Giọng của Phùng Thiến Như hơi có một chút ghen tuông. Từ lúc Bành Viễn Chinh quen biết Phùng Thiến Như đến nay, trong suy nghĩ của hắn, cô là một cô gái hiền thục đoan trang, bao dung rộng lượng, hắn không nghĩ là cô cũng hờn ghen giống bao cô gái bình thường khác.
Trong lòng Phùng Thiến Như quả thật có phần không thoải mái, mặc dù chỉ là một chút, nhưng nó đã ảnh hưởng tới lời lẽ của cô.
Khi cô nhìn thấy kỹ thuật khiêu vũ có thể nói là tuyệt diệu của Bành Viễn Chinh và Hầu Khinh Trần, lại thấy vẻ mặt gần như là say mê của của cô ta, trong lòng cô không khỏi ghen tị.
Phụ nữ, nhất là phụ nữ đang cuồng nhiệt trong tình yêu, đều khá nhạy cảm, cũng khá có ý thức bảo vệ lãnh địa của mình. Theo bản năng, cô coi Hầu Khinh Trần là “kẻ xâm lược”, có một sự uy hiếp nhất định.
- Không nói gì nha!
Bành Viễn Chinh cười nói, đột nhiên nhìn Phùng Thiến Như với vẻ mặt khoa trương:
- Ồ, Thiến Như, em ghen tị! Ha ha!
Phùng Thiến Như đỏ mặt, sẵng giọng:
- Đúng, là em ghen tị! Sao, em không thể ghen à?
- Ha ha, Thiến Như, điệu bộ hờn ghen của em rất đáng yêu!
Bành Viễn Chinh cười, cảm thấy rất thoải mái. Chính vì Phùng Thiến Như biết ghen, hắn mới cảm thấy tính cách của cô càng chân thật
Hai người về đến nhà, Tống Dư Trân và Mạnh Lâm đang chỉ bảo nhân viên phục vụ trong nhà giăng đèn kết hoa, treo đèn lồng, Bành Viễn Chinh xuống xe cười chạy tới:
- Mẹ, con đến giúp nè!
Tống Dư Trân vội vàng kéo hắn qua một bên:
- Chỗ này không cần cháu giúp, vết thương còn chưa hồi phục, mau đi nghỉ đi! Thiến Như, đưa Viễn Chinh về phòng nghỉ ngơi!
Hôm nay là 29 tháng chạp, ngày mai là giao thừa. Ngoại trừ Phùng Bá Hà về nhà chồng, vợ chồng Phùng lão, cả nhà Phùng Bá Lâm đều sẽ qua cùng mừng năm mới.
Buổi sáng, Tống Dư Trân và Mạnh Lâm bắt đầu chuẩn bị cho bữa cơm sum họp ngày mai. Buổi chiều, cả nhà Phùng Bá Lâm đi xe hơi tới, Trương Lam mỉm cười, vào bếp giúp hai chị em bạn dâu đang bận rộn.
Phùng Viễn Hoa trốn vào phòng của mình. Phùng Bá Lâm lên lầu hỏi han Bành Viễn Chinh một lúc, rồi đi. Ông ta mới từ quân đội về Thủ đô, muốn đến thăm viếng vài người.
Bành Viễn Chinh và Phùng Thiến Như đi xuống lầu, Phùng Viễn Hoa và Phùng Lâm Lâm đang ngồi xem ti vi ở phòng khách, thấy hai người, Phùng Viễn Hoa hơi lúng túng đứng dậy cười cười, chào hỏi hai người, rồi liền tránh ra ngoài.
Phùng Lâm Lâm cười hì hì, chạy tới đón chào, lấy tay vuốt vuốt cái trán bị thương của Bành Viễn Chinh, kinh ngạc hỏi:
- Anh Cả, anh không sao chứ? Em nghe mẹ nói, anh bị tai nạn xe cùng với hot girl của Từ gia phải không?
- Không sao, đừng lo, chỉ bị thương ngoài da.
Đối với cô em họ Phùng Lâm Lâm này, Bành Viễn Chinh không có ấn tượng gì mấy. Một phần do ít tiếp xúc, hơn nữa ngay từ đầu, nhà Phùng Bá Lâm đối với hắn tương đối bài xích.
Đến giờ, Phùng Viễn Hoa vẫn có chút ngăn cách đối với Bành Viễn Chinh, nhưng không thể làm gì được. Địa vị của Bành Viễn Chinh đã được xác định trong lòng Phùng lão, nếu Phùng Viễn Hoa làm mình làm mẩy với Bành Viễn Chinh, không những tổn hại tình cảm người một nhà, mà còn tự làm mất mặt.
Tên nhóc Phùng Viễn Hoa này cũng có vài phần tâm cơ, chỉ là một chút tâm cơ đó, đừng nói tới Phùng lão, mà ngay cả đối với Bành Viễn Chinh, cũng quá ngây thơ.
Vốn Phùng gia chỉ có một người cháu nội là Phùng Viễn Hoa, bất kể Phùng lão đánh giá cậu ta như thế nào, đều dốc lòng bồi dưỡng cậu ta, bởi vì Phùng gia không còn lựa chọn nào khác. Nhưng đúng lúc Phùng Viễn Hoa thỏa thuê mãn nguyện, chuẩn bị sau khi tốt nghiệp đại học, sẽ làm một số chuyện đại sự, nào ngờ, Bành Viễn Chinh xuất hiện bất ngờ, trực tiếp thay thế vị trí của cậu ta.
