Đám Thi Vô Đoan âm thầm nâng giá lương vốn là chuyện không khả thi.
Bởi vì vô luận là cướp hay tham ô từ nơi khác, trên thị trường lương thực Tây Bắc có một phần gạo lương không hề là lương thương tư nhân, mà là thuộc triều đình. Mệnh lệnh đầu tiên của Trương đại tướng quân sau khi nhậm chức chính là bảo quan viên các cấp khống chế nghiêm giá lương, nếu ai cả gan một mình nâng giá tích lương thì xử trảm theo luật.
Trương đại tướng quân một lòng vì dân, cho dù gánh ô danh “tướng quân cướp đường” thì vẫn tử thủở Hoàng Hổ lĩnh. Nhưng mà không phải mỗi người đều một lòng vì dân.
Thời Phổ Khánh, lương thực quan gia từ triều đình đến tay bách tính phải qua không ít người, tỷ như vận chuyển lương, gọi là tào quan, còn cần một chủ bộ của kho lương mỗi ngày kiểm tra bảo quản, thông thường là do quan địa phương nơi đó kiêm nhiệm, định giá thế nào, nắm giữ thế nào, đều có triều đình – cũng chính là Trương đại tướng quân thống nhất hạ lệnh, không được vi phạm.
Nhưng mà trên có lệnh, dưới… tự nhiên có thể không làm.
Tây Bắc tuy không phải miếng thịt béo nhưng đậu nành còn có thểép ra vài giọt dầu nữa là. Biện pháp người chủ bộ lương thực quan gia dùng đểđối phó Trương Chi Hiền cực kỳđơn giản – trộn thêm vào lương thực, ngoài cùng không nhìn ra nhưng cầm một vốc thì thấy bên trong lại lẫn cát đá linh tinh, trộn bao nhiêu cũng cần chúý, giá lương tư thương trên chợ nâng bao nhiêu, họ liền trộn bấy nhiêu, dù sao thì chẳng ai được lợi.
Việc này Trương Chi Hiền không hề biết, hắn vốn không phải người chuyên về nghề này, không có kinh nghiệm và tâm tư cẩn thận như vậy, đồng bào Trâu Yến Lai đang ở Hoài Châu cùng quân Khăn Đỏ cấu xéđến đỏ cả mắt, tiền bối Nhan đại nhân Bồ Tát bùn qua sông ngoài tầm tay với, thuộc hạ càng không ai nhắc nhở hắn – quan lại bao che cho nhau, mỗi người đều cầm phần lợi của mình, ai sẽđi đập bát cơm của ai đây?
HạĐoan Phương rải lời đồn, mướn xe ở các nơi trong thành, không ngừng phái người đi khắp nơi hỏi thăm lâm thời thuê kho lúa của các đại thương hộ… Tóm lại là nhảy trên lủi dưới, ngay cả chính hắn cũng suýt nữa tin làthật. Giống như phát ra cho các đại nhân béo núc, động một cái là toàn thân chảy mỡ một tín hiệu cực kỳ hấp dẫn – từ xưa ruồi bọ bay theo da, chỉ cần cái rắm này đánh vừa thối vừa vang thì chẳng lo lắng họ không cắn câu.
Đôi lúc hắn cũng đang suy nghĩ một việc, đồng thời tự thấy cực kỳ cóđạo lý.
Tạo phản là một chuyện khó cỡ nào?
Gió nổi từ gốc bèo, chỉ có khi triều đại thay đổi, anh hùng mới không hỏi xuất xứ, những người này chẳng qua là hạng nông dân giết chó, trong triều lại có từng lứa đại nho đại tướng quân văn thành võđức, mỗi người tài hoa nổi bật, phong lưu phóng khoáng, muốn bản lĩnh có bản lĩnh, muốn năng lực có năng lực.
Dựa vào cái gìđể thắng được họđây?
Ban đầu HạĐoan Phương cho rằng, là trong triều đập mục nát trên rễ, hắn cho là vương hầu tướng há có gan. Nhưng sau đó hắn đã biết Nhan Chân, biết Trâu Yến Lai, tự mình giao thủ với đông đảo tướng quân Phổ Khánh, thậm chí người trong giáo tông, mới phát hiện kỳ thật họ rất có gan. Dù là Thi VôĐoan người mình, coi như là“xuất thân hiển hách”–đệ tử quan môn của tiền chưởng môn Huyền Tông, nếu đạo tổ không chết, mông Thi VôĐoan ngồi trên hàng ghế nào thì còn phải chờ thương thảo.
