Vì sao không thể là mẹ ruột của mình đây? Đôi khi, huyết thống không thể đánh đồng với tình thân.
La Nhận im lặng một hồi: Lúc đó, trong lòng tràn ngập khoái cảm trả thù, hiện giờ nhớ lại, đã không còn cảm giác gì nữa, không hận, cũng chẳng yêu.
Thờ ơ thì đúng hơn.
Mộc Đại tưởng rằng anh khó chịu, thở dài an ủi anh: “Có đôi khi, mọi chuyện là vậy đấy, em cũng chẳng khá hơn anh là bao. Anh biết không, em được dì Hồng nhận nuôi — mẹ đã bỏ em lại cô nhi viện.”
La Nhận thoáng ngoài ý muốn nhìn Mộc Đại, đương nhiên, anh biết rõ Mộc Đại được Hoắc Tử Hồng nhận nuôi, nhưng anh luôn cho rằng, Mộc Đại được gửi vào cô nhi viện khi còn rất nhỏ, không nhớ những chi tiết liên quan cho chuyện này.
Nhưng cô lại nhớ rõ.
“Em cũng không nhớ rõ mặt bà ấy, chỉ nhớ rằng, bà dắt em đi, dưới chân là đôi giày cao gót bằng da màu đen, keo dán dưới gót giày sắp bong đến nơi, dáng đi xiêu xiêu vẹo vẹo. Em nhìn chằm chằm vào chân bà, chỉ sợ bà ấy ngã. Sau đó, bà dẫn em tới trước một cánh cổng lớn, đưa cho em một quả đào, bảo em ngồi đó và nói, bà phải đi có việc, dặn em không được chạy lung tung.”
Mộc Đại thở dài, nằm về chỗ cũ.
Sau này, Hoắc Tử Hồng cũng từng hỏi cô, nhưng cô nói không nhớ rõ, sự chú ý của trẻ con thật kỳ lạ, chỉ nhớ rõ vài chuyện nhỏ không đáng kể, ví như đôi giày cao gót sắp hỏng, lại ví như… Quả đào kia.
Đó là một trái đào mật, đỏ hồng mềm mại, vừa ngửi liền dậy mùi hoa quả. Sau khi rửa sạch sẽ, cô ôm nó trong tay, tiếc không dám ăn, cứ một lúc lại đưa lên mũi ngửi, sau đó nuốt nước miếng.
Cô chưa ăn, muốn chờ mẹ về mới cắn miếng đầu tiên, làm vậy sẽ khiến mẹ thấy rằng, cô là đứa bé biết suy nghĩ, sẽ càng thích cô hơn.
Vì sao lúc ấy lại có ý nghĩ như vậy nhỉ?
Cô ngoan ngoãn ngồi trên tảng đá ngoài cửa cô nhi viện, tay cầm quả đào, ngồi từ lúc mặt trời ngả về tây cho đến chập tối, các bác gái trong cô nhi viện đi ra đi vào, cô lại không vào.
Sau này, người quản lý đi ra, dỗ dành cô: “Bọn cô là bạn của mẹ cháu, mẹ cháu để cháu ngủ lại đây đêm nay.”
Mộc Đại tự cho là thông minh hỏi: “Nếu cô thật sự là bạn của mẹ cháu, vậy cô có biết mẹ cháu tên gì không?”
…
Cuối cùng, cô vẫn ở lại đó, hằng ngày ôm quả đào, trân trọng như báu vật, không cho ai động vào, buổi tối đi ngủ lại kê lên chăn, vào toilet cũng phải ôm theo, sợ bị ai trộm mất.
Cuối cùng, quả đào kia thối rữa, cô cho rằng quả đào bị ốm, đặt nó lên gối, đắp chăn cho nó, còn học dáng vẻ khi mẹ dỗ cô ngủ, nhẹ nhàng vỗ chăn, bắt chước cách nói chuyện của bác sỹ: “Uống thuốc rồi sẽ khá hơn.”
Quả đào vẫn thối, dính đầy nước lên tay cô, chính cô mang nó ra chỗ thùng rác, kiễng chân rồi ném vào.
Mộc Đại không khóc, không rơi một giọt nước mắt nào, chỉ là sau này, mỗi lần ăn đào lại bị dị ứng.
Tiếp sau đó, cô có thể kể chuyện này với người khác bằng giọng điệu thoải mái, tựa như chia sẻ một bí mật “vì cậu là bạn tôi nên tôi mới kể cho cậu nghe đấy”.
