỷ lệ phát bệnh ở bệnh viện tâm thần cũng sẽ vọt lên. Rất nhiều truyền thuyết cũng có hiện tượng tương tự, ví như đêm trăng tròn biến thành người sói, hoặc là ma cà rồng.
Tư Đằng chưa từng thấy người sói hay ma cà rồng, nhưng yêu quái có bản năng bẩm sinh, rất nhiều chuyện đều phải tránh đêm trăng tròn. Dĩ nhiên cũng không thể hoàn toàn tránh né ánh trăng. Ánh trăng có ý nghĩa không hề tầm thường đối với thực vật. Đôi khi thân mây bị tổn hại, ánh nắng chiếu xạ sẽ xuất hiện vết sẹo lớn, nhưng ánh trăng lại có thể loại bỏ bộ phận đã chết.
Cho nên năm 1910 khi hóa thành tinh, Khưu Sơn cố ý lựa chọn vào một đêm trăng hạ huyền. Và bảy mươi bảy năm sau sống lại, trùng hợp cũng vào lúc trăng hạ huyền.
Trong truyền thuyết, yêu quái tu luyện cũng sẽ lựa chọn vào ban đêm hấp thụ tinh khí, tiếp thụ ánh trăng. Tư Đằng chưa từng tu luyện qua nhưng có điều không ăn thịt heo cũng từng thấy heo chạy chứ, cô hiểu được đại khái cách hấp thụ này.
Lúc này đã vào nửa đêm, xung quanh cực kỳ yên tĩnh, khu Tạng tiết kiệm điện, buổi tối cũng không bật đèn sáng rực. Dõi mắt trông ra bên ngoài tối đen như mực, Tư Đằng tắt điện trong phòng, chậm rãi đẩy cửa sổ ra.
Cô biến thành nguyên hình, thậm chí có thể nghe thấy được tiếng dây mây vươn dài. Vô số dây mây khổng lồ và trùng điệp phóng lên cao từ cửa sổ khách sạn, tùy ý kéo dài hết mức. Nhìn từ đằng xa, giống như là bóng một cây đại thụ bất chợt vươn dài, khiến tầng hai khách sạn trông vô cùng nhỏ bé.
Dĩ nhiên cô có thể hóa thành hình người vô cùng xinh đẹp, ăn mặc lộng lẫy, soi gương trang điểm tô son trát phấn. Nhưng dù thế nào đó cũng là phải mang trên thân một lớp ngụy trang không thể vứt bỏ, làm chính bản thể của mình mới là thoải mái tự tại nhất.
Con người có thể tiếp nhận núi to sông lớn, nghìn loài kỳ dị, nhưng không chịu được một gốc cây mây sống. Năm đó từng đối mặt với những vẻ chán ghét, căm hận, hoảng sợ, tuy giờ đã cách bảy mươi bảy năm nhưng cô vẫn nhớ rõ ràng không hề phai nhạt.
Rõ ràng là yêu quái tại sao phải biến thành người? Vì muốn được Thiệu Diễm Khoan yêu nên không hề luyến tiếc muốn bỏ đi yêu cốt làm người. Ngay cả chính bản thân mình mà cũng căm ghét và phản bội, cho dù chiếm được tình yêu của hắn thì có ý nghĩa gì?
Nếu quả thật yêu tôi thì phải chấp nhận tôi là cây mây trước.
Tư Đằng bỗng khẽ cau mày lại. Không đúng, dường như có chút cảm ứng được Đằng Sát… Không đúng.
Gần như là cùng lúc đó nơi xa vang lên tiếng thắng xe khẩn cấp, ánh mắt Tư Đằng sáng quắc, vô số dây mây thu lại trong nháy mắt, bỗng hóa thành hình người.
Cô nín thở lắng nghe, cách đó chừng mấy con phố. Tiếng động cơ xe chạy ban đêm, tiếng thở dốc kịch liệt, tiếng vặn nắp bình nước, có tiếng người bối rối nói: “Tôi thật sự nhìn thấy ở bên kia, trên nóc nhà, thật cao thật to, nhưng chớp mắt đã không thấy nữa.”
Người bạn đi chung cười gã: “Lái xe ban đêm hoa mắt thôi, nghỉ ngơi một chút đi.”