Ý nghĩ trong đầu Phùng Viễn Hoa là bình thường, nhưng cũng rất ích kỷ và ngu xuẩn. Ai nói là Phùng gia chỉ có thể bồi dưỡng một cháu nội duy nhất? Đương nhiên là Phùng lão hy vọng đời sau càng xuất sắc càng tốt, nếu biểu hiện của Phùng Viễn Hoa hơn người, làm sao trong nhà có thể lơ là với cậu ta? Nói thẳng ra, cậu ta vẫn là một kẻ được nuông chiều từ nhỏ muốn ăn mảnh mà thôi.
Phùng Lâm Lâm là con gái, đương nhiên không suy nghĩ gì về vấn đề này, thời gian qua đi, hiện giờ cô mở miệng gọi một tiếng anh Cả, là gọi rất thân thiết.
Phùng Thiến Như ra hiệu với Bành Viễn Chinh.
Bành Viễn Chinh cười cười, lấy một cái túi nhỏ đưa tới:
- Lâm Lâm, đây là quà năm mới của anh và Thiến Như dành cho em. Em xem có thích không?
- A, có quà nữa hả?
Phùng Lâm Lâm cười, nhận lấy mở ra, bên trong là một khăn quàng cổ bằng lụa màu hồng nhạt, một lọ nước hoa nhập khẩu đắt tiền, còn có mấy con búp bê tò he.
Phùng Lâm Lâm vừa gỡ ra xem, vừa ríu rít.
- Cám ơn anh Cả, à, và …
Đột nhiên Phùng Lâm Lâm híp mắt ngẩng lên nhìn Phùng Thiến Như, khóe miệng hiện lên một nụ cười giảo hoạt, nhẹ nhàng nói:
- Anh Cả, bây giờ em nên gọi là chị, hay là chị dâu?
Hả? Bành Viễn Chinh mím miệng.
Khuôn mặt xinh đẹp của Phùng Thiến Như chợt đỏ lên, giậm chân, xấu hổ bỏ chạy lên lầu.
Phùng Lâm Lâm đứng phía dưới cố ý hét lên:
- Chị dâu, chị đừng chạy nha! Ài, em quên, ý em là chị dâu Cả!
Bành Viễn Chinh cười khổ, nhún nhún vai. Tống Dư Trân từ bếp đi ra, dí tay lên trán Phùng Lâm Lâm, cười nói:
- Cái con tiểu nha đầu này, nói chuyện như vậy với chị đấy hả?
Phùng Lâm Lâm cười hì hì:
- Nhưng cháu nói đúng mà, trước là chị, bây giờ thành chị dâu rồi!
Bành Viễn Chinh mỉm cười không nói, Tống Dư Trân cũng cười xòa.
Màn kịch ngắn ngủi do Phùng Lâm Lâm đạo diễn, khiến không khí trong nhà vui hẳn lên. Tuy Phùng Thiến Như xấu hổ, cả bổi chiều không xuống lầu, nhưng trong lòng tràn đầy cảm xúc dịu dàng thắm thiết.
…
…
Hồi sáng, Phùng Bá Đào xử lý công việc xong, về nhà chuẩn bị lễ đón năm mới. Sau khi thăm viếng mấy lãnh đạo trong quân đội, giữa trưa Phùng Bá Lâm cũng trở về. Ông ta vừa vào cửa, vợ chồng Phùng lão cũng tới đoàn tụ với con cháu.
Ba chị em bạn dâu, hai cháu gái, năm người bận rộn chuẩn bị bữa cơm tối tất niên. Bà Phùng cũng vào giúp một tay, bị Tống Dư Trân dắt đi ra, bà lớn tuổi như vậy rồi, nếu chẳng may có sơ xuất gì, rất nguy hiểm.
Phùng lão, Phùng Bá Đào, Phùng Bá Lâm, Bành Viễn Chinh và Phùng Viễn Hoa, ngòi trong phòng khách nói chuyện phiếm. Những dịp người bề trên cùng ngồi một chỗ nói chuyện với con cháu như thế này rất ít. Ngay cả lúc này, chủ yếu cũng chỉ có Phùng lão nói, hai anh em Phùng Bá Đào phụ họa, Bành Viễn Chinh và Phùng Viễn Hoa chỉ trả lời khi được hỏi tới.
Phùng lão nói một lát, lại chuyển từ việc nhà đến chuyện quốc gia đại sự. Nghe ông cụ nhắc tới kinh tế và cải cách mở cửa, rốt cuộc Bành Viễn Chinh không kìm nổi chen vào nói, nói lên sự lo lắng của hắn về phong trào xây dựng “hừng hực khí thế” các khu kinh tế mới ở khắp nơi.