Trước đây, chắc hẳn Mộc Đại rất đáng yêu, ai nỡ vứt bỏ cô con gái trắng trẻo đáng yêu như vậy chứ?
La Nhận khe khẽ thở dài.
Mộc Đại hỏi anh: “Sau đó thì sao, gia đình không nhận anh, chú La Văn Miểu giúp anh sao?”
La Nhận cười ha ha, sao có thế có chuyện đó, ngày ấy, anh rất cao ngạo, đè nén oán hận, đâu có chuyện quay lại trước mặt Sính Đình như một con gà trống thất bại, hết lần này đến lần khác tìm kiếm sự che chở của chú La Văn Miểu? Anh đã là người trưởng thành rồi.
“Tôi đã làm một chuyện mà sau này ngẫm lại rất ấu trĩ, nhưng lúc ấy thật hả giận. Tôi cúp điện thoại, xé rách hộ chiếu trước mặt bạn bè và nói ‘cứ thế đi, tôi không về nữa’.”
Đón nhận ánh mắt kinh ngạc của Mộc Đại, La Nhận đáp lại cô bằng một câu trả lời khẳng định: “Thật đấy, tôi sống ở Đông Nam Á bốn năm, phần lớn thời gian ở Philippines.”
Mộc Đại lắp bắp: “Vậy…… Vậy anh rất vất vả phải không?”
Không có hộ chiếu, không có chứng minh thư, sao có thể tìm được công việc phù hợp đây, hệt như dân nhập cư trái phép, chỉ có thể làm những công việc mà người ta hay chiếu trên TV: Từ rửa bát, dọn bàn, đến đánh quyền anh, làm những công việc chân tay mà dân bản xứ coi rẻ?
Đợi đã, cô nhớ tới những khách hàng trước kia từng đến quán bar, họ từng tán gẫu với nhau rằng, bên Đông Nam Á, ngành mại dâm rất phát triển, bất kể nam hay nữ, chẳng lẽ La Nhận…
Mộc Đại hoảng hốt bởi ý nghĩ của mình, không được, để ném ý nghĩ hoang đường này ra khỏi đầu, cô phải hỏi rõ ràng: “Ở đó, anh… Làm nghề gì?”
Lúc này, La Nhận im lặng lâu hơn những lần trước.
Ngay khi Mộc Đại sắp mất kiên nhẫn, anh mới từ từ mở miệng.
“Tôi làm thuê cho những tổ chức vũ trang tư nhân địa phương, một kiểu như lính đánh thuê.”
Lính đánh thuê? Hình như cô từng nghe nói về họ, nhưng những người này thường gắn liền với chiến trường Iraq, Trung Đông, vân vân. Với Mộc Đại, giống như một thế giới khác vậy.
La Nhận cười cười: “Có lẽ em không biết, tình hình ở Philippines khá đặc thù.”
Đương nhiên rất khác biệt, ở Philippines, lực lượng vũ trang phản chính phủ xung đột với chính phủ bốn mươi năm, hơn mười lăm vạn người tử vong trong các vụ bạo lực, bắt cóc, đánh nhau bằng vũ khí, vô số sự kiện mang tính chất chủ nghĩa cực đoan, nhất là khu vực phía Nam, ở đó phát sinh rất nhiều vụ bắt cóc nhằm vào những Hoa Kiều giàu có và du khách nước ngoài. Thậm chí có dấu hiệu cho thấy, bởi đội ngũ cảnh sát đội hủ bại, nhiều vụ bắt cóc thật ra có sự tham dự của cảnh sát, khiến dân chúng cảm thấy vô cùng bất an. Khi gặp sự cố, họ không muốn báo cảnh sát, trái lại tìm con đường khác.
Tổ chức vũ trang dùng súng tư nhân gặp thời cơ mà ra đời, so với những tập đoàn bắt cóc tống tiền, động vào liền ra giá hơn một nghìn đô la Mỹ, mức thù lao của lính đánh thuê tương đối xa xỉ và hợp lý. Có những lúc, các cuộc đụng độ giữa các băng cướp cũng ác liệt không kém một cuộc chiến tranh nhỏ.
Lính đánh thuê phần lớn chiêu mộ thành viên đến từ bộ đội đặc chủng xuất ngũ nước ngoài, song cũng không giới hạn, người bình dân hoặc những kẻ liều chết cũng có thể tham gia, chỉ cần vượt qua đợt huấn luyện khắc nghiệt là có thể gia nhập binh đoàn.
Mộc Đại sửng sốt hồi lâu, yên lặng sắp xếp lại trật tự thời gian: “Vậy sau đó, vì nhà Sính Đình gặp chuyện không may nên anh mới quay về sao?”