Chỉ là người qua đường không liên quan, Tư Đằng đóng cửa sổ, trong tích tắc khóa cửa lại sắc mặt cô trầm xuống. Kỳ lạ, trong vùng Nang Khiêm cô lại cảm nhận được có một luồng Đằng Sát. Không phải là quan chủ Thương Hồng, không phải giáo sư Bạch Kim, không phải là của đám người đạo môn. Thậm chí căn bản cũng không phải do cô hạ.
Không phải Đằng Sát do cô hạ thì làm sao cô lại cảm nhận được chứ?
***
Trên quãng đường này Chu Vạn Đông cực kỳ cẩn thận, nhiều năm kinh nghiệm cho biết, càng gần đến đích thì càng phải cẩn thận hơn, sắp thành lại bại càng khiến người ta khó chịu hơn vừa khởi đầu đã thất bại.
Ngoại trừ thỉnh thoảng ngừng lại đổ xăng dầu và kiểm tra theo thói quen, gã tận lực tránh dừng xe. Vào ban đêm sẽ dừng xe ở vùng hoang dã, co ro ngủ một đêm cho xong. Tuy Giả Quế Chi chưa từng chịu cực khổ thế này nhưng cũng biết phân nặng nhẹ, vô cùng phối hợp.
Chỉ có Tần Phóng hết sức lo âu. Ngược lại anh không lo cho chính mình, chỉ cần Tư Đằng không sao thì anh vẫn không đến mức bị đe dọa tính mạng. Mà tình cảnh đêm hôm đó vẫn rõ mồn một trước mắt, Tư Đằng muốn giết chết Chu Vạn Đông nhưng lại thu hồi lại dây mây, chứng minh rằng cô đã có suy tính khác.
Suy đoán thêm một bước, có lẽ Tư Đằng cũng đang trên đường tới Nang Khiêm. Có điều là, Nang Khiêm to lớn, làm sao Tư Đằng tìm được anh chứ? Nếu như có thể để lại ám hiệu cho Tư Đằng thì tốt. Nhưng làm sao để lại được đây? Chỉ cần ra khỏi thùng xe là Chu Vạn Đông sẽ giám sát anh chặt chẽ. Dù sao cùng là đàn ông, lúc tiểu tiện cũng không phải tránh. Có đôi khi gã còn cố ý đi đến kiểm tra, sợ anh để lại ám hiệu gì trên tường trong nhà vệ sinh.
Xe dừng lại lần nữa, Chu Vạn Đông không kiên nhẫn mở cửa thùng xe: “Cần tiểu tiện không? Kế tiếp không ngừng nữa đâu.”
Tần Phóng ừ, chậm chạp xuống xe, lơ đãng quan sát bốn phía.
Là ở công trường đang thi công, nắng sớm chưa lên, vẫn chưa bắt đầu thời gian làm việc. Tần Phóng thầm căng thẳng, đã chạy qua huyện Nang Khiêm rồi. Đi tiếp nữa sẽ đến vùng quê, lúc trước anh vì thử nghiệm lực khống chế của Tư Đằng đối với anh nên đã từng mua kiếng đi thẳng về phía này. Thậm chí vẫn còn ấn tượng với công trường này, khi đó nó mới chỉ lên nền, hiện tại đã xây được gần một nửa.
Suốt quãng đường Chu Vạn Đông đều nhìn anh, thấy anh cứ rề rà như vậy liền nhấc chân đạp anh một cú: “Mẹ kiếp, kéo quần xuống tiểu đi. Vùng hoang dã mà mày còn câu nệ, có cần tao xây nhà vệ sinh cho mày không?”
Tần Phóng dừng lại tại góc tường vứt đầy hộp cơm trắng. Thật kỳ lạ, thông thường mà nói, trên công trường đều có đầu bếp nấu cơm, rất ít khi gọi cơm hộp ở bên ngoài.
Thấy Tần Phóng dừng lại, Chu Vạn Đông tức tối quay người, cúi đầu châm một điếu thuốc. Tần Phóng nhanh chóng quay đầu lại liếc nhìn Chu Vạn Đông, rồi nhanh chóng nắm một miếng gạch vỡ trong tay. Lúc viết lên mặt tường, anh khẩn trương đến mức tay cũng run lên.
Chu Vạn Đông hút một lát, quay đầu theo bản năng, thấy Tần Phóng đang vội vàng hấp tấp đứng lên, nói: “Xong rồi.”
Xong rồi? Chu Vạn Đông nảy sinh nghi ngờ, gã móc chiếc đèn pin để sau túi, cẩn thận chiếu vào tường. Chỉ có hai dãy số điện thoại giao cơm hộp, lại soi đến phía gần mặt đất, hợp cơm màu trắng chồng chất lên cao, gần như che hơn nửa mặt tường.
Mặt Chu Vạn Đông hầm hầm đi đến, nhìn đống hợp cơm, lại nhìn nhìn Tần Phóng: “Xong rồi hả? Đống này cũng không thấp, mới vừa rồi mày ngồi ở đây vẽ cái gì?”
Lời còn chưa dứt, gã đã đá văng đống hộp cơm đi.
Sắc mặt Tần Phóng có chút trắng bệch. Chu Vạn Đông cúi người xem, nơi đó viết bằng miếng gạch vỡ màu đỏ: “Xe trắng, từ trái tim đến trái tim, SOS. Tần Phóng.”
Từ trái tim đến trái tim là tên quỹ từ thiện sơn trên xe vận tải nhỏ. Cuối cùng là số điện thoại cá nhân, mã số Hàng Châu, nhìn khá quen. Chu Vạn Đông lấy điện thoại di động ra gọi, đầu kia là chương trình trả lời cài sẵn của công ty Tần Phóng.
Sắc mặt Chu Vạn Đông dữ tợn: “Mày muốn chết à!”
Lúc Giả Quế Chi đến tìm, Tần Phóng đã bị đánh gần như không bò dậy nổi. Chu Vạn Đông chỉ vào chữ trên tường mắng: “Mẹ kiếp, suốt cả quãng đường cứ giả đàng hoàng, suýt nữa đã bị nó lừa…”
Nói xong gã thở hồng hộc cầm gạch bôi đi chữ Tần Phóng viết, Giả Quế Chi rất phiền mấy chuyện rắc rối phát sinh này: “Đi nhanh lên, còn có việc chính phải làm nữa.”
***
Giữa trưa Nhan Phúc Thụy nhận được cuộc điện thoại kỳ lạ, tín hiệu bên kia không tốt lắm. Ông đi đến bên cửa sổ, la to lên với đầu bên kia: “Cái gì? Cái gì? Cái gì? Tôi không bán cơm hộp, tôi bán xiên que nướng. Cái gì? Năm tệ một phần? Cậu gọi lầm rồi. Tìm ai? Họ Tư? Tôi không phải họ Tư.”
Sau khi cúp điện thoại, ông kể cho Tư Đằng nghe như chuyện cười: “Muốn đặt cơm hộp, gọi lầm rồi, tôi đâu phải họ Tư.”
Bỗng nhiên ông lại nghĩ đến gì đó: “Ơ, tiểu thư Tư Đằng, không phải cô họ Tư sao? Chuyện này cũng khéo quá, gọi cho tôi tìm họ Tư ha ha ha…”
Cười một hồi ông không cười nổi nữa. Tư Đằng vẫn nhìn ông mãi đến khi khiến ông sợ hãi mới hỏi: “Số điện thoại là số địa phương hay là Thanh Thành?”
Nhan Phúc Thụy sững sờ: “Ơ… số điện thoại di động tôi không nhìn ra được.”
“Nhìn không ra không biết gọi lại hỏi sao?”
Nhan Phúc Thụy đành gọi lại, đối phương rất mất hứng, càm ràm oán trách một trận, đại ý là: Chính các người đến đây làm ăn, không giao cơm thì để lại số điện thoại trên tường làm gì? Chúng tôi đã gọi đến tận nơi, mối buôn bán đưa đến cửa ông còn nói nhầm cái gì mà nhầm hả?
Cúp điện thoại, ông nghiêm túc báo cáo với cô: “Số điện thoại là Nang Khiêm, nói là ở một công trường xây dựng, bảo tôi giao cơm hộp đến.”
Hai tiếng sau, Tư Đằng đứng trước bức tường đầy nước thải trước công trường. Nơi này chắc là nơi tụ họp dùng cơm thường ngày của công nhân, hộp cơm vứt đó cứ cách mấy ngày mới thu dọn một lần. Trên tường có hai hàng chữ to bắt mắt viết số điện thoại giao cơm hộp.
Một công nhân xây dựng mang nón bảo hộ gân cổ nói với Nhan Phúc Thụy: “Tháng trước đầu bếp bị tấm xi măng đè, không ai nấu cơm cả. Chúng tôi liên lạc người bán cơm gần đây, một công trường có đến mấy chục người. Bây giờ là tám đồng một phần, các người là năm đồng, giá tiền rẻ nhưng phải cam đoan là có thịt, còn có canh…”
Trên tường vốn đã có một số điện thoại giao cơm hộp, bên dưới có thêm một dãy, cách viết giống hệt với dãy trên:
“Cơm hộp, năm đồng, điện thoại: 135xxxx3476, Tư.”