- Ông nội, bác Cả, chú Ba, hiện nay phát triển kinh tế điều quan trọng nhất, kinh tế khắp nơi đều đột nhiên tăng mạnh. Nhưng phát triển quá nhanh, cũng nảy sinh một số vấn đề, chẳng hạn như rất nhiều kỹ thuật truyền thống lạc hậu, sản lượng mở rộng quá độ, tạm thời gia tăng tốc độ phát triển kinh tế, nhưng một thời gian sau, những vấn đề bất cập sẽ dần dần bộc lộ. Chẳng hạn việc xây dựng các khu kinh tế mới quá nóng, nơi khác cháu không biết, nhưng ở thành phố Tân An, các khu kinh tế mới đủ loại càng ngày càng nhiều, mà rất nhiều khu công nghiệp cũng đang được duyệt. Thoạt nhìn, tình hình vô cùng khả quan, toàn thành phố tiến nhanh về phía trước, không có nhanh nhất, chỉ có nhanh hơn; nhưng trên thực tế, không ít khu công nghiệp được duyệt một cách vội vã, rồi sau đó đầu tư không đủ, hoặc thiếu quy hoạch thống nhất, hoặc xây dựng dang dở, hoặc xây dựng xong bỏ đó không dùng, tạo ra sự lãng phí rất lớn.
Thị trấn chúng cháu có một khu công nghiệp như vậy, Bí thư quyết định thật nhanh, đầu tư thật lớn, nhưng sau khi xây dựng xong lại không thu hút được các doanh nghiệp, kết quả là bỏ phế lâu ngày. Sau khi cháu đến, bất đắc dĩ phải giới thiệu và hợp tác với tập đoàn Tin Kiệt, làm sống lại khu công nghiệp này.
Phùng lão nghe vậy, trầm mặc một lát, lại gật đầu nói:
- Viễn Chinh, cháu nói vấn đề này., Trung ương đã nhận ra, đây là mù quáng làm theo phong trào, cố tạo thành tích bằng mọi giá! Hết sức thiển cận! Là nọc độc còn sót lại của kế hoạch “Đại nhảy vọt”! (1)
Giá trị to lớn của các khu kinh tế là không thể bỏ qua. Nhưng chín quá hóa nẫu, chúng ta là một quốc gia lớn, rất nhiều phương diện chỉ cần khống chế không tốt, đều dễ dàng đi theo hướng cực đoan. Chỉ hoàn toàn trông cậy vào sự điều tiết của Trung ương là không được, mà các cán bộ công tác ở địa phương như cháu cần có tầm nhìn xa một chút!
Phùng lão phất phất tay:
- Viễn Chinh, hiện giờ cháu chỉ là cán bộ thị trấn, nhưng có thể quản lý tốt một thị trấn, tương lai cháu mới có thể quản lý tốt một huyện, thậm chí một thành phố hay một tỉnh! Cháu hãy mạnh mẽ mà làm, tạo ra thành tích để ông xem! Ông muốn xem, cháu nội của ông, rốt cuộc có phải một nhân tài trị quốc hay không!
Mắt Phùng lão lấp lánh ánh sáng chờ mong. Bành Viễn Chinh vội kính cẩn trả lời:
- Ông nội, cháu nhất định sẽ cố gắng! Cháu luôn luôn cố gắng làm tốt công việc!
Phùng Viễn Hoa có phần hâm mộ ngòi một bên lắng nghe, trong đầu trăm mối cảm xúc ngổn ngang, không nói nên lời. Đến lúc Phùng lão quay lại hỏi một câu, y mới giật mình tỉnh lại.
- Viễn Hoa, còn một năm nữa cháu sẽ tốt nghiệp đại học, cháu định sẽ làm việc gì?
Phùng Viễn Hoa ngẩn ra một lúc, không ngờ ông nội đột nhiên hỏi mình, vẻ mặt bối rối.
Phùng Bá Lâm không hài lòng, lườm con trai một cái, ho khan mấy tiếng.
(1) Đại nhảy vọt: Đại nhảy vọt là tên đặt cho Kế hoạch Năm năm lần thứ hai dự trù kéo dài từ 1958-1963 của Trung Quốc. Mao tiết lộ Đại nhảy vọt tại một cuộc họp vào tháng 1 năm 1958 tại Nam Kinh. Ý tưởng chủ yếu của Đại nhảy vọt là phát triển nhanh và song song ngành công nghiệp và nông nghiệp Trung Quốc, lợi dụng nguồn cung ứng lao động rẻ khổng lồ là nông dân và tránh phải nhập cảng các máy móc nặng. Để đạt được điều này, Mao chủ trương tập thể hóa sâu rộng hơn, các hợp tác xã hiện hữu sẽ được nhập vào thành các Công xã nhân dân (People's communes) khổng lồ. Một công xã thí điểm được thiết lập tại Chayashan ở tỉnh Hà Nam tháng tư năm 1958. Tại đây lần đầu tiên, đất tư hữu bị xóa bỏ hoàn toàn và các nhà bếp công xã được giới thiệu. Tại các cuộc họp của Bộ chính trị vào tháng 8 năm 1958, quyết định được đưa ra là những công xã nhân dân này sẽ trở thành hình thức tổ chức chính trị và kinh tế mới khắp vùng nông thôn Trung Quốc. Vào cuối năm, khoảng 25.000 công xã đã được lập lên, mỗi công xã có trung bình 5.000 hộ gia đình. Các công xã là các hợp tác xã tự lực cánh sinh nơi mà tiền lương và tiền được ấn định bằng công điểm (work points). Mao Trạch Đông tuyên bố sẽ tăng sản lượng nông nghiệp lên gấp đôi mức năm 1957. Nhưng trên thực tế,sản lượng nông nghiệp thời kì đó của Trung Quốc còn không bằng thời vua Càn Long và thời nhà Tống.