La Nhận lắc đầu: “Trước khi nhà Sính Đình gặp chuyện không may, tôi từng xích mích với người bên kia, không thể tiếp tục ở lại.”
Xích mích với người khác? Đó là ai?
Cơn uể oải tối nay, cùng tâm trạng hậm hực lúc trước, so với câu chuyện cũ của La Nhận, tầm thường đến mức không đáng nhắc tới.
Trong bóng đêm, La Nhận giống như đến từ thế giới khác, Mộc Đại bất giác thu mình lại.
La Nhận cười rộ lên, giọng nói chứa đầy tự trào cùng phiền muộn: “Đôi khi, mang theo bí mật, trái lại có thể đến gần nhau, nói ra mới thấy, khoảng cách giữa chúng ta càng trở nên xa hơn.”
Anh khép mắt lại, nói: “Khuya rồi, ngủ đi.”
***
Sáng hôm sau, Mộc Đại bị đánh thức bởi tiếng nói chuyện rì rầm, lúc mở mắt, cô thoáng giật mình sửng sốt, lúc này mới nhận ra mình ngủ lại nhà La Nhận.
Mộc Đại nhanh chóng đẩy cửa tủ ra, La Nhận không ở trong phòng, đệm hơi đã được gấp gọn gàng, đặt bên cạnh đôi giày da trâu của cô.
Không phải đôi giày đã vứt đi kia, chắc hẳn buổi sáng La Nhận đến quán bar rồi mang về. Lúc xỏ chân vào giày, lòng Mộc Đại khẽ mất mát.
Đêm dài trôi qua chậm rãi, cùng ở chung một phòng, hai bên vốn có cảm tình với nhau, sau khi chia sẻ nỗi lòng, chắc hẳn tình cảm càng tiến thêm một bước. Chỉ là, vì sao ngay chính cô cũng cảm thấy, dường như khoảng cách với La Nhận đột nhiên xa hơn?
Ôm một bụng tâm sự, Mộc Đại bước xuống cầu thang, ngay cả tiếng bước chân cũng nặng nề hơn ngày thường.
Nhất Vạn Tam cũng có mặt, anh ta đang ngồi bên ao cá nhỏ, chơi đùa với Sính Đình.
Nhàn nhã quá nhỉ! Quán bar hết việc để làm rồi sao? Mộc Đại cau mày tiến lại gần, còn chưa kịp mở miệng, Nhất Vạn Tam đã “ra đòn phủ đầu”: “Cô chủ nhỏ, La Nhận gọi điện thoại, bảo tôi mang giày đến cho cô.”
Anh ta tiếp tục bổ sung: “Bác Trịnh vừa ra ngoài mua đồ ăn, dặn tôi chơi với Sính Đình.”
Lý lẽ đàng hoàng, khiến Mộc Đại không thể tiếp tục chất vấn(*), cô “à” một tiếng, nhìn trái nhìn phải rồi hỏi: “Vậy La Nhận đâu?”
(*) Nguyên văn là Không thể tìm xương trong trứng gà: Không thể tìm thấy thứ không tồn tại, muốn bới lông tìm vết, soi mói cũng không được.
Nhất Vạn Tam lắc đầu: “Không trông thấy.”
Anh ta mải nói chuyện với Mộc Đại, bỏ quên Sính Đình, Sính Đình mất hứng lườm Mộc Đại, lại kéo tay Nhất Vạn Tam: “Anh Tiểu Đao, anh nhanh tay lên!”
Anh… Anh… Tiểu Đao?
Mộc Đại hoảng sợ, nhìn chằm chằm Nhất Vạn Tam: “Cô ấy vừa gọi anh là ‘anh Tiểu Đao’ hả?”
Nhất Vạn Tam cũng bất đắc dĩ: “Ai biết được, hai ngày trước Sính ĐÌnh bỗng gọi tôi như vậy, tôi cũng hoảng sợ. Có điều, bác Trịnh bảo tôi đừng để ý, cô biết đấy, chúng ta đâu thể… nói rõ trắng đen với cô ấy được.”
Vừa dứt lời, giọng nói chợt hạ thấp xuống, dẫu biết Sính Đình không hiểu, song vẫn không thể không quan tâm đến cảm xúc của cô.
Sao anh Tiểu Đao cứ nói chuyện với đứa con gái này thế nhỉ?! Anh Tiểu Đao không muốn tết vòng tay cho mình sao? Sính Đình hết sức tức giận, ném vòng tay đi, đứng bật dậy, cuộn len màu đỏ trên đầu gối rơi xuống, xoay tròn rồi lăn sang một bên, kéo dài thành một đường chỉ đỏ trên mặt đất.