Hiện tại HạĐoan Phương đã hiểu. Bởi vì trong lòng những người từng tạo phản đều có sự phẫn nộ, không phải sự phẫn nộ vung tay hô một câu, ngửa mặt lên trời thét dài, mà là năm này tháng nọ kìm nén trong xương máu, khiến mỗi người họđều chìa một tay, ôm lấy thân thểđồng bạn, cùng nhau vào sinh ra tử.
Mà trong đối thủ, tuy rằng nhân tài xuất hiện lớp lớp, nhưng mỗi nhân tài đều đang pháđám người khác.
Đến tháng mười một, Thi VôĐoan phái người cho HạĐoan Phương biết, sắp động thủđược rồi – gạch đã giơ lên cao, chỉ chờ hung tợn nện xuống.
Mười lăm tháng mười một, đám chủ bộ lương thực quan gia hoảng sợ phát hiện, những tư thương đó bán ra hàng loạt gạo lương nhưđã phát điên, lời đồn rộ lên thời gian trước không công tự phá, nhưng lời đồn phá rồi, giá lương cao chót vót bị việc trữ lương điên cuồng tạo thành lại không hề phá.
Giá lương đã lên đến đỉnh, Tây Bắc vốn lạnh sớm, lúc này càng vào sâu mùa đông, thương hộ dường nhưđoàn kết sẵn sàng, chiêu cáo xung quanh, lên án lương thực quan gia trộn cát đá, không thèm đểý sự sống chết của bách tính, tư thương liên hợp bán lương, muốn duy trì buổi chợ ba ngày để mọi người qua mùa đông.
Món nợ này là tính như thế– trước khi bọn Thi VôĐoan ẩn vào, chỉ nhìn thị trường lương thực Long Câu, giá gạo là một lượng bốn đồng một thạch, sau khi họ tự mua tự bán kinh doanh hai tháng, tư lương biến thành hai lượng bạc một đồng một thạch, mà khi HạĐoan Phương giả vờ giả vịt cho người đi thuê kho chuẩn bị lương, bởi vì hàng loạt lương thương và quan gia chủ bộ tích gạo, giá cả trong một tháng lên thẳng một mạch đến bốn lượng một thạch, còn không mua được lương thực tốt nhất.
Mười lăm tháng mười một, Thi VôĐoan lệnh người phá chợ, vừa khai trương đã giảm giá gạo xuống hai lượng hai đồng, bách tính chạy đi cho biết, đêm đó giá gạo đã vềđến hai lượng tám đồng, ngày hôm sau chủ bộlương thực quan gia phản ứng lại, biết đại sự không ổn, nhưng chẳng có biện pháp nào.
Lương thực ra vào bao nhiêu đều phải báo cho Trương Chi Hiền xin phê chuẩn, họ có thể giở trò tích gạo nâng giá một cách táo tợn, nhưng không thểép giá chịu thiệt theo tư thương.
Bằng không chẳng cách nào ăn nói được!
Khi họ ra roi thúc ngựa tụ tập chủ bộ các nơi cùng thương thảo xem làm sao đem chuyện này vo tròn trình tin tức cho Trương Chi Hiền ở Hoàng Hổ lĩnh, ngày thứ hai kể từ lúc khai trương, lương thực đã trở nên hỗn loạn, khai trương giá gạo hai lượng ba đồng, kẻ mua lương lại đều như là không cần tiền, tới ngày thứ ba lương trên tay Thi VôĐoan vốn có một phần được đám chủ bộ ngu ngốc tích lương chờ người khác mua giá cao gom đi, còn lại thìđã ra tay hết, cho đến lúc này, giá lương về tới một lượng chín đồng.
Thi Vô Đoan giống như một con chim ưng lượn vòng trên không, chuẩn bị lao xuống cắp con mồi bất cứ lúc nào, chỉ cần hạ miệng thì nhất định kéo theo một tảng thịt kèm máu.