Mao thấy sản xuất lúa gạo và thép như là cột trụ chính của phát triển kinh tế và quyết định tăng gấp đôi sản lượng thép trong một năm. Tháng 8/1958 khi Hội nghị Bắc Đới Hà ra quyết định cuối cùng về vấn đề này, cả nước mới sản xuất được 4,5 triệu tấn thép. Tại hội nghị trên, Mao Trạch Đông nói: Phải chuyên chế, không thể chỉ nói đến dân chủ. Hoàn thành 11 triệu tấn thép là việc lớn liên quan đến lợi ích của toàn dân, phải cố sống cố chết làm cho bằng được. Phải ra sức thu gom sắt phế liệu, có thể tháo dỡ các đường sắt tạm thời không có giá trị kinh tế như đường sắt Ninh Ba, đường sắt Giao Đông! (Có lẽ Mao là lãnh đạo nhà nước đầu tiên và cũng là duy nhất trên thế giới ra lệnh tháo đường sắt đem luyện thép! Sau năm 1975, ở Việt Nam, đường xe lửa răng cưa độc đáo Tháp Chàm - Đà Lạt cũng bị tháo, nhưng không luyện thép mà đem bán phế liệu, không biết có phải học theo gương của “lãnh tụ vĩ đại” không?)
Mao khuyến khích việc thiết lập các lò nung thép sân vườn loại nhỏ tại mỗi xã và tại mỗi khu phố. Để cung cấp nhiên liệu đốt cho các lò nung, cây rừng bị chặt đốn bừa bãi gây thiệt hại lớn cho môi trường thiên nhiên của địa phương. Tình trạng phá cửa nhà và bàn ghế đồ đạc để lấy củi đốt lò nung cũng xảy ra khắp nơi. Nồi, xoong, chảo, và các thứ vật dụng kim loại khác được trưng dụng để cung cấp “sắt vụn” cho các lò nung để mục tiêu sản xuất đầy lạc quan ngông cuồng đó có thể đạt được. Nhiều nam lao động nông nghiệp bị thuyên chuyển từ thu hoạch mùa màng sang giúp sản xuất thép cũng giống như các công nhân ở nhiều nhà máy, trường học và thậm chí cả bệnh viện. Đối với những ai có chút kinh nghiệm về sản xuất thép hoặc có hiểu biết cơ bản về luyện kim thì cũng có thể đoán ra được rằng sản phẩm từ các lò nung này là những đống sắt nguyên liệu phẩm chất thấp và chẳng có chút giá trị gì về kinh tế.
Nhưng phải đến tháng giêng năm 1959, khi Mao và đoàn tùy tùng đến viếng thăm khu sản xuất thép truyền thống tại Mãn Châu, ông ta mới biết được là thép chất lượng cao chỉ có thể sản xuất tại các nhà máy qui mô lớn sử dụng nhiên liệu đáng tin cậy như than đá! Tuy nhiên ông quyết định không ra lệnh ngưng các lò nung thép sân vườn vì không muốn dập tắt nhiệt tâm cách mạng của quần chúng (sic!). Chương trình chỉ được bãi bỏ một cách lặng lẽ nhiều tháng sau đó.
Cuộc Đại nhảy vọt là một thất bại về kinh tế. Sự thất bại của cuộc Đại nhảy vọt có tác động lớn lên uy tín của Mao Trạch Đông bên trong Đảng. Năm 1959, ông ta từ chức Chủ tịch nhà nước, và sau đó Lưu Thiếu Kỳ lên thay.
Việc trưng thu đất đai nông dân để đưa vào hợp tác xã năm 1958 đã đẩy nông dân vào trạng thái nông nô. Bếp ăn gia đình bị thay thế bằng những khu « nhà ăn tập thể », phó mặc sự sống còn của mỗi cá thể vào tay của các quan chức nhỏ. Chính phủ trưng thu hầu như toàn bộ thu hoạch, chỉ để lại cho nông dân một phần rất nhỏ, không đáng kể.
Do thiếu nguồn lương thực, các khu nhà ăn tập thể bị đóng cửa. Hậu quả là nạn đói lớn đã xảy ra. Người ta đói đến mức đến cái vỏ cây cũng ăn, thậm chí là ăn cả xác người. Nhiều gia đình đào bới cả tử thi hay còn có chuyện giết cả người hoặc đổi con cho nhau để ăn thịt.
Trong khi đó, các kho thóc của nhà nước đầy ắp. Năm 1959, Mao cho xuất khẩu sang Liên Xô và Đông Âu lượng lương thực gấp đôi năm được mùa 1957 để đổi lấy thiết bị quân sự và cơ sở công nghiệp! Thậm chí còn viện trợ không hoàn lại một lượng rất lớn để...tuyên truyền!