Tại sao là Nang Khiêm vậy nhỉ, vùng Nang Khiêm này có gì đặc biệt sao? Sau khi đến đây, Tư Đằng luôn nghĩ đến vấn đề này.
Nhan Phúc Thụy làm xong thủ tục tạm trú liền thở hổn hển xách túi đi vào, oán trách: “Quy định của người Tạng nhiều quá, không cho hút thuốc, không cho nhóm lửa, không cho dùng thiết bị dẫn điện công suất lớn. Nói một lần chưa đủ còn lải nhải đến tận tám lần.”
Tư Đằng nói: “Ở đây từng bị cháy đương nhiên phải cẩn thận một chút rồi.”
Nhan Phúc Thụy thấy lạ: “Sao cô biết.”
“Tôi đốt.”
Đốt nhà? Nhan Phúc Thụy giật cả mình, định hỏi tiếp nhưng thấy sắc mặt Tư Đằng không tốt nên ngượng ngùng im miệng. Suốt quãng đường đi, cho dù có chậm hiểu đi nữa ông cũng biết Tư Đằng không ưa gì ông.
Đâu có cách nào, làm sao ông có thể so sánh với Tần Phóng được. Tần Phóng trẻ tuổi, tướng mạo cao ráo, đẹp trai lại có tiền. Nghe nói còn từng có bạn gái và vị hôn thê. Đương nhiên nếu biết nhìn người thì Nhan Phúc Thụy ông cũng có ưu điểm của riêng mình mà. Mỗi lần ông bày hàng bán xiên que nướng đều bị người ta giành nhau mua hết sạch. Ai bảo tiểu thư Tư Đằng không thích ăn xiên que nướng chứ?
Tư Đằng phân phó Nhan Phúc Thụy ra ngoài tìm Tần Phóng. Nhan Phúc Thụy cảm thấy đây chẳng qua là viện cớ để đuổi ông ra khỏi phòng cho đỡ chướng mắt thôi, điều này quá rõ ràng. Ông lấy hết can đảm lên tiếng phản đối: “Tiểu thư Tư Đằng, tôi nghĩ một chút cảm thấy như vậy không thích hợp.”
Ông sợ Tư Đằng sẽ ngay lập tức ra lệnh cưỡng chế ông “câm miệng, cút ngay” thì bản thân sẽ không kịp nói tiếp nên vội vàng giành nói trước Tư Đằng: “Tiểu thư Tư Đằng à, cô nghĩ đi. Tần Phóng là bị bắt cóc, người bắt cóc cậu ta chắc chắn rất cẩn thận. Tôi xem trên tivi, họ đều nhốt nạn nhân vào hầm đất hay hang núi gì đó. Làm sao có thể để cậu ta nhởn nhơ đi trên đường chứ? Cho nên tôi đi ra ngoài tìm cũng chỉ là uổng phí công sức thôi.”
Từ Đằng vô cảm ừ một tiếng, cũng lười tiếp lời ông. Cho nên hai người ở chung một phòng, Nhan Phúc Thụy nhanh chóng cảm thấy rất mất tự nhiên. Ông nghiêm chỉnh ngồi trên ghế salon, hai chân cũng khép lại. Quả thật ở cùng một chỗ với Tư Đằng chính là khảo nghiệm tính nhẫn nại của người khác. Cô mặt lạnh, không cho ông nói chuyện, dù cho ông có hành động rất nhỏ cô ta cũng sẽ cau mày hoặc không vui. Như muốn bảo: Ông câm miệng cho tôi! Ông ở yên cho tôi!
Thật không biết làm sao mà Tần Phóng chịu được nữa. Có điều nếu Nhan Phúc Thụy chịu được thì cũng không gọi là Nhan Phúc Thụy nữa rồi. Ông lại ấp úng cất lời:
“Tiểu thư Tư Đằng, Tần Phóng bị bắt cóc sẽ không gặp nguy hiểm chứ. Cô nói xem chúng ta có nên báo cảnh sát không?”
Tư Đằng lạnh lùng liếc ông một cái, Nhan Phúc Thụy vội vàng giải thích: “Không phải là tôi nghi ngờ năng lực của tiểu thư Tư Đằng. Nhưng có câu nói rất đúng, đông người lực lớn, ba cây cộng lại nên hòn núi cao, nhiều người bao giờ cũng có thêm sức lực… Dĩ nhiên tiểu thư Tư Đằng là yêu quái, nhất định có biện pháp.”