Tiền này cơ hồ là tay không bắt sói trắng, Thi VôĐoan biết lúc này không thể giấu được, Trương Chi Hiền ở Hoàng Hổ lĩnh trong ba ngày tất cóđộng tĩnh, vì thế nhanh chóng qua tay tản tiền ra, ngoài thành Long Câu bốn mươi dặm chính là núi non liên miên, bắt đầu từ ngày Thi VôĐoan cải trang qua Hoàng Hổ lĩnh, đã một mặt tính kế tiền lương, một mặt cấu kết đại sơn phỉ nơi đây.
Gọi là sơn phỉ cũng không hẳn vậy, không ít người vốn chẳng qua là nông dân thợ săn bình thường, trong loạn thếđể sống tạm, không thể không liên tục chiếm núi làm vương, lần này bị cái bánh từ trên trời rơi xuống đập chắc nịch, cơ hồ quên mất mình họ gì, lập tức âm thầm đạt thành hiệp nghị với Thi VôĐoan, tựđeo khăn đỏ, muốn cùng Hoài Châu hôứng từ xa.
Đương nhiên – Thi VôĐoan sẽ không tin tưởng.
Bất cứ ai có tiền có người, đều sẽ bị dã tâm đốt đến quên mình họ gì, quyết không còn nhớ“ân nhân” từng ngu ngốc đẩy mình một phen kia là mấy mũi mấy mắt.
Y chỉ là vìđốt một mồi lửa sau lưng Trương Chi Hiền – chờđám ô hợp này tiêu sạch tiền rồi thì ngọn lửa cũng có thể hết thọ yên nghỉ, công thành lui thân.
Việc này y làm đâu vào đấy, phần cuối cùng cơ hồ là dao sắc chặt đay rối, ngày hôm sau liền dẫn người thần không biết quỷ không hay rút khỏi Long Câu, hóa chẵn thành lẻ, chui khỏi kẽ ngón tay Trương Chi Hiền.
Hôm ấy Lan Nhược nhìn thấy Thi VôĐoan lấy ra một tấm địa đồ vô cùng đặc biệt, bên trên có người dùng bút vạch một nét mảnh mạng lưới không nhìn ra là hình dạng gì, có bảy điểm, lúc nàng đưa thuốc cho con thỏ, phát hiện Thi VôĐoan vẽ một vòng trên một điểm trong đó.
Thi Vô Đoan cũng chẳng sợ nàng nhìn, buồn rầu mấy tháng, rốt cuộc hiếm được cười rạng rỡ với nàng, thậm chí nói thêm một câu: “Đây là ngọn đèn thứ nhất, đãđốt rồi.”
Lan Nhược không rõ nguyên cớ, cũng không dám hỏi lại, chỉ lăng lăng nghĩ thầm, lục gia cười thật làđẹp mà.
Nhưng Thi VôĐoan nhìn quét nàng một cái, nụ cười trên mặt dần mất đi, xua tay nói: “Ngày mai ngươi đi theo Hạđốc tra làđược, không cần quản ta nữa.”
Lan Nhược kinh hãi, thất thanh nói: “Lục gia không đi chung với mọi người?”
Thi Vô Đoan nói: “Không, ngươi không cần lo lắng, ta sẽ tự dẫn năm ba người đến một nơi, trở vềđại gia hay tứ nương hỏi thì cũng không hề gì, Hạđốc tra tự nhiên biết nên nói thế nào.”
Lan Nhược ngẩn ra hồi lâu, rốt cuộc đánh bạo nói: “Nếu… Nếu nô tỳđi rồi thì ai hầu hạ lục gia đây?”
Thi Vô Đoan nghiêng đầu, dường như muốn cười với nàng, nụ cười thoạt nhìn lại không chân thành lắm, y ôm con thỏ trầm mặc giây lát rồi mới nói: “Ta đâu phải người tinh tế gì, lăn lộn quen rồi, những năm qua không có ai hầu hạ, sống đến bây giờ cũng rất tốt, ngươi… ngươi là một cô nương tốt, trở vềđi theo tứ nương, tỷấy sẽ tự an bài cho một tiền đồ tốt.”
Lan Nhược vội nói: “Là nô tỳđã làm chuyện gì không vừa mắt lục gia, khiến lục gia ghét bỏ sao?”
Lúc nói lời này vành mắt nàng đỏ hoe, khóe mắt hơi xếch lên có vẻ càng thêm diễm lệ, Thi VôĐoan như bị màu đỏ nọ làm bỏng mắt một chút, vôý thức cúi đầu, bắt gặp ánh mắt không nói rõđược của con thỏ gần đất xa trời kia.