Đáy lòng trào dâng thứ cảm giác khác thường, song không thể nói rõ vì sao, lúc bước tới cửa, Mộc Đại khẽ quay đầu lại một cách đăm chiêu.
Lúc này, Nhất Vạn Tam một mặt dỗ Sính Đình, một mặt xoay người nhặt cuộn len dưới đất lên, quấn chặt lại.
***
Cả ngày đều không gặp lại La Nhận, ngay cả buổi tối cũng không thấy anh xuất hiện, Mộc Đại không kìm được nhìn về phía chiếc bàn La Nhận thường hay ngồi vài ba lần.
Đêm nay, một người đàn ông béo tròn ngồi vị trí đó, anh ta gọi một cốc cà phê, lúc uống phát ra tiếng xì xụp, hệt như hà mã uống nước, cách một quãng xa cũng có thể nghe thấy.
Lúc không phải bưng bê đồ uống, Mộc Đại lật lại sổ ghi chép ý kiến khách hàng, nét chữ của La Nhận chợt hiện ra, cứng cáp mà đẹp đẽ.
— Nhân viên phục vụ đối xử nhiệt tình với khách, đáng được khen ngợi.
Muốn cười, nhưng lại không cười nổi, phiền muộn thầm nghĩ, một người như La Nhận, sao có thể kiên nhẫn, chiều theo ý cô như vậy nhỉ?
Chú Trương đi tới, nói: “La Nhận đã kể cho chú nghe về chuyện xảy ra hôm qua.”
Mộc Đại “dạ” một tiếng.
“Là người nhà của họ à?”
“Vâng ạ.”
Chú Trương có chút căng thẳng: “Cháu… Không làm gì chứ?”
Mộc Đại nhìn chú Trương rồi mỉm cười, nụ cười mà ngay chính cô cũng thấy thê lương: “Chú Trương, cháu có thể làm gì được đây, người ta không lôi chau ra chém, cháu đã thấy đủ lắm rồi.”
Chú Trương có phần ngượng ngùng : “Chuyện trước kia cũng không thể trách cháu.”
Mộc Đại cười có phần cuồng loạn: “Chú nói không đúng, chú cảm thấy đó là lỗi của cháu, dì Hồng cũng nghĩ đó là trách nhiệm của cháu, bằng không vì sao chúng ta lại phải chuyển nhà, bằng không vì sao phản ứng đầu tiên của chú lại là ‘cháu không làm gì chứ’, chú sợ cháu ra tay, chú cho rằng cháu vốn có tội, nếu dám đánh người ta, tội càng thêm nặng.”
Cô tức giận nói, ngực phập phồng mãnh liệt, chú Trương xấu hổ thở dài, trong giây phút căng thẳng, Nhất Vạn Tam buồn bực ghé đầu lại: “Hai người đang tán gẫu chuyện gì thế?”
Mũi Mộc Đại nghèn nghẹt, cô cởi tạp dề xuống đặt lên quầy bar: “Tôi có chuyện buồn, ra ngoài đi dạo một chút.”
***
Trong lòng buồn phiền.
Trước kia, lúc ở sông Tiểu Thương, La Nhận từng kể cho cô về năm đại hình thời thượng cổ, trong đó có một loại hành hình gọi là Mặc, hay còn gọi là xăm mặt, tội trạng phạm phải được xăm lên mặt, hệt như cổng nhà bị hắt nước bẩn, cả đời bị người khác chỉ trỏ.
Nói cách khác, quá khứ đã trôi qua, nhưng cô cảm thấy, nó vĩnh viễn còn đó.
Không biết từ bao giờ, cô lại bước đến con ngõ nhỏ sau nhà La Nhận.
Đèn các phòng trên tầng hai đều sáng, dây thường xuân bám dầy đặc khắp nửa bờ tường, vây quanh cửa sổ gỗ chạm rỗng hình hoa, không thấy La Nhận đâu, lại thấy bóng dáng Sính Đình bận bịu đi qua cửa sổ vài lần.
Nhớ tới câu “anh Tiểu Đao” không kiên nhẫn của cô ấy, Mộc Đại bất giác mỉm cười, đứng một hồi, cô xoay người định rời đi, vừa mới cất bước, cô đột nhiên giật mình, quay đầu một cách không dám tin.
Cô đã hiểu vì sao Sính Đình đi qua đi lại bên cửa sổ.