Bốn mươi triệu người chết vì nạn đói hay bị bạo hành tại Trung Quốc trong suốt 4 năm (1958-1961) vì chính sách Đại nhảy vọt này! (Tổng hợp từ Inte)
Trong lòng Phùng Thiến Như quả thật có phần không thoải mái, mặc dù chỉ là một chút, nhưng nó đã ảnh hưởng tới lời lẽ của cô.
Khi cô nhìn thấy kỹ thuật khiêu vũ có thể nói là tuyệt diệu của Bành Viễn Chinh và Hầu Khinh Trần, lại thấy vẻ mặt gần như là say mê của của cô ta, trong lòng cô không khỏi ghen tị.
Phụ nữ, nhất là phụ nữ đang cuồng nhiệt trong tình yêu, đều khá nhạy cảm, cũng khá có ý thức bảo vệ lãnh địa của mình. Theo bản năng, cô coi Hầu Khinh Trần là “kẻ xâm lược”, có một sự uy hiếp nhất định.
- Không nói gì nha!
Bành Viễn Chinh cười nói, đột nhiên nhìn Phùng Thiến Như với vẻ mặt khoa trương:
- Ồ, Thiến Như, em ghen tị! Ha ha!
Phùng Thiến Như đỏ mặt, sẵng giọng:
- Đúng, là em ghen tị! Sao, em không thể ghen à?
- Ha ha, Thiến Như, điệu bộ hờn ghen của em rất đáng yêu!
Bành Viễn Chinh cười, cảm thấy rất thoải mái. Chính vì Phùng Thiến Như biết ghen, hắn mới cảm thấy tính cách của cô càng chân thật
Hai người về đến nhà, Tống Dư Trân và Mạnh Lâm đang chỉ bảo nhân viên phục vụ trong nhà giăng đèn kết hoa, treo đèn lồng, Bành Viễn Chinh xuống xe cười chạy tới:
- Mẹ, con đến giúp nè!
Tống Dư Trân vội vàng kéo hắn qua một bên:
- Chỗ này không cần cháu giúp, vết thương còn chưa hồi phục, mau đi nghỉ đi! Thiến Như, đưa Viễn Chinh về phòng nghỉ ngơi!
Hôm nay là 29 tháng chạp, ngày mai là giao thừa. Ngoại trừ Phùng Bá Hà về nhà chồng, vợ chồng Phùng lão, cả nhà Phùng Bá Lâm đều sẽ qua cùng mừng năm mới.
Buổi sáng, Tống Dư Trân và Mạnh Lâm bắt đầu chuẩn bị cho bữa cơm sum họp ngày mai. Buổi chiều, cả nhà Phùng Bá Lâm đi xe hơi tới, Trương Lam mỉm cười, vào bếp giúp hai chị em bạn dâu đang bận rộn.
Phùng Viễn Hoa trốn vào phòng của mình. Phùng Bá Lâm lên lầu hỏi han Bành Viễn Chinh một lúc, rồi đi. Ông ta mới từ quân đội về Thủ đô, muốn đến thăm viếng vài người.
Bành Viễn Chinh và Phùng Thiến Như đi xuống lầu, Phùng Viễn Hoa và Phùng Lâm Lâm đang ngồi xem ti vi ở phòng khách, thấy hai người, Phùng Viễn Hoa hơi lúng túng đứng dậy cười cười, chào hỏi hai người, rồi liền tránh ra ngoài.
Phùng Lâm Lâm cười hì hì, chạy tới đón chào, lấy tay vuốt vuốt cái trán bị thương của Bành Viễn Chinh, kinh ngạc hỏi:
- Anh Cả, anh không sao chứ? Em nghe mẹ nói, anh bị tai nạn xe cùng với hot girl của Từ gia phải không?
- Không sao, đừng lo, chỉ bị thương ngoài da.
Đối với cô em họ Phùng Lâm Lâm này, Bành Viễn Chinh không có ấn tượng gì mấy. Một phần do ít tiếp xúc, hơn nữa ngay từ đầu, nhà Phùng Bá Lâm đối với hắn tương đối bài xích.
Đến giờ, Phùng Viễn Hoa vẫn có chút ngăn cách đối với Bành Viễn Chinh, nhưng không thể làm gì được. Địa vị của Bành Viễn Chinh đã được xác định trong lòng Phùng lão, nếu Phùng Viễn Hoa làm mình làm mẩy với Bành Viễn Chinh, không những tổn hại tình cảm người một nhà, mà còn tự làm mất mặt.
Tên nhóc Phùng Viễn Hoa này cũng có vài phần tâm cơ, chỉ là một chút tâm cơ đó, đừng nói tới Phùng lão, mà ngay cả đối với Bành Viễn Chinh, cũng quá ngây thơ.
Vốn Phùng gia chỉ có một người cháu nội là Phùng Viễn Hoa, bất kể Phùng lão đánh giá cậu ta như thế nào, đều dốc lòng bồi dưỡng cậu ta, bởi vì Phùng gia không còn lựa chọn nào khác. Nhưng đúng lúc Phùng Viễn Hoa thỏa thuê mãn nguyện, chuẩn bị sau khi tốt nghiệp đại học, sẽ làm một số chuyện đại sự, nào ngờ, Bành Viễn Chinh xuất hiện bất ngờ, trực tiếp thay thế vị trí của cậu ta.