Rất lâu sau y khoát tay, lại không giải thích thêm, chỉ nói: “Ngươi là cô nương tốt, đi đi.”
Sau đó một tay bưng bát trà, ánh mắt dừng ở công văn sổ sách trên bàn, lại làý tứ tiễn khách, không đểý tới nàng nữa.
Lan Nhược mắt ngấn lệ, quay đầu bưng mặt nhanh chóng chạy ra ngoài.
Sáng sớm hôm sau, Thi VôĐoan và mọi người mỗi người đi một ngả, dẫn mấy thị vệ lên đường, y không hềđi hướng nam, mà là hướng đông, ngông nghênh cùng Trương Chi Hiền sượt vai nhau, qua Trường Bình quan và thảo nguyên ÔĐồ, đến BồĐề sơn nơi cực bắc, đứng dưới chân núi tuyết đọng quanh năm.
BồĐề sơn – chính là nơi Đại Thừa giáo tông sở tại.
Dù cho không ít thảo dược, con thỏ trong lòng y lại ngày một kém hơn, khá có xu thế như mặt trời sắp lặn, Thi VôĐoan đứng giữa bãi cỏ rậm rạp dưới BồĐề sơn, dõi mắt trông về phía xa, lại phát hiện chẳng nhìn thấy gì hết, trừ tuyết vẫn là tuyết, trừ núi vẫn là núi, chỉ có khi ánh dương chiếu trên tuyết mới có một chút thần thánh bất cận nhân tình như vậy.
Y thở dài, đặt con thỏ xuống đất, định đểđám cỏ khô cao không quá mắt cá chân đóđánh thức nó.
Nhưng nó không hề nhúc nhích, mặt hướng về phương đông, chẳng ai biết nóđang nhìn những gì.
Chẳng ai biết, có lẽ có một người toàn thân trắng như tuyết, đang đứng trên đảo nhỏởĐông Hải nơi cực đông, dường như cảm giác được điều gìđó, xuyên qua đại hải mênh mang, dõi về phương hướng tây bắc, nghe thấy tiếng tim mình đập.
Bởi vì vô luận là cướp hay tham ô từ nơi khác, trên thị trường lương thực Tây Bắc có một phần gạo lương không hề là lương thương tư nhân, mà là thuộc triều đình. Mệnh lệnh đầu tiên của Trương đại tướng quân sau khi nhậm chức chính là bảo quan viên các cấp khống chế nghiêm giá lương, nếu ai cả gan một mình nâng giá tích lương thì xử trảm theo luật.
Trương đại tướng quân một lòng vì dân, cho dù gánh ô danh “tướng quân cướp đường” thì vẫn tử thủở Hoàng Hổ lĩnh. Nhưng mà không phải mỗi người đều một lòng vì dân.
Thời Phổ Khánh, lương thực quan gia từ triều đình đến tay bách tính phải qua không ít người, tỷ như vận chuyển lương, gọi là tào quan, còn cần một chủ bộ của kho lương mỗi ngày kiểm tra bảo quản, thông thường là do quan địa phương nơi đó kiêm nhiệm, định giá thế nào, nắm giữ thế nào, đều có triều đình – cũng chính là Trương đại tướng quân thống nhất hạ lệnh, không được vi phạm.
Nhưng mà trên có lệnh, dưới… tự nhiên có thể không làm.
Tây Bắc tuy không phải miếng thịt béo nhưng đậu nành còn có thểép ra vài giọt dầu nữa là. Biện pháp người chủ bộ lương thực quan gia dùng đểđối phó Trương Chi Hiền cực kỳđơn giản – trộn thêm vào lương thực, ngoài cùng không nhìn ra nhưng cầm một vốc thì thấy bên trong lại lẫn cát đá linh tinh, trộn bao nhiêu cũng cần chúý, giá lương tư thương trên chợ nâng bao nhiêu, họ liền trộn bấy nhiêu, dù sao thì chẳng ai được lợi.