Sính Đình đang nối dây, một sợi, hai sợi, ba sợi.
La Nhận im lặng một hồi: Lúc đó, trong lòng tràn ngập khoái cảm trả thù, hiện giờ nhớ lại, đã không còn cảm giác gì nữa, không hận, cũng chẳng yêu.
Thờ ơ thì đúng hơn.
Mộc Đại tưởng rằng anh khó chịu, thở dài an ủi anh: “Có đôi khi, mọi chuyện là vậy đấy, em cũng chẳng khá hơn anh là bao. Anh biết không, em được dì Hồng nhận nuôi — mẹ đã bỏ em lại cô nhi viện.”
La Nhận thoáng ngoài ý muốn nhìn Mộc Đại, đương nhiên, anh biết rõ Mộc Đại được Hoắc Tử Hồng nhận nuôi, nhưng anh luôn cho rằng, Mộc Đại được gửi vào cô nhi viện khi còn rất nhỏ, không nhớ những chi tiết liên quan cho chuyện này.
Nhưng cô lại nhớ rõ.
“Em cũng không nhớ rõ mặt bà ấy, chỉ nhớ rằng, bà dắt em đi, dưới chân là đôi giày cao gót bằng da màu đen, keo dán dưới gót giày sắp bong đến nơi, dáng đi xiêu xiêu vẹo vẹo. Em nhìn chằm chằm vào chân bà, chỉ sợ bà ấy ngã. Sau đó, bà dẫn em tới trước một cánh cổng lớn, đưa cho em một quả đào, bảo em ngồi đó và nói, bà phải đi có việc, dặn em không được chạy lung tung.”
Mộc Đại thở dài, nằm về chỗ cũ.
Sau này, Hoắc Tử Hồng cũng từng hỏi cô, nhưng cô nói không nhớ rõ, sự chú ý của trẻ con thật kỳ lạ, chỉ nhớ rõ vài chuyện nhỏ không đáng kể, ví như đôi giày cao gót sắp hỏng, lại ví như… Quả đào kia.
Đó là một trái đào mật, đỏ hồng mềm mại, vừa ngửi liền dậy mùi hoa quả. Sau khi rửa sạch sẽ, cô ôm nó trong tay, tiếc không dám ăn, cứ một lúc lại đưa lên mũi ngửi, sau đó nuốt nước miếng.
Cô chưa ăn, muốn chờ mẹ về mới cắn miếng đầu tiên, làm vậy sẽ khiến mẹ thấy rằng, cô là đứa bé biết suy nghĩ, sẽ càng thích cô hơn.
Vì sao lúc ấy lại có ý nghĩ như vậy nhỉ?
Cô ngoan ngoãn ngồi trên tảng đá ngoài cửa cô nhi viện, tay cầm quả đào, ngồi từ lúc mặt trời ngả về tây cho đến chập tối, các bác gái trong cô nhi viện đi ra đi vào, cô lại không vào.
Sau này, người quản lý đi ra, dỗ dành cô: “Bọn cô là bạn của mẹ cháu, mẹ cháu để cháu ngủ lại đây đêm nay.”
Mộc Đại tự cho là thông minh hỏi: “Nếu cô thật sự là bạn của mẹ cháu, vậy cô có biết mẹ cháu tên gì không?”
…
Cuối cùng, cô vẫn ở lại đó, hằng ngày ôm quả đào, trân trọng như báu vật, không cho ai động vào, buổi tối đi ngủ lại kê lên chăn, vào toilet cũng phải ôm theo, sợ bị ai trộm mất.
Cuối cùng, quả đào kia thối rữa, cô cho rằng quả đào bị ốm, đặt nó lên gối, đắp chăn cho nó, còn học dáng vẻ khi mẹ dỗ cô ngủ, nhẹ nhàng vỗ chăn, bắt chước cách nói chuyện của bác sỹ: “Uống thuốc rồi sẽ khá hơn.”
Quả đào vẫn thối, dính đầy nước lên tay cô, chính cô mang nó ra chỗ thùng rác, kiễng chân rồi ném vào.
Mộc Đại không khóc, không rơi một giọt nước mắt nào, chỉ là sau này, mỗi lần ăn đào lại bị dị ứng.
Tiếp sau đó, cô có thể kể chuyện này với người khác bằng giọng điệu thoải mái, tựa như chia sẻ một bí mật “vì cậu là bạn tôi nên tôi mới kể cho cậu nghe đấy”.
Trước đây, chắc hẳn Mộc Đại rất đáng yêu, ai nỡ vứt bỏ cô con gái trắng trẻo đáng yêu như vậy chứ?
La Nhận khe khẽ thở dài.
Mộc Đại hỏi anh: “Sau đó thì sao, gia đình không nhận anh, chú La Văn Miểu giúp anh sao?”
La Nhận cười ha ha, sao có thế có chuyện đó, ngày ấy, anh rất cao ngạo, đè nén oán hận, đâu có chuyện quay lại trước mặt Sính Đình như một con gà trống thất bại, hết lần này đến lần khác tìm kiếm sự che chở của chú La Văn Miểu? Anh đã là người trưởng thành rồi.
“Tôi đã làm một chuyện mà sau này ngẫm lại rất ấu trĩ, nhưng lúc ấy thật hả giận. Tôi cúp điện thoại, xé rách hộ chiếu trước mặt bạn bè và nói ‘cứ thế đi, tôi không về nữa’.”
Đón nhận ánh mắt kinh ngạc của Mộc Đại, La Nhận đáp lại cô bằng một câu trả lời khẳng định: “Thật đấy, tôi sống ở Đông Nam Á bốn năm, phần lớn thời gian ở Philippines.”
Mộc Đại lắp bắp: “Vậy…… Vậy anh rất vất vả phải không?”
Không có hộ chiếu, không có chứng minh thư, sao có thể tìm được công việc phù hợp đây, hệt như dân nhập cư trái phép, chỉ có thể làm những công việc mà người ta hay chiếu trên TV: Từ rửa bát, dọn bàn, đến đánh quyền anh, làm những công việc chân tay mà dân bản xứ coi rẻ?
Đợi đã, cô nhớ tới những khách hàng trước kia từng đến quán bar, họ từng tán gẫu với nhau rằng, bên Đông Nam Á, ngành mại dâm rất phát triển, bất kể nam hay nữ, chẳng lẽ La Nhận…
Mộc Đại hoảng hốt bởi ý nghĩ của mình, không được, để ném ý nghĩ hoang đường này ra khỏi đầu, cô phải hỏi rõ ràng: “Ở đó, anh… Làm nghề gì?”
Lúc này, La Nhận im lặng lâu hơn những lần trước.
Ngay khi Mộc Đại sắp mất kiên nhẫn, anh mới từ từ mở miệng.
“Tôi làm thuê cho những tổ chức vũ trang tư nhân địa phương, một kiểu như lính đánh thuê.”
Lính đánh thuê? Hình như cô từng nghe nói về họ, nhưng những người này thường gắn liền với chiến trường Iraq, Trung Đông, vân vân. Với Mộc Đại, giống như một thế giới khác vậy.
La Nhận cười cười: “Có lẽ em không biết, tình hình ở Philippines khá đặc thù.”
Đương nhiên rất khác biệt, ở Philippines, lực lượng vũ trang phản chính phủ xung đột với chính phủ bốn mươi năm, hơn mười lăm vạn người tử vong trong các vụ bạo lực, bắt cóc, đánh nhau bằng vũ khí, vô số sự kiện mang tính chất chủ nghĩa cực đoan, nhất là khu vực phía Nam, ở đó phát sinh rất nhiều vụ bắt cóc nhằm vào những Hoa Kiều giàu có và du khách nước ngoài. Thậm chí có dấu hiệu cho thấy, bởi đội ngũ cảnh sát đội hủ bại, nhiều vụ bắt cóc thật ra có sự tham dự của cảnh sát, khiến dân chúng cảm thấy vô cùng bất an. Khi gặp sự cố, họ không muốn báo cảnh sát, trái lại tìm con đường khác.
Tổ chức vũ trang dùng súng tư nhân gặp thời cơ mà ra đời, so với những tập đoàn bắt cóc tống tiền, động vào liền ra giá hơn một nghìn đô la Mỹ, mức thù lao của lính đánh thuê tương đối xa xỉ và hợp lý. Có những lúc, các cuộc đụng độ giữa các băng cướp cũng ác liệt không kém một cuộc chiến tranh nhỏ.
Lính đánh thuê phần lớn chiêu mộ thành viên đến từ bộ đội đặc chủng xuất ngũ nước ngoài, song cũng không giới hạn, người bình dân hoặc những kẻ liều chết cũng có thể tham gia, chỉ cần vượt qua đợt huấn luyện khắc nghiệt là có thể gia nhập binh đoàn.
Mộc Đại sửng sốt hồi lâu, yên lặng sắp xếp lại trật tự thời gian: “Vậy sau đó, vì nhà Sính Đình gặp chuyện không may nên anh mới quay về sao?”