Thật sự không mở bình thì làm sao biết trong bình có gì. Tình trạng hiện nay của Tư Đằng rất khó xử, cô hút hết yêu lực của Thẩm Ngân Đăng. Nhưng lúc sử dụng lại gặp lắm điều cản trở, giống như gì nhỉ, giống như dây điện đã cũ không tải được dòng điện mạnh, mỗi lần sử dụng miễn cưỡng cũng có hiệu quả, nhưng bao giờ cũng khiến cho bản thân xẹt lửa tung tóe khắp nơi.
Giết người một vạn, tự tổn hại mình tám nghìn. Cho nên hiện tại cô cố gắng tránh sử dụng yêu lực trong phạm vi lớn. Đã một lần, hai lần bản thân cô đều phải chịu phản ứng dị thường. Ai biết tiếp theo có thể khiến dây điện cháy đứt hay không? Quả thật như thế, chẳng lẽ không phải là cái được không đủ bù cho cái mất hay sao?
Về phần gốc rễ ở đâu, giải quyết thế nào, chính bản thân cô cũng biết rất rõ.
Có điều câu nói gần như nịnh nọt “Nhất định có biện pháp” kia của Nhan Phúc Thụy, ha ha, trong khoảng thời gian ngắn cô thật sự đúng là chẳng nghĩ ra biện pháp gì. Chỉ có điều đó giờ xe đến trước núi tất có đường đi. Cứ vậy đi, yên lặng ngồi tại chỗ nhất định sẽ đợi được thôi.
Biết sớm thì nên hạ Đằng Sát cho Tần Phóng, dây mây chui vào cơ thể con người đều là đoạn cuối của dây mây cô. Nếu tĩnh tâm cảm ứng dù là trời nam đất bắc, khoảng cách xa gần cũng có thể cảm nhận được.
Có điều là Đằng Sát nếu muốn sống phải hút máu tủy, tổn hao nguyên khí của con người. Người trúng Đằng Sát tất cả các cơ năng của cơ thể đều yếu kém hơn người thường. Hạ Đằng Sát cho Tần Phóng à, không nên chút nào. Đêm hôm đó, trái lại cô rất muốn hạ Đằng Sát vào kẻ bắt cóc Tần Phóng, như vậy cũng dễ dàng truy tìm tung tích. Nhưng khi đó cơ thể suy yếu đã phải hiện ra nguyên hình, dù sao cũng có lòng mà không có sức.
Đêm xuống, Nhan Phúc Thụy nằm ngoài ghế salon ngáy khò khò. Tư Đằng vốn trong phòng đang tựa vào đầu giường đọc sách. Tối nay tinh thần cô rất tốt, tai thính mắt tinh, thỉnh thoảng nín thở lắng nghe cũng có thể nghe được cả tiếng nức nở trong căn phòng ở rất xa. Trước đó cô còn nghĩ rằng trải qua một hai ngày nghỉ ngơi này rốt cuộc yêu lực đã có thể khôi phục. Cô dừng một chút, bỗng dưng trong lòng khẽ động, đặt sách xuống giường, nhẹ nhàng kéo rèm cửa sổ ra.
Quả nhiên, trên bầu trời đêm màu tía có vầng trăng bán nguyệt treo cao, rõ ràng tựa như đưa tay là có thể chạm đến. Nếu cô nhớ không lầm, cô sống lại chính là vào lúc trăng bán nguyệt hạ huyền này.
Vạn vật trên đời, có tri giác hoặc không có tri giác đều bị mặt trăng ảnh hưởng. Cơ thể con người tám mươi phần trăm là nước, dưới lực hấp dẫn của mặt trăng cũng sẽ xảy ra phản ứng giống như thủy triều đại dương, tạo nên từng cơn sóng nhỏ trong cơ thể của loài người. Nghe nói lúc trăng tròn con người dễ dàng bị kích động, tâm trạng bất ổn nhất. Cho nên lúc trăng tròn số vụ án ở sở cảnh sát sẽ tăng thêm, tỷ lệ phát bệnh ở bệnh viện tâm thần cũng sẽ vọt lên. Rất nhiều truyền thuyết cũng có hiện tượng tương tự, ví như đêm trăng tròn biến thành người sói, hoặc là ma cà rồng.