Ý nghĩ trong đầu Phùng Viễn Hoa là bình thường, nhưng cũng rất ích kỷ và ngu xuẩn. Ai nói là Phùng gia chỉ có thể bồi dưỡng một cháu nội duy nhất? Đương nhiên là Phùng lão hy vọng đời sau càng xuất sắc càng tốt, nếu biểu hiện của Phùng Viễn Hoa hơn người, làm sao trong nhà có thể lơ là với cậu ta? Nói thẳng ra, cậu ta vẫn là một kẻ được nuông chiều từ nhỏ muốn ăn mảnh mà thôi.
Phùng Lâm Lâm là con gái, đương nhiên không suy nghĩ gì về vấn đề này, thời gian qua đi, hiện giờ cô mở miệng gọi một tiếng anh Cả, là gọi rất thân thiết.
Phùng Thiến Như ra hiệu với Bành Viễn Chinh.
Bành Viễn Chinh cười cười, lấy một cái túi nhỏ đưa tới:
- Lâm Lâm, đây là quà năm mới của anh và Thiến Như dành cho em. Em xem có thích không?
- A, có quà nữa hả?
Phùng Lâm Lâm cười, nhận lấy mở ra, bên trong là một khăn quàng cổ bằng lụa màu hồng nhạt, một lọ nước hoa nhập khẩu đắt tiền, còn có mấy con búp bê tò he.
Phùng Lâm Lâm vừa gỡ ra xem, vừa ríu rít.
- Cám ơn anh Cả, à, và …
Đột nhiên Phùng Lâm Lâm híp mắt ngẩng lên nhìn Phùng Thiến Như, khóe miệng hiện lên một nụ cười giảo hoạt, nhẹ nhàng nói:
- Anh Cả, bây giờ em nên gọi là chị, hay là chị dâu?
Hả? Bành Viễn Chinh mím miệng.
Khuôn mặt xinh đẹp của Phùng Thiến Như chợt đỏ lên, giậm chân, xấu hổ bỏ chạy lên lầu.
Phùng Lâm Lâm đứng phía dưới cố ý hét lên:
- Chị dâu, chị đừng chạy nha! Ài, em quên, ý em là chị dâu Cả!
Bành Viễn Chinh cười khổ, nhún nhún vai. Tống Dư Trân từ bếp đi ra, dí tay lên trán Phùng Lâm Lâm, cười nói:
- Cái con tiểu nha đầu này, nói chuyện như vậy với chị đấy hả?
Phùng Lâm Lâm cười hì hì:
- Nhưng cháu nói đúng mà, trước là chị, bây giờ thành chị dâu rồi!
Bành Viễn Chinh mỉm cười không nói, Tống Dư Trân cũng cười xòa.
Màn kịch ngắn ngủi do Phùng Lâm Lâm đạo diễn, khiến không khí trong nhà vui hẳn lên. Tuy Phùng Thiến Như xấu hổ, cả bổi chiều không xuống lầu, nhưng trong lòng tràn đầy cảm xúc dịu dàng thắm thiết.
…
…
Hồi sáng, Phùng Bá Đào xử lý công việc xong, về nhà chuẩn bị lễ đón năm mới. Sau khi thăm viếng mấy lãnh đạo trong quân đội, giữa trưa Phùng Bá Lâm cũng trở về. Ông ta vừa vào cửa, vợ chồng Phùng lão cũng tới đoàn tụ với con cháu.
Ba chị em bạn dâu, hai cháu gái, năm người bận rộn chuẩn bị bữa cơm tối tất niên. Bà Phùng cũng vào giúp một tay, bị Tống Dư Trân dắt đi ra, bà lớn tuổi như vậy rồi, nếu chẳng may có sơ xuất gì, rất nguy hiểm.
Phùng lão, Phùng Bá Đào, Phùng Bá Lâm, Bành Viễn Chinh và Phùng Viễn Hoa, ngòi trong phòng khách nói chuyện phiếm. Những dịp người bề trên cùng ngồi một chỗ nói chuyện với con cháu như thế này rất ít. Ngay cả lúc này, chủ yếu cũng chỉ có Phùng lão nói, hai anh em Phùng Bá Đào phụ họa, Bành Viễn Chinh và Phùng Viễn Hoa chỉ trả lời khi được hỏi tới.
Phùng lão nói một lát, lại chuyển từ việc nhà đến chuyện quốc gia đại sự. Nghe ông cụ nhắc tới kinh tế và cải cách mở cửa, rốt cuộc Bành Viễn Chinh không kìm nổi chen vào nói, nói lên sự lo lắng của hắn về phong trào xây dựng “hừng hực khí thế” các khu kinh tế mới ở khắp nơi.
- Ông nội, bác Cả, chú Ba, hiện nay phát triển kinh tế điều quan trọng nhất, kinh tế khắp nơi đều đột nhiên tăng mạnh. Nhưng phát triển quá nhanh, cũng nảy sinh một số vấn đề, chẳng hạn như rất nhiều kỹ thuật truyền thống lạc hậu, sản lượng mở rộng quá độ, tạm thời gia tăng tốc độ phát triển kinh tế, nhưng một thời gian sau, những vấn đề bất cập sẽ dần dần bộc lộ. Chẳng hạn việc xây dựng các khu kinh tế mới quá nóng, nơi khác cháu không biết, nhưng ở thành phố Tân An, các khu kinh tế mới đủ loại càng ngày càng nhiều, mà rất nhiều khu công nghiệp cũng đang được duyệt. Thoạt nhìn, tình hình vô cùng khả quan, toàn thành phố tiến nhanh về phía trước, không có nhanh nhất, chỉ có nhanh hơn; nhưng trên thực tế, không ít khu công nghiệp được duyệt một cách vội vã, rồi sau đó đầu tư không đủ, hoặc thiếu quy hoạch thống nhất, hoặc xây dựng dang dở, hoặc xây dựng xong bỏ đó không dùng, tạo ra sự lãng phí rất lớn.
Thị trấn chúng cháu có một khu công nghiệp như vậy, Bí thư quyết định thật nhanh, đầu tư thật lớn, nhưng sau khi xây dựng xong lại không thu hút được các doanh nghiệp, kết quả là bỏ phế lâu ngày. Sau khi cháu đến, bất đắc dĩ phải giới thiệu và hợp tác với tập đoàn Tin Kiệt, làm sống lại khu công nghiệp này.
Phùng lão nghe vậy, trầm mặc một lát, lại gật đầu nói:
- Viễn Chinh, cháu nói vấn đề này., Trung ương đã nhận ra, đây là mù quáng làm theo phong trào, cố tạo thành tích bằng mọi giá! Hết sức thiển cận! Là nọc độc còn sót lại của kế hoạch “Đại nhảy vọt”! (1)
Giá trị to lớn của các khu kinh tế là không thể bỏ qua. Nhưng chín quá hóa nẫu, chúng ta là một quốc gia lớn, rất nhiều phương diện chỉ cần khống chế không tốt, đều dễ dàng đi theo hướng cực đoan. Chỉ hoàn toàn trông cậy vào sự điều tiết của Trung ương là không được, mà các cán bộ công tác ở địa phương như cháu cần có tầm nhìn xa một chút!
Phùng lão phất phất tay:
- Viễn Chinh, hiện giờ cháu chỉ là cán bộ thị trấn, nhưng có thể quản lý tốt một thị trấn, tương lai cháu mới có thể quản lý tốt một huyện, thậm chí một thành phố hay một tỉnh! Cháu hãy mạnh mẽ mà làm, tạo ra thành tích để ông xem! Ông muốn xem, cháu nội của ông, rốt cuộc có phải một nhân tài trị quốc hay không!
Mắt Phùng lão lấp lánh ánh sáng chờ mong. Bành Viễn Chinh vội kính cẩn trả lời:
- Ông nội, cháu nhất định sẽ cố gắng! Cháu luôn luôn cố gắng làm tốt công việc!
Phùng Viễn Hoa có phần hâm mộ ngòi một bên lắng nghe, trong đầu trăm mối cảm xúc ngổn ngang, không nói nên lời. Đến lúc Phùng lão quay lại hỏi một câu, y mới giật mình tỉnh lại.
- Viễn Hoa, còn một năm nữa cháu sẽ tốt nghiệp đại học, cháu định sẽ làm việc gì?
Phùng Viễn Hoa ngẩn ra một lúc, không ngờ ông nội đột nhiên hỏi mình, vẻ mặt bối rối.
Phùng Bá Lâm không hài lòng, lườm con trai một cái, ho khan mấy tiếng.
(1) Đại nhảy vọt: Đại nhảy vọt là tên đặt cho Kế hoạch Năm năm lần thứ hai dự trù kéo dài từ 1958-1963 của Trung Quốc. Mao tiết lộ Đại nhảy vọt tại một cuộc họp vào tháng 1 năm 1958 tại Nam Kinh. Ý tưởng chủ yếu của Đại nhảy vọt là phát triển nhanh và song song ngành công nghiệp và nông nghiệp Trung Quốc, lợi dụng nguồn cung ứng lao động rẻ khổng lồ là nông dân và tránh phải nhập cảng các máy móc nặng. Để đạt được điều này, Mao chủ trương tập thể hóa sâu rộng hơn, các hợp tác xã hiện hữu sẽ được nhập vào thành các Công xã nhân dân (People's communes) khổng lồ. Một công xã thí điểm được thiết lập tại Chayashan ở tỉnh Hà Nam tháng tư năm 1958. Tại đây lần đầu tiên, đất tư hữu bị xóa bỏ hoàn toàn và các nhà bếp công xã được giới thiệu. Tại các cuộc họp của Bộ chính trị vào tháng 8 năm 1958, quyết định được đưa ra là những công xã nhân dân này sẽ trở thành hình thức tổ chức chính trị và kinh tế mới khắp vùng nông thôn Trung Quốc. Vào cuối năm, khoảng 25.000 công xã đã được lập lên, mỗi công xã có trung bình 5.000 hộ gia đình. Các công xã là các hợp tác xã tự lực cánh sinh nơi mà tiền lương và tiền được ấn định bằng công điểm (work points). Mao Trạch Đông tuyên bố sẽ tăng sản lượng nông nghiệp lên gấp đôi mức năm 1957. Nhưng trên thực tế,sản lượng nông nghiệp thời kì đó của Trung Quốc còn không bằng thời vua Càn Long và thời nhà Tống.