La Nhận lắc đầu: “Trước khi nhà Sính Đình gặp chuyện không may, tôi từng xích mích với người bên kia, không thể tiếp tục ở lại.”
Xích mích với người khác? Đó là ai?
Cơn uể oải tối nay, cùng tâm trạng hậm hực lúc trước, so với câu chuyện cũ của La Nhận, tầm thường đến mức không đáng nhắc tới.
Trong bóng đêm, La Nhận giống như đến từ thế giới khác, Mộc Đại bất giác thu mình lại.
La Nhận cười rộ lên, giọng nói chứa đầy tự trào cùng phiền muộn: “Đôi khi, mang theo bí mật, trái lại có thể đến gần nhau, nói ra mới thấy, khoảng cách giữa chúng ta càng trở nên xa hơn.”
Anh khép mắt lại, nói: “Khuya rồi, ngủ đi.”
***
Sáng hôm sau, Mộc Đại bị đánh thức bởi tiếng nói chuyện rì rầm, lúc mở mắt, cô thoáng giật mình sửng sốt, lúc này mới nhận ra mình ngủ lại nhà La Nhận.
Mộc Đại nhanh chóng đẩy cửa tủ ra, La Nhận không ở trong phòng, đệm hơi đã được gấp gọn gàng, đặt bên cạnh đôi giày da trâu của cô.
Không phải đôi giày đã vứt đi kia, chắc hẳn buổi sáng La Nhận đến quán bar rồi mang về. Lúc xỏ chân vào giày, lòng Mộc Đại khẽ mất mát.
Đêm dài trôi qua chậm rãi, cùng ở chung một phòng, hai bên vốn có cảm tình với nhau, sau khi chia sẻ nỗi lòng, chắc hẳn tình cảm càng tiến thêm một bước. Chỉ là, vì sao ngay chính cô cũng cảm thấy, dường như khoảng cách với La Nhận đột nhiên xa hơn?
Ôm một bụng tâm sự, Mộc Đại bước xuống cầu thang, ngay cả tiếng bước chân cũng nặng nề hơn ngày thường.
Nhất Vạn Tam cũng có mặt, anh ta đang ngồi bên ao cá nhỏ, chơi đùa với Sính Đình.
Nhàn nhã quá nhỉ! Quán bar hết việc để làm rồi sao? Mộc Đại cau mày tiến lại gần, còn chưa kịp mở miệng, Nhất Vạn Tam đã “ra đòn phủ đầu”: “Cô chủ nhỏ, La Nhận gọi điện thoại, bảo tôi mang giày đến cho cô.”
Anh ta tiếp tục bổ sung: “Bác Trịnh vừa ra ngoài mua đồ ăn, dặn tôi chơi với Sính Đình.”
Lý lẽ đàng hoàng, khiến Mộc Đại không thể tiếp tục chất vấn(*), cô “à” một tiếng, nhìn trái nhìn phải rồi hỏi: “Vậy La Nhận đâu?”
(*) Nguyên văn là Không thể tìm xương trong trứng gà: Không thể tìm thấy thứ không tồn tại, muốn bới lông tìm vết, soi mói cũng không được.
Nhất Vạn Tam lắc đầu: “Không trông thấy.”
Anh ta mải nói chuyện với Mộc Đại, bỏ quên Sính Đình, Sính Đình mất hứng lườm Mộc Đại, lại kéo tay Nhất Vạn Tam: “Anh Tiểu Đao, anh nhanh tay lên!”
Anh… Anh… Tiểu Đao?
Mộc Đại hoảng sợ, nhìn chằm chằm Nhất Vạn Tam: “Cô ấy vừa gọi anh là ‘anh Tiểu Đao’ hả?”
Nhất Vạn Tam cũng bất đắc dĩ: “Ai biết được, hai ngày trước Sính ĐÌnh bỗng gọi tôi như vậy, tôi cũng hoảng sợ. Có điều, bác Trịnh bảo tôi đừng để ý, cô biết đấy, chúng ta đâu thể… nói rõ trắng đen với cô ấy được.”
Vừa dứt lời, giọng nói chợt hạ thấp xuống, dẫu biết Sính Đình không hiểu, song vẫn không thể không quan tâm đến cảm xúc của cô.
Sao anh Tiểu Đao cứ nói chuyện với đứa con gái này thế nhỉ?! Anh Tiểu Đao không muốn tết vòng tay cho mình sao? Sính Đình hết sức tức giận, ném vòng tay đi, đứng bật dậy, cuộn len màu đỏ trên đầu gối rơi xuống, xoay tròn rồi lăn sang một bên, kéo dài thành một đường chỉ đỏ trên mặt đất.