Tư Đằng chưa từng thấy người sói hay ma cà rồng, nhưng yêu quái có bản năng bẩm sinh, rất nhiều chuyện đều phải tránh đêm trăng tròn. Dĩ nhiên cũng không thể hoàn toàn tránh né ánh trăng. Ánh trăng có ý nghĩa không hề tầm thường đối với thực vật. Đôi khi thân mây bị tổn hại, ánh nắng chiếu xạ sẽ xuất hiện vết sẹo lớn, nhưng ánh trăng lại có thể loại bỏ bộ phận đã chết.
Cho nên năm 1910 khi hóa thành tinh, Khưu Sơn cố ý lựa chọn vào một đêm trăng hạ huyền. Và bảy mươi bảy năm sau sống lại, trùng hợp cũng vào lúc trăng hạ huyền.
Trong truyền thuyết, yêu quái tu luyện cũng sẽ lựa chọn vào ban đêm hấp thụ tinh khí, tiếp thụ ánh trăng. Tư Đằng chưa từng tu luyện qua nhưng có điều không ăn thịt heo cũng từng thấy heo chạy chứ, cô hiểu được đại khái cách hấp thụ này.
Lúc này đã vào nửa đêm, xung quanh cực kỳ yên tĩnh, khu Tạng tiết kiệm điện, buổi tối cũng không bật đèn sáng rực. Dõi mắt trông ra bên ngoài tối đen như mực, Tư Đằng tắt điện trong phòng, chậm rãi đẩy cửa sổ ra.
Cô biến thành nguyên hình, thậm chí có thể nghe thấy được tiếng dây mây vươn dài. Vô số dây mây khổng lồ và trùng điệp phóng lên cao từ cửa sổ khách sạn, tùy ý kéo dài hết mức. Nhìn từ đằng xa, giống như là bóng một cây đại thụ bất chợt vươn dài, khiến tầng hai khách sạn trông vô cùng nhỏ bé.
Dĩ nhiên cô có thể hóa thành hình người vô cùng xinh đẹp, ăn mặc lộng lẫy, soi gương trang điểm tô son trát phấn. Nhưng dù thế nào đó cũng là phải mang trên thân một lớp ngụy trang không thể vứt bỏ, làm chính bản thể của mình mới là thoải mái tự tại nhất.
Con người có thể tiếp nhận núi to sông lớn, nghìn loài kỳ dị, nhưng không chịu được một gốc cây mây sống. Năm đó từng đối mặt với những vẻ chán ghét, căm hận, hoảng sợ, tuy giờ đã cách bảy mươi bảy năm nhưng cô vẫn nhớ rõ ràng không hề phai nhạt.
Rõ ràng là yêu quái tại sao phải biến thành người? Vì muốn được Thiệu Diễm Khoan yêu nên không hề luyến tiếc muốn bỏ đi yêu cốt làm người. Ngay cả chính bản thân mình mà cũng căm ghét và phản bội, cho dù chiếm được tình yêu của hắn thì có ý nghĩa gì?
Nếu quả thật yêu tôi thì phải chấp nhận tôi là cây mây trước.
Tư Đằng bỗng khẽ cau mày lại. Không đúng, dường như có chút cảm ứng được Đằng Sát… Không đúng.
Gần như là cùng lúc đó nơi xa vang lên tiếng thắng xe khẩn cấp, ánh mắt Tư Đằng sáng quắc, vô số dây mây thu lại trong nháy mắt, bỗng hóa thành hình người.
Cô nín thở lắng nghe, cách đó chừng mấy con phố. Tiếng động cơ xe chạy ban đêm, tiếng thở dốc kịch liệt, tiếng vặn nắp bình nước, có tiếng người bối rối nói: “Tôi thật sự nhìn thấy ở bên kia, trên nóc nhà, thật cao thật to, nhưng chớp mắt đã không thấy nữa.”
Người bạn đi chung cười gã: “Lái xe ban đêm hoa mắt thôi, nghỉ ngơi một chút đi.”
Chỉ là người qua đường không liên quan, Tư Đằng đóng cửa sổ, trong tích tắc khóa cửa lại sắc mặt cô trầm xuống. Kỳ lạ, trong vùng Nang Khiêm cô lại cảm nhận được có một luồng Đằng Sát. Không phải là quan chủ Thương Hồng, không phải giáo sư Bạch Kim, không phải là của đám người đạo môn. Thậm chí căn bản cũng không phải do cô hạ.