Mao thấy sản xuất lúa gạo và thép như là cột trụ chính của phát triển kinh tế và quyết định tăng gấp đôi sản lượng thép trong một năm. Tháng 8/1958 khi Hội nghị Bắc Đới Hà ra quyết định cuối cùng về vấn đề này, cả nước mới sản xuất được 4,5 triệu tấn thép. Tại hội nghị trên, Mao Trạch Đông nói: Phải chuyên chế, không thể chỉ nói đến dân chủ. Hoàn thành 11 triệu tấn thép là việc lớn liên quan đến lợi ích của toàn dân, phải cố sống cố chết làm cho bằng được. Phải ra sức thu gom sắt phế liệu, có thể tháo dỡ các đường sắt tạm thời không có giá trị kinh tế như đường sắt Ninh Ba, đường sắt Giao Đông! (Có lẽ Mao là lãnh đạo nhà nước đầu tiên và cũng là duy nhất trên thế giới ra lệnh tháo đường sắt đem luyện thép! Sau năm 1975, ở Việt Nam, đường xe lửa răng cưa độc đáo Tháp Chàm - Đà Lạt cũng bị tháo, nhưng không luyện thép mà đem bán phế liệu, không biết có phải học theo gương của “lãnh tụ vĩ đại” không?)
Mao khuyến khích việc thiết lập các lò nung thép sân vườn loại nhỏ tại mỗi xã và tại mỗi khu phố. Để cung cấp nhiên liệu đốt cho các lò nung, cây rừng bị chặt đốn bừa bãi gây thiệt hại lớn cho môi trường thiên nhiên của địa phương. Tình trạng phá cửa nhà và bàn ghế đồ đạc để lấy củi đốt lò nung cũng xảy ra khắp nơi. Nồi, xoong, chảo, và các thứ vật dụng kim loại khác được trưng dụng để cung cấp “sắt vụn” cho các lò nung để mục tiêu sản xuất đầy lạc quan ngông cuồng đó có thể đạt được. Nhiều nam lao động nông nghiệp bị thuyên chuyển từ thu hoạch mùa màng sang giúp sản xuất thép cũng giống như các công nhân ở nhiều nhà máy, trường học và thậm chí cả bệnh viện. Đối với những ai có chút kinh nghiệm về sản xuất thép hoặc có hiểu biết cơ bản về luyện kim thì cũng có thể đoán ra được rằng sản phẩm từ các lò nung này là những đống sắt nguyên liệu phẩm chất thấp và chẳng có chút giá trị gì về kinh tế.
Nhưng phải đến tháng giêng năm 1959, khi Mao và đoàn tùy tùng đến viếng thăm khu sản xuất thép truyền thống tại Mãn Châu, ông ta mới biết được là thép chất lượng cao chỉ có thể sản xuất tại các nhà máy qui mô lớn sử dụng nhiên liệu đáng tin cậy như than đá! Tuy nhiên ông quyết định không ra lệnh ngưng các lò nung thép sân vườn vì không muốn dập tắt nhiệt tâm cách mạng của quần chúng (sic!). Chương trình chỉ được bãi bỏ một cách lặng lẽ nhiều tháng sau đó.
Cuộc Đại nhảy vọt là một thất bại về kinh tế. Sự thất bại của cuộc Đại nhảy vọt có tác động lớn lên uy tín của Mao Trạch Đông bên trong Đảng. Năm 1959, ông ta từ chức Chủ tịch nhà nước, và sau đó Lưu Thiếu Kỳ lên thay.
Việc trưng thu đất đai nông dân để đưa vào hợp tác xã năm 1958 đã đẩy nông dân vào trạng thái nông nô. Bếp ăn gia đình bị thay thế bằng những khu « nhà ăn tập thể », phó mặc sự sống còn của mỗi cá thể vào tay của các quan chức nhỏ. Chính phủ trưng thu hầu như toàn bộ thu hoạch, chỉ để lại cho nông dân một phần rất nhỏ, không đáng kể.
Do thiếu nguồn lương thực, các khu nhà ăn tập thể bị đóng cửa. Hậu quả là nạn đói lớn đã xảy ra. Người ta đói đến mức đến cái vỏ cây cũng ăn, thậm chí là ăn cả xác người. Nhiều gia đình đào bới cả tử thi hay còn có chuyện giết cả người hoặc đổi con cho nhau để ăn thịt.
Trong khi đó, các kho thóc của nhà nước đầy ắp. Năm 1959, Mao cho xuất khẩu sang Liên Xô và Đông Âu lượng lương thực gấp đôi năm được mùa 1957 để đổi lấy thiết bị quân sự và cơ sở công nghiệp! Thậm chí còn viện trợ không hoàn lại một lượng rất lớn để...tuyên truyền!
Bốn mươi triệu người chết vì nạn đói hay bị bạo hành tại Trung Quốc trong suốt 4 năm (1958-1961) vì chính sách Đại nhảy vọt này! (Tổng hợp từ Inte)
/660
|