Đáy lòng trào dâng thứ cảm giác khác thường, song không thể nói rõ vì sao, lúc bước tới cửa, Mộc Đại khẽ quay đầu lại một cách đăm chiêu.
Lúc này, Nhất Vạn Tam một mặt dỗ Sính Đình, một mặt xoay người nhặt cuộn len dưới đất lên, quấn chặt lại.
***
Cả ngày đều không gặp lại La Nhận, ngay cả buổi tối cũng không thấy anh xuất hiện, Mộc Đại không kìm được nhìn về phía chiếc bàn La Nhận thường hay ngồi vài ba lần.
Đêm nay, một người đàn ông béo tròn ngồi vị trí đó, anh ta gọi một cốc cà phê, lúc uống phát ra tiếng xì xụp, hệt như hà mã uống nước, cách một quãng xa cũng có thể nghe thấy.
Lúc không phải bưng bê đồ uống, Mộc Đại lật lại sổ ghi chép ý kiến khách hàng, nét chữ của La Nhận chợt hiện ra, cứng cáp mà đẹp đẽ.
— Nhân viên phục vụ đối xử nhiệt tình với khách, đáng được khen ngợi.
Muốn cười, nhưng lại không cười nổi, phiền muộn thầm nghĩ, một người như La Nhận, sao có thể kiên nhẫn, chiều theo ý cô như vậy nhỉ?
Chú Trương đi tới, nói: “La Nhận đã kể cho chú nghe về chuyện xảy ra hôm qua.”
Mộc Đại “dạ” một tiếng.
“Là người nhà của họ à?”
“Vâng ạ.”
Chú Trương có chút căng thẳng: “Cháu… Không làm gì chứ?”
Mộc Đại nhìn chú Trương rồi mỉm cười, nụ cười mà ngay chính cô cũng thấy thê lương: “Chú Trương, cháu có thể làm gì được đây, người ta không lôi chau ra chém, cháu đã thấy đủ lắm rồi.”
Chú Trương có phần ngượng ngùng : “Chuyện trước kia cũng không thể trách cháu.”
Mộc Đại cười có phần cuồng loạn: “Chú nói không đúng, chú cảm thấy đó là lỗi của cháu, dì Hồng cũng nghĩ đó là trách nhiệm của cháu, bằng không vì sao chúng ta lại phải chuyển nhà, bằng không vì sao phản ứng đầu tiên của chú lại là ‘cháu không làm gì chứ’, chú sợ cháu ra tay, chú cho rằng cháu vốn có tội, nếu dám đánh người ta, tội càng thêm nặng.”
Cô tức giận nói, ngực phập phồng mãnh liệt, chú Trương xấu hổ thở dài, trong giây phút căng thẳng, Nhất Vạn Tam buồn bực ghé đầu lại: “Hai người đang tán gẫu chuyện gì thế?”
Mũi Mộc Đại nghèn nghẹt, cô cởi tạp dề xuống đặt lên quầy bar: “Tôi có chuyện buồn, ra ngoài đi dạo một chút.”
***
Trong lòng buồn phiền.
Trước kia, lúc ở sông Tiểu Thương, La Nhận từng kể cho cô về năm đại hình thời thượng cổ, trong đó có một loại hành hình gọi là Mặc, hay còn gọi là xăm mặt, tội trạng phạm phải được xăm lên mặt, hệt như cổng nhà bị hắt nước bẩn, cả đời bị người khác chỉ trỏ.
Nói cách khác, quá khứ đã trôi qua, nhưng cô cảm thấy, nó vĩnh viễn còn đó.
Không biết từ bao giờ, cô lại bước đến con ngõ nhỏ sau nhà La Nhận.
Đèn các phòng trên tầng hai đều sáng, dây thường xuân bám dầy đặc khắp nửa bờ tường, vây quanh cửa sổ gỗ chạm rỗng hình hoa, không thấy La Nhận đâu, lại thấy bóng dáng Sính Đình bận bịu đi qua cửa sổ vài lần.
Nhớ tới câu “anh Tiểu Đao” không kiên nhẫn của cô ấy, Mộc Đại bất giác mỉm cười, đứng một hồi, cô xoay người định rời đi, vừa mới cất bước, cô đột nhiên giật mình, quay đầu một cách không dám tin.
Cô đã hiểu vì sao Sính Đình đi qua đi lại bên cửa sổ.
Sính Đình đang nối dây, một sợi, hai sợi, ba sợi.
/127
|