Lúc Triệu Sâm dẫn theo người chạy vào thung lũng, thì một nghìn hai trăm bộ binh cùng hai trăm kỵ binh Nguyễn Văn Dũng giao cho hắn chỉ còn lại chừng bảy, tám phần. Bộ binh tổn thất nhiều hơn, bởi vì kỵ binh không trực tiếp giao phong với quân địch, cho nên hầu như không bị thương vong. Chính vì vậy mà lúc Triệu Sâm để binh lính nghỉ ngơi, bố trí phòng tuyến trong thung lũng, đám kỵ binh chịu sự khinh bỉ của bộ binh.
- Nhìn xem!
Một bộ binh vừa sửa sang lại cung tên, vừa trào phúng nói với một người bạn bên cạnh:
- Trang bị trên người cộng lại đủ mua trinh tiết của một gái lầu xanh rồi. Nhưng lúc chúng ta phải chém giết, thì người ta lại đi dạo… Cái mạng người đều giống nhau, mà của người ta lại quý giá như vậy.
Một binh lính khác che miệng hắn lại, ra hiệu là Triệu Sâm đang nhìn về bên này.
- Sợ cái gì!
Binh lính nọ vừa châm chọc, vừa nhún vai tỏ vẻ bất cần:
- Đánh xong trận chiến này mà ông đây vẫn còn sống mới là kỳ tích. Hiện tại không nói hết ra, lúc xuống địa ngục bị rút lưỡi không nói được nữa, đó chẳng phải là chịu thiệt sao?
Hắn nhìn vết đao trên cánh tay của mình, nhíu mày một cái, rồi xé vạt áo, tùy tiện băng bó:
- Lúc rời khỏi thung lũng, người ta cưỡi ngựa đi tuốt về phía trước diễu võ dương oai. Lúc lui về thung lũng phòng thủ, người ta vẫn chạy trước tiên, không mất đi cộng lông mớ tóc gì. Kiếp sau đầu thai vẫn là Đại Nam, nhưng ông đây tình nguyện làm một con ngựa!
Sắc mặt Giáo Úy kỵ binh Triệu Thất rất khó coi. Bộ binh bên kia châm chọc, giống như thanh dao găm đâm vào tim hắn. Tất cả kỵ binh của Đại Nam đều giống nhau, khi nhận được chiến mã của riêng mình, trong lòng đều cảm thấy kiêu ngạo. Đó là vì chiến mã thiếu thốn, không phải tùy tiện một sĩ binh có thể trở thành kỵ binh. Bởi vậy bọn họ bắt buộc phải nhanh nhẹn, giỏi võ, dáng người khôi ngô cường tráng. Mà vì thế, bọn họ được đãi ngộ cũng tốt hơn bộ binh, ngay cả quân lương đều gấp đôi bộ binh.
Nhưng có ai biết bọn họ phải bỏ ra mồ hôi hơn bộ binh rất nhiều. Lúc bộ binh mới cầm vũ khí luyện tập, thì bọn họ đã luyện tập được một lúc. Lúc bộ binh nghỉ ngơi, thì bọn họ vẫn còn phải luyện tập. Bất kể mưa gió, nóng lạnh, kỵ binh đều không ngừng nỗ lực, tất cả là để đạt tới giấc mộng vượt qua kỵ binh Thiên Thuận. Nhưng… lúc đi lên chiến trường, bọn họ mới phát hiện ra rằng, kỵ binh tưởng như kiêu ngạo nhất không ngờ lại trở thành vô dụng nhất.
Triệu Thất không giận vì những bộ binh kia châm chọc. Thậm chí không giận kẻ địch.
Bàn tay nắm chặt lấy dây cương ngựa, đôi mắt của Triệu Thất như bốc lửa.
- Giáo Úy!
Một tên kỵ binh không chịu được sự châm chọc và coi thường của bộ binh, nhìn sang Triệu Thất, lớn tiếng hỏi:
- Chẳng lẽ chúng ta cứ trơ mắt nhìn đồng đội của mình tử chiến? Chẳng lẽ chúng ta vất vả tập luyện không kể mưa gió chỉ để khoanh tay đứng nhìn?
- Câm miệng!