Việc này Trương Chi Hiền không hề biết, hắn vốn không phải người chuyên về nghề này, không có kinh nghiệm và tâm tư cẩn thận như vậy, đồng bào Trâu Yến Lai đang ở Hoài Châu cùng quân Khăn Đỏ cấu xéđến đỏ cả mắt, tiền bối Nhan đại nhân Bồ Tát bùn qua sông ngoài tầm tay với, thuộc hạ càng không ai nhắc nhở hắn – quan lại bao che cho nhau, mỗi người đều cầm phần lợi của mình, ai sẽđi đập bát cơm của ai đây?
HạĐoan Phương rải lời đồn, mướn xe ở các nơi trong thành, không ngừng phái người đi khắp nơi hỏi thăm lâm thời thuê kho lúa của các đại thương hộ… Tóm lại là nhảy trên lủi dưới, ngay cả chính hắn cũng suýt nữa tin làthật. Giống như phát ra cho các đại nhân béo núc, động một cái là toàn thân chảy mỡ một tín hiệu cực kỳ hấp dẫn – từ xưa ruồi bọ bay theo da, chỉ cần cái rắm này đánh vừa thối vừa vang thì chẳng lo lắng họ không cắn câu.
Đôi lúc hắn cũng đang suy nghĩ một việc, đồng thời tự thấy cực kỳ cóđạo lý.
Tạo phản là một chuyện khó cỡ nào?
Gió nổi từ gốc bèo, chỉ có khi triều đại thay đổi, anh hùng mới không hỏi xuất xứ, những người này chẳng qua là hạng nông dân giết chó, trong triều lại có từng lứa đại nho đại tướng quân văn thành võđức, mỗi người tài hoa nổi bật, phong lưu phóng khoáng, muốn bản lĩnh có bản lĩnh, muốn năng lực có năng lực.
Dựa vào cái gìđể thắng được họđây?
Ban đầu HạĐoan Phương cho rằng, là trong triều đập mục nát trên rễ, hắn cho là vương hầu tướng há có gan. Nhưng sau đó hắn đã biết Nhan Chân, biết Trâu Yến Lai, tự mình giao thủ với đông đảo tướng quân Phổ Khánh, thậm chí người trong giáo tông, mới phát hiện kỳ thật họ rất có gan. Dù là Thi VôĐoan người mình, coi như là“xuất thân hiển hách”–đệ tử quan môn của tiền chưởng môn Huyền Tông, nếu đạo tổ không chết, mông Thi VôĐoan ngồi trên hàng ghế nào thì còn phải chờ thương thảo.
Hiện tại HạĐoan Phương đã hiểu. Bởi vì trong lòng những người từng tạo phản đều có sự phẫn nộ, không phải sự phẫn nộ vung tay hô một câu, ngửa mặt lên trời thét dài, mà là năm này tháng nọ kìm nén trong xương máu, khiến mỗi người họđều chìa một tay, ôm lấy thân thểđồng bạn, cùng nhau vào sinh ra tử.
Mà trong đối thủ, tuy rằng nhân tài xuất hiện lớp lớp, nhưng mỗi nhân tài đều đang pháđám người khác.
Đến tháng mười một, Thi VôĐoan phái người cho HạĐoan Phương biết, sắp động thủđược rồi – gạch đã giơ lên cao, chỉ chờ hung tợn nện xuống.
Mười lăm tháng mười một, đám chủ bộ lương thực quan gia hoảng sợ phát hiện, những tư thương đó bán ra hàng loạt gạo lương nhưđã phát điên, lời đồn rộ lên thời gian trước không công tự phá, nhưng lời đồn phá rồi, giá lương cao chót vót bị việc trữ lương điên cuồng tạo thành lại không hề phá.
Giá lương đã lên đến đỉnh, Tây Bắc vốn lạnh sớm, lúc này càng vào sâu mùa đông, thương hộ dường nhưđoàn kết sẵn sàng, chiêu cáo xung quanh, lên án lương thực quan gia trộn cát đá, không thèm đểý sự sống chết của bách tính, tư thương liên hợp bán lương, muốn duy trì buổi chợ ba ngày để mọi người qua mùa đông.
Món nợ này là tính như thế– trước khi bọn Thi VôĐoan ẩn vào, chỉ nhìn thị trường lương thực Long Câu, giá gạo là một lượng bốn đồng một thạch, sau khi họ tự mua tự bán kinh doanh hai tháng, tư lương biến thành hai lượng bạc một đồng một thạch, mà khi HạĐoan Phương giả vờ giả vịt cho người đi thuê kho chuẩn bị lương, bởi vì hàng loạt lương thương và quan gia chủ bộ tích gạo, giá cả trong một tháng lên thẳng một mạch đến bốn lượng một thạch, còn không mua được lương thực tốt nhất.