Không phải Đằng Sát do cô hạ thì làm sao cô lại cảm nhận được chứ?
***
Trên quãng đường này Chu Vạn Đông cực kỳ cẩn thận, nhiều năm kinh nghiệm cho biết, càng gần đến đích thì càng phải cẩn thận hơn, sắp thành lại bại càng khiến người ta khó chịu hơn vừa khởi đầu đã thất bại.
Ngoại trừ thỉnh thoảng ngừng lại đổ xăng dầu và kiểm tra theo thói quen, gã tận lực tránh dừng xe. Vào ban đêm sẽ dừng xe ở vùng hoang dã, co ro ngủ một đêm cho xong. Tuy Giả Quế Chi chưa từng chịu cực khổ thế này nhưng cũng biết phân nặng nhẹ, vô cùng phối hợp.
Chỉ có Tần Phóng hết sức lo âu. Ngược lại anh không lo cho chính mình, chỉ cần Tư Đằng không sao thì anh vẫn không đến mức bị đe dọa tính mạng. Mà tình cảnh đêm hôm đó vẫn rõ mồn một trước mắt, Tư Đằng muốn giết chết Chu Vạn Đông nhưng lại thu hồi lại dây mây, chứng minh rằng cô đã có suy tính khác.
Suy đoán thêm một bước, có lẽ Tư Đằng cũng đang trên đường tới Nang Khiêm. Có điều là, Nang Khiêm to lớn, làm sao Tư Đằng tìm được anh chứ? Nếu như có thể để lại ám hiệu cho Tư Đằng thì tốt. Nhưng làm sao để lại được đây? Chỉ cần ra khỏi thùng xe là Chu Vạn Đông sẽ giám sát anh chặt chẽ. Dù sao cùng là đàn ông, lúc tiểu tiện cũng không phải tránh. Có đôi khi gã còn cố ý đi đến kiểm tra, sợ anh để lại ám hiệu gì trên tường trong nhà vệ sinh.
Xe dừng lại lần nữa, Chu Vạn Đông không kiên nhẫn mở cửa thùng xe: “Cần tiểu tiện không? Kế tiếp không ngừng nữa đâu.”
Tần Phóng ừ, chậm chạp xuống xe, lơ đãng quan sát bốn phía.
Là ở công trường đang thi công, nắng sớm chưa lên, vẫn chưa bắt đầu thời gian làm việc. Tần Phóng thầm căng thẳng, đã chạy qua huyện Nang Khiêm rồi. Đi tiếp nữa sẽ đến vùng quê, lúc trước anh vì thử nghiệm lực khống chế của Tư Đằng đối với anh nên đã từng mua kiếng đi thẳng về phía này. Thậm chí vẫn còn ấn tượng với công trường này, khi đó nó mới chỉ lên nền, hiện tại đã xây được gần một nửa.
Suốt quãng đường Chu Vạn Đông đều nhìn anh, thấy anh cứ rề rà như vậy liền nhấc chân đạp anh một cú: “Mẹ kiếp, kéo quần xuống tiểu đi. Vùng hoang dã mà mày còn câu nệ, có cần tao xây nhà vệ sinh cho mày không?”
Tần Phóng dừng lại tại góc tường vứt đầy hộp cơm trắng. Thật kỳ lạ, thông thường mà nói, trên công trường đều có đầu bếp nấu cơm, rất ít khi gọi cơm hộp ở bên ngoài.
Thấy Tần Phóng dừng lại, Chu Vạn Đông tức tối quay người, cúi đầu châm một điếu thuốc. Tần Phóng nhanh chóng quay đầu lại liếc nhìn Chu Vạn Đông, rồi nhanh chóng nắm một miếng gạch vỡ trong tay. Lúc viết lên mặt tường, anh khẩn trương đến mức tay cũng run lên.
Chu Vạn Đông hút một lát, quay đầu theo bản năng, thấy Tần Phóng đang vội vàng hấp tấp đứng lên, nói: “Xong rồi.”
Xong rồi? Chu Vạn Đông nảy sinh nghi ngờ, gã móc chiếc đèn pin để sau túi, cẩn thận chiếu vào tường. Chỉ có hai dãy số điện thoại giao cơm hộp, lại soi đến phía gần mặt đất, hợp cơm màu trắng chồng chất lên cao, gần như che hơn nửa mặt tường.
Mặt Chu Vạn Đông hầm hầm đi đến, nhìn đống hợp cơm, lại nhìn nhìn Tần Phóng: “Xong rồi hả? Đống này cũng không thấp, mới vừa rồi mày ngồi ở đây vẽ cái gì?”
Lời còn chưa dứt, gã đã đá văng đống hộp cơm đi.
Sắc mặt Tần Phóng có chút trắng bệch. Chu Vạn Đông cúi người xem, nơi đó viết bằng miếng gạch vỡ màu đỏ: “Xe trắng, từ trái tim đến trái tim, SOS. Tần Phóng.”
Từ trái tim đến trái tim là tên quỹ từ thiện sơn trên xe vận tải nhỏ. Cuối cùng là số điện thoại cá nhân, mã số Hàng Châu, nhìn khá quen. Chu Vạn Đông lấy điện thoại di động ra gọi, đầu kia là chương trình trả lời cài sẵn của công ty Tần Phóng.
Sắc mặt Chu Vạn Đông dữ tợn: “Mày muốn chết à!”
Lúc Giả Quế Chi đến tìm, Tần Phóng đã bị đánh gần như không bò dậy nổi. Chu Vạn Đông chỉ vào chữ trên tường mắng: “Mẹ kiếp, suốt cả quãng đường cứ giả đàng hoàng, suýt nữa đã bị nó lừa…”
Nói xong gã thở hồng hộc cầm gạch bôi đi chữ Tần Phóng viết, Giả Quế Chi rất phiền mấy chuyện rắc rối phát sinh này: “Đi nhanh lên, còn có việc chính phải làm nữa.”
***
Giữa trưa Nhan Phúc Thụy nhận được cuộc điện thoại kỳ lạ, tín hiệu bên kia không tốt lắm. Ông đi đến bên cửa sổ, la to lên với đầu bên kia: “Cái gì? Cái gì? Cái gì? Tôi không bán cơm hộp, tôi bán xiên que nướng. Cái gì? Năm tệ một phần? Cậu gọi lầm rồi. Tìm ai? Họ Tư? Tôi không phải họ Tư.”
Sau khi cúp điện thoại, ông kể cho Tư Đằng nghe như chuyện cười: “Muốn đặt cơm hộp, gọi lầm rồi, tôi đâu phải họ Tư.”
Bỗng nhiên ông lại nghĩ đến gì đó: “Ơ, tiểu thư Tư Đằng, không phải cô họ Tư sao? Chuyện này cũng khéo quá, gọi cho tôi tìm họ Tư ha ha ha…”
Cười một hồi ông không cười nổi nữa. Tư Đằng vẫn nhìn ông mãi đến khi khiến ông sợ hãi mới hỏi: “Số điện thoại là số địa phương hay là Thanh Thành?”
Nhan Phúc Thụy sững sờ: “Ơ… số điện thoại di động tôi không nhìn ra được.”
“Nhìn không ra không biết gọi lại hỏi sao?”
Nhan Phúc Thụy đành gọi lại, đối phương rất mất hứng, càm ràm oán trách một trận, đại ý là: Chính các người đến đây làm ăn, không giao cơm thì để lại số điện thoại trên tường làm gì? Chúng tôi đã gọi đến tận nơi, mối buôn bán đưa đến cửa ông còn nói nhầm cái gì mà nhầm hả?
Cúp điện thoại, ông nghiêm túc báo cáo với cô: “Số điện thoại là Nang Khiêm, nói là ở một công trường xây dựng, bảo tôi giao cơm hộp đến.”
Hai tiếng sau, Tư Đằng đứng trước bức tường đầy nước thải trước công trường. Nơi này chắc là nơi tụ họp dùng cơm thường ngày của công nhân, hộp cơm vứt đó cứ cách mấy ngày mới thu dọn một lần. Trên tường có hai hàng chữ to bắt mắt viết số điện thoại giao cơm hộp.
Một công nhân xây dựng mang nón bảo hộ gân cổ nói với Nhan Phúc Thụy: “Tháng trước đầu bếp bị tấm xi măng đè, không ai nấu cơm cả. Chúng tôi liên lạc người bán cơm gần đây, một công trường có đến mấy chục người. Bây giờ là tám đồng một phần, các người là năm đồng, giá tiền rẻ nhưng phải cam đoan là có thịt, còn có canh…”
Trên tường vốn đã có một số điện thoại giao cơm hộp, bên dưới có thêm một dãy, cách viết giống hệt với dãy trên:
“Cơm hộp, năm đồng, điện thoại: 135xxxx3476, Tư.”
/108
|