Triệu Thất cắn môi, nói:
- Chúng ta là kỵ binh, nhưng đầu tiên chúng ta là một người lính. Quân nhân… phải phục tùng theo quân lệnh. Tướng quân còn chưa có mệnh lệnh, các ngươi im lặng chờ đợi cho ta!
- Nhưng…
- Không nhưng nhị gì cả!
Triệu Thất nhìn về phía đám dân chăn nuôi đang dần dần tản ra, sau đó lại đi về hướng bên này, hắn biết rằng Tiểu tướng Phan Mỹ và các huynh đệ Doanh Thường Thắng đã tử trận hết rồi. Vừa nãy, hai trăm kỵ binh của hắn đã sẵn sàng để cứu Phan Mỹ, nhưng họ lại bị Tiểu tướng Triệu Sâm ngăn cản.
Bọn họ phải trơ mắt nhìn đồng đội của mình chết trận, giống như phế vật vô dụng không thể làm được gì.
Đó rõ ràng là tính mạng của một nghìn hai trăm người. Một nghìn hai trăm người chết trong sự vây công của hơn vạn dân chăn nuôi quần áo rách rưới. Lúc những người đó huyết chiến, họ mong mỏi đồng đội tới cứu đến cỡ nào? Nhưng toàn bộ bọn họ đều chết trận, tới tận lúc chết họ cũng không thấy chiến kỳ màu đỏ rực của Đại Nam xuất hiện ở phía sau kẻ địch.
Trong lòng Triệu Thất đang rỉ máu. Hắn thật sự muốn rít gào để giải tỏa buồn bực trong lòng.
Nhưng hắn thu hồi ánh mắt, không khỏi quay mặt nhìn về phía tướng quân Triệu Sâm. Vừa lúc đó, một kỵ binh được hắn phái đi dò hỏi chỉ thị của Triệu Sâm trở về, cúi đầu, vẻ mặt đầy thất vọng.
- Giáo Úy… Tướng quân bảo chúng ta đợi lệnh.
Kỵ binh nói rất nhỏ, dường như sợ nói to sẽ làm tổn thương lòng mình.
- Đợi lệnh…
Triệu Thất thì thào nói, bàn tay đang năm dây cương lộ gân xanh.
Cách y không xa, Tiểu tướng Triệu Sâm lệnh cho binh lính bố trí phòng ngự ở cửa thung lũng nhân lúc kẻ địch còn chưa xông tới. Binh lính vội vàng đào những hố cách cửa ra phía tây thung lũng chừng mười mét. Những hố này rất cạn cũng không lớn. Nhưng một khi ngựa phóng nhanh dẫm lên những cái hố này, chúng sẽ mất đi trọng tâm.
- May mắn!
Triệu Thất lau mồ hôi trên trán, lẩm bẩm:
- May mắn đám dân chăn nuôi kia không biết nặng nhẹ. May mắn họ giết người tới mất cả lý trí, tất cả bọn họ đều liều mạng bao vây Doanh Thường Thắng của Phan Mỹ, mà không chia đội ra chiếm lấy thung lũng này. Chỉ sợ đây là một việc mà ngay cả Thế Anh cũng không ngờ tới. Đám dân chăn nuôi này chưa từng được huấn luyện, không hiểu cái gì là chiến thuật, nếu không chỉ sợ chúng ta đã trở thành một tội nhân rồi.
- Tướng quân!
Lính quan sát đứng ở trên cao nhìn xuống dưới, la lớn:
- Tình hình bên kia của Nguyễn tướng quân bên kia không được tốt lắm! Kỵ binh địch bao vây quân trận bắn tên chứ không trực tiếp tấn công. Quân trận của chúng ta càng ngày càng nhỏ rồi!
- Thật là chiến thuật ngoan độc!
Đồng tử Triệu Sâm co lại, trầm mặc một lúc, liền la lên:
- Lính liên lạc đâu, gọi Giáo Úy kỵ binh Triệu Thất tới đây tìm ta.
- Vâng!
Lính liên lạc lên tiếng, xoay người rời đi.