Mười lăm tháng mười một, Thi VôĐoan lệnh người phá chợ, vừa khai trương đã giảm giá gạo xuống hai lượng hai đồng, bách tính chạy đi cho biết, đêm đó giá gạo đã vềđến hai lượng tám đồng, ngày hôm sau chủ bộlương thực quan gia phản ứng lại, biết đại sự không ổn, nhưng chẳng có biện pháp nào.
Lương thực ra vào bao nhiêu đều phải báo cho Trương Chi Hiền xin phê chuẩn, họ có thể giở trò tích gạo nâng giá một cách táo tợn, nhưng không thểép giá chịu thiệt theo tư thương.
Bằng không chẳng cách nào ăn nói được!
Khi họ ra roi thúc ngựa tụ tập chủ bộ các nơi cùng thương thảo xem làm sao đem chuyện này vo tròn trình tin tức cho Trương Chi Hiền ở Hoàng Hổ lĩnh, ngày thứ hai kể từ lúc khai trương, lương thực đã trở nên hỗn loạn, khai trương giá gạo hai lượng ba đồng, kẻ mua lương lại đều như là không cần tiền, tới ngày thứ ba lương trên tay Thi VôĐoan vốn có một phần được đám chủ bộ ngu ngốc tích lương chờ người khác mua giá cao gom đi, còn lại thìđã ra tay hết, cho đến lúc này, giá lương về tới một lượng chín đồng.
Thi Vô Đoan giống như một con chim ưng lượn vòng trên không, chuẩn bị lao xuống cắp con mồi bất cứ lúc nào, chỉ cần hạ miệng thì nhất định kéo theo một tảng thịt kèm máu.
Tiền này cơ hồ là tay không bắt sói trắng, Thi VôĐoan biết lúc này không thể giấu được, Trương Chi Hiền ở Hoàng Hổ lĩnh trong ba ngày tất cóđộng tĩnh, vì thế nhanh chóng qua tay tản tiền ra, ngoài thành Long Câu bốn mươi dặm chính là núi non liên miên, bắt đầu từ ngày Thi VôĐoan cải trang qua Hoàng Hổ lĩnh, đã một mặt tính kế tiền lương, một mặt cấu kết đại sơn phỉ nơi đây.
Gọi là sơn phỉ cũng không hẳn vậy, không ít người vốn chẳng qua là nông dân thợ săn bình thường, trong loạn thếđể sống tạm, không thể không liên tục chiếm núi làm vương, lần này bị cái bánh từ trên trời rơi xuống đập chắc nịch, cơ hồ quên mất mình họ gì, lập tức âm thầm đạt thành hiệp nghị với Thi VôĐoan, tựđeo khăn đỏ, muốn cùng Hoài Châu hôứng từ xa.
Đương nhiên – Thi VôĐoan sẽ không tin tưởng.
Bất cứ ai có tiền có người, đều sẽ bị dã tâm đốt đến quên mình họ gì, quyết không còn nhớ“ân nhân” từng ngu ngốc đẩy mình một phen kia là mấy mũi mấy mắt.
Y chỉ là vìđốt một mồi lửa sau lưng Trương Chi Hiền – chờđám ô hợp này tiêu sạch tiền rồi thì ngọn lửa cũng có thể hết thọ yên nghỉ, công thành lui thân.
Việc này y làm đâu vào đấy, phần cuối cùng cơ hồ là dao sắc chặt đay rối, ngày hôm sau liền dẫn người thần không biết quỷ không hay rút khỏi Long Câu, hóa chẵn thành lẻ, chui khỏi kẽ ngón tay Trương Chi Hiền.
Hôm ấy Lan Nhược nhìn thấy Thi VôĐoan lấy ra một tấm địa đồ vô cùng đặc biệt, bên trên có người dùng bút vạch một nét mảnh mạng lưới không nhìn ra là hình dạng gì, có bảy điểm, lúc nàng đưa thuốc cho con thỏ, phát hiện Thi VôĐoan vẽ một vòng trên một điểm trong đó.
Thi Vô Đoan cũng chẳng sợ nàng nhìn, buồn rầu mấy tháng, rốt cuộc hiếm được cười rạng rỡ với nàng, thậm chí nói thêm một câu: “Đây là ngọn đèn thứ nhất, đãđốt rồi.”
Lan Nhược không rõ nguyên cớ, cũng không dám hỏi lại, chỉ lăng lăng nghĩ thầm, lục gia cười thật làđẹp mà.
Nhưng Thi VôĐoan nhìn quét nàng một cái, nụ cười trên mặt dần mất đi, xua tay nói: “Ngày mai ngươi đi theo Hạđốc tra làđược, không cần quản ta nữa.”
Lan Nhược kinh hãi, thất thanh nói: “Lục gia không đi chung với mọi người?”
Thi Vô Đoan nói: “Không, ngươi không cần lo lắng, ta sẽ tự dẫn năm ba người đến một nơi, trở vềđại gia hay tứ nương hỏi thì cũng không hề gì, Hạđốc tra tự nhiên biết nên nói thế nào.”
Lan Nhược ngẩn ra hồi lâu, rốt cuộc đánh bạo nói: “Nếu… Nếu nô tỳđi rồi thì ai hầu hạ lục gia đây?”
Thi Vô Đoan nghiêng đầu, dường như muốn cười với nàng, nụ cười thoạt nhìn lại không chân thành lắm, y ôm con thỏ trầm mặc giây lát rồi mới nói: “Ta đâu phải người tinh tế gì, lăn lộn quen rồi, những năm qua không có ai hầu hạ, sống đến bây giờ cũng rất tốt, ngươi… ngươi là một cô nương tốt, trở vềđi theo tứ nương, tỷấy sẽ tự an bài cho một tiền đồ tốt.”
Lan Nhược vội nói: “Là nô tỳđã làm chuyện gì không vừa mắt lục gia, khiến lục gia ghét bỏ sao?”
Lúc nói lời này vành mắt nàng đỏ hoe, khóe mắt hơi xếch lên có vẻ càng thêm diễm lệ, Thi VôĐoan như bị màu đỏ nọ làm bỏng mắt một chút, vôý thức cúi đầu, bắt gặp ánh mắt không nói rõđược của con thỏ gần đất xa trời kia.
Rất lâu sau y khoát tay, lại không giải thích thêm, chỉ nói: “Ngươi là cô nương tốt, đi đi.”
Sau đó một tay bưng bát trà, ánh mắt dừng ở công văn sổ sách trên bàn, lại làý tứ tiễn khách, không đểý tới nàng nữa.
Lan Nhược mắt ngấn lệ, quay đầu bưng mặt nhanh chóng chạy ra ngoài.
Sáng sớm hôm sau, Thi VôĐoan và mọi người mỗi người đi một ngả, dẫn mấy thị vệ lên đường, y không hềđi hướng nam, mà là hướng đông, ngông nghênh cùng Trương Chi Hiền sượt vai nhau, qua Trường Bình quan và thảo nguyên ÔĐồ, đến BồĐề sơn nơi cực bắc, đứng dưới chân núi tuyết đọng quanh năm.
BồĐề sơn – chính là nơi Đại Thừa giáo tông sở tại.
Dù cho không ít thảo dược, con thỏ trong lòng y lại ngày một kém hơn, khá có xu thế như mặt trời sắp lặn, Thi VôĐoan đứng giữa bãi cỏ rậm rạp dưới BồĐề sơn, dõi mắt trông về phía xa, lại phát hiện chẳng nhìn thấy gì hết, trừ tuyết vẫn là tuyết, trừ núi vẫn là núi, chỉ có khi ánh dương chiếu trên tuyết mới có một chút thần thánh bất cận nhân tình như vậy.
Y thở dài, đặt con thỏ xuống đất, định đểđám cỏ khô cao không quá mắt cá chân đóđánh thức nó.
Nhưng nó không hề nhúc nhích, mặt hướng về phương đông, chẳng ai biết nóđang nhìn những gì.
Chẳng ai biết, có lẽ có một người toàn thân trắng như tuyết, đang đứng trên đảo nhỏởĐông Hải nơi cực đông, dường như cảm giác được điều gìđó, xuyên qua đại hải mênh mang, dõi về phương hướng tây bắc, nghe thấy tiếng tim mình đập.
/81
|