…
…
Trên trán Nguyễn Văn Dũng đã đổ đầy mồ hôi. Hắn nhìn những kỵ binh Thiên Thuận kia, khóe miệng run rẩy, thoạt nhìn có vẻ đau khổ. Trước khi tiến quân, hắn cho rằng mình đã biết tất cả chiến thuật của khinh kỵ binh Thiên Thuận, và hắn cũng đã nghĩ kỹ cách ứng đối. Nhưng hắn lại xem nhẹ một điều, đó là kỵ binh của địch dựa vào ưu thế tốc độ chỉ chạy bên ngoài trận, rồi dùng cung tiễn mài mòn dần quân trận.
Kẻ địch kêu gào chạy quanh cách bốn mươi bước, nhưng không thể tạo sát thương với kẻ địch. Kỵ cung làm từ gỗ hoàng dương trong tay kẻ địch có tốc độ bắn nhanh hơn cung của bộ binh của Đại Nam. Nhức đầu nhất chính là tốc độ của kẻ địch cũng nhanh hơn. Cung tiễn thủ của Đại Nam bắn tên ra nhưng thường xuyên bắn hụt. Mặc dù đã hạ lệnh cung tiễn thủ không cần phải ngắm bắn, cứ thỏa sức bắn, song tỷ lệ tử vong đôi bên vẫn rất chênh lệch.
Điều duy nhất khiến kẻ địch rung động chính là ba mươi cái nỏ lớn. Nhưng do nỏ quá lớn, quá chậm chạp. Nếu kẻ thù ở ngay trước mặt, thì sẽ có uy lực rất lớn. Thế nhưng kẻ địch dùng chiến thuật vừa bắn vừa chạy, khiến cho nỏ lớn không phát huy được tác dụng.
Thuẫn binh có chưa tới một trăm năm mươi người, không thể bảo vệ toàn bộ đội hình được. Song cho dù thuẫn binh có thể bảo vệ được, chỉ co cụm bên trong không có lực trả đòn, thì làm được gì?
Nhìn một lúc, Nguyễn Văn Dũng cắn môi, rốt cuộc hạ lệnh.
- Tấn công!
Hắn giơ hoành đao lên, hét lớn:
- Thà xung phong chết trận, còn hơn chịu cảnh thế này!
- Xông về phía trước.
Gần một nghìn năm trăm bộ binh Đại Nam phát ra tiếng gầm giận dữ, lập tức thay đổi trận hình. Thuẫn binh chia ra hai bên, cung tiễn thủ ở cuối cùng, trường thương binh xông về phía trước. Đi đầu là Nguyễn Văn Dũng và mười mấy thân binh. Đây cũng là nhóm kỵ binh duy nhất trong đội quân này.
Nhưng lúc xung phong, Nguyễn Văn Dũng và thân binh đều nhảy xuống chiến mã, cùng với bộ binh xông về phía trước. Không hề tiếc chiến mã của mình.
- Xông về phía trước!
- Thà xung phong mà chết!
Đám binh lính đều hô to, vẻ mặt đầy quyết tâm.
Thế Anh thấy người Đại Nam chợt thay đổi đội hình, không nhịn được phát ra tiếng cười đắc ý:
- Như vậy mà người Đại Nam cũng dám tự xưng là bách chiến bách thắng? Ta chỉ dùng một đám dân chăn nuôi liền giết gần như một nửa binh mã của bọn chúng. Nếu ta thích, có thể tiếp tục dùng chiến thuật kỵ binh này vờn quanh bọn chúng như mèo vờn chuột. Nhưng ta sẽ không làm như vậy… Bọn chúng đã lựa chọn tấn công, vậy hãy để cho bọn chúng nhìn thấy đội quân mạnh nhất thế giới giết người như thế nào, tấn công như thế nào!
- Thổi sừng trâu, nghênh chiến!
Hắn rút loan đao chỉ về phía trước.
Tiếng sừng trâu trầm đục lập tức vang lên. Tất cả kỵ binh bày trận, sau đó đi theo Thế Anh giết về hướng quân Đại Nam.
Người Đại Nam kiêu ngạo, người Thiên Thuận cũng như vậy. Lúc kẻ địch lựa chọn xung phong, sự kiêu ngạo của Thế Anh không cho phép hắn chỉ co cụm phòng thủ. Hắn muốn đánh chính diện với Nguyễn Văn Dũng, đối thủ ba năm ở bên kia dãy núi.
…
Những dân chăn nuôi cuồng bạo, dã man của Thiên Thuận dùng chiến thuật biển người bao vây Doanh Thường Thắng của Phan Mỹ. Một nghìn hai trăm tinh binh được huấn luyện bài bản của Hữu Kiêu Vệ Đại Nam chết trận trong sự nghẹn khuất. Tuy không có ai trong số bọn họ đầu hàng, nhưng đối thủ không phải là quân đội chính quy của Thiên Thuận, điều này làm cho bọn họ đều tức giận và buồn bực.
Mà đám dân chăn nuôi giết đỏ cả con mắt, cũng không vì tổn thất lớn mà dừng tay. Lúc bọn họ phát hiện người Đại Nam bị bọn họ bao vây đã bị bọn họ giết sạch, lập tức quay đầu ngựa đi về hướng thung lũng. Dẫu lúc trước Thế Anh lệnh cho bọn họ nhất định phải chiếm được thung lũng, song khi bắt đầu chém giết, bọn họ đã không thể khống chế được bản thân.
Chừng sáu nghìn dân chăn nuôi bao gồm cả nam lẫn nữ gào thét xông vào thung lũng. Bởi vì đế quốc Thiên Thuận đã quy định, mỗi một hộ dân chăn nuôi chỉ cho phép có một cây cung, cho nên áp lực lên bộ binh của Đại Nam không lớn lắm. Bằng không, sáu nghìn dân chăn nuôi này vừa xông lên vừa bắn cung, thì bọn họ cũng không chịu được lâu.
Dân chăn nuôi điên cuồng kêu to giục ngựa lao về phía trước.
Đằng trước có không ít người bởi vì ngựa đạp vào hố mà bị ngã xuống. Mà một khi bị ngã, sẽ không có cơ hội trốn tránh, lập tức bị vó ngựa đằng sau giẫm thành thịt nát. Vó ngựa giẫm lên vũng máu lẫn nội tạng, phát ra tiếng “bịch bịch”.
- Bắn tên!
Triệu Sâm hét lớn ra lệnh.
Một trận mưa tên không lớn lắm trút xuống, dân chăn nuôi vốn không có kinh nghiệm chiến đấu, cũng không biết trốn tránh như thế nào, vì thế không ngừng có người ngã ngựa.
Hàng rào bằng lao được quân Đại Nam bố trí trước cửa thung lũng cũng phát huy tác dụng lớn. Trong khoảng thời gian ngắn, đám dân chăn nuôi không biết gỡ bỏ mấy thứ đó như thế nào. Bọn họ nhảy xuống lưng ngựa, ngốc nghếch di chuyển, muốn thoát khỏi chướng ngại vật này. Nhưng cung tiễn thủ của Đại Nam làm sao cho bọn họ cơ hội đó?
Rất nhanh, trên hàng rào cắm đầy thi thể.
Dần dần, ở trước cửa thung lũng tạo thành một bức tường thịt cao cao.
Quân Đại Nam bắn hết cung trong giỏ, liền ném giáo. Khi ném hết cả giáo, bọn họ rút Hoành Đao ra xông lên chém giết.
Dân chăn nuôi bị tổn thất rất lớn, đã không thể cưỡi ngựa vượt qua đống thi thể. Bọn họ nhảy xuống ngựa, quơ đủ loại binh khí xông tới. Tuy nhiên vũ khí như cung tên, loan đao,… không phải dân chăn nuôi nào cũng có được.
Ở bất kỳ thời đại nào, ở bất kỳ quốc gia nào, quân chủ đều sẽ không cho phép dân chúng của mình cầm vũ khí trong tay để tránh nguy cơ làm loạn. Hơn nữa, Thiên Thuận là một quốc gia thiếu sắt thép. Cho nên không ít dân chăn nuôi vung lên gậy gỗ được vót nhọn trong tay.
Dân chăn nuôi một khi xuống ngựa, đâu phải là đối thủ của tinh binh Đại Nam? Đương nhiên, khi số lượng nhiều hơn gấp chục lần, thì những dân chăn nuôi này mới có cơ hội thắng.
Lúc bắt đầu chém giết, quân Đại Nam chỉ còn lại chưa tới bốn trăm người. Bọn họ miễn cưỡng tạo thành phòng tuyến ba tầng ở trước cửa thung lũng. Thoạt nhìn đơn độc, có chút đáng thương.
Dân chăn nuôi tầng tầng ngã xuống. Binh lính Đại Nam cũng dần giảm bớt.
Ngay lúc chỉ còn sáu, bảy mươi binh lính Đại Nam vất vả chống đỡ, thì phía sau dân chăn nuôi bỗng nhiên đại loạn. Dân chăn nuôi đã lâm vào sụp đổ, rốt cuộc không chịu được sự sợ chết, bắt đầu kêu khóc chạy trốn. Nếu bọn họ phát hiện ra kẻ địch đánh phía sau chỉ là một đội kỵ binh chưa tới một trăm người, chắc chắn bọn họ sẽ hối hận vì sao mình lựa chọn chạy trốn.
Nguyễn Văn Dũng đã trở lại, trên người trúng ba mũi tên, áo giáp dính đầy máu.
Kỵ binh đã trở lại, tổn thất hơn nửa. Nhưng bọn họ dùng thương để tuyên bố rằng tuy bọn họ ít người, nhưng còn đáng sợ hơn cả kỵ binh Thiên Thuận.
Bộ binh không ai trở về, toàn bộ chết trận. Thi thể của bọn họ lưu lại trên thảo nguyên. Cũng không biết linh hồn của bọn họ có thể vượt qua dãy núi Sơn Khê rồi trở về với quê hương hay không.
Đây là ngày đầu tiên của cuộc chiến. Quân Đại Nam dẫn theo năm nghìn binh mã rời khỏi thung lũng Sơn Khê, sau trận chiến chỉ còn lại chưa tới hai trăm người. Tuy bọn họ đã giết được tám nghìn dân chăn nuôi và hơn một nghìn sáu trăm kỵ binh Thiên Thuận, nhưng đây có thể coi là thắng lợi sao?
Có lẽ, nhưng mà thắng thảm.
- Nhìn xem!
Một bộ binh vừa sửa sang lại cung tên, vừa trào phúng nói với một người bạn bên cạnh:
- Trang bị trên người cộng lại đủ mua trinh tiết của một gái lầu xanh rồi. Nhưng lúc chúng ta phải chém giết, thì người ta lại đi dạo… Cái mạng người đều giống nhau, mà của người ta lại quý giá như vậy.
Một binh lính khác che miệng hắn lại, ra hiệu là Triệu Sâm đang nhìn về bên này.
- Sợ cái gì!
Binh lính nọ vừa châm chọc, vừa nhún vai tỏ vẻ bất cần:
- Đánh xong trận chiến này mà ông đây vẫn còn sống mới là kỳ tích. Hiện tại không nói hết ra, lúc xuống địa ngục bị rút lưỡi không nói được nữa, đó chẳng phải là chịu thiệt sao?
Hắn nhìn vết đao trên cánh tay của mình, nhíu mày một cái, rồi xé vạt áo, tùy tiện băng bó:
- Lúc rời khỏi thung lũng, người ta cưỡi ngựa đi tuốt về phía trước diễu võ dương oai. Lúc lui về thung lũng phòng thủ, người ta vẫn chạy trước tiên, không mất đi cộng lông mớ tóc gì. Kiếp sau đầu thai vẫn là Đại Nam, nhưng ông đây tình nguyện làm một con ngựa!
Sắc mặt Giáo Úy kỵ binh Triệu Thất rất khó coi. Bộ binh bên kia châm chọc, giống như thanh dao găm đâm vào tim hắn. Tất cả kỵ binh của Đại Nam đều giống nhau, khi nhận được chiến mã của riêng mình, trong lòng đều cảm thấy kiêu ngạo. Đó là vì chiến mã thiếu thốn, không phải tùy tiện một sĩ binh có thể trở thành kỵ binh. Bởi vậy bọn họ bắt buộc phải nhanh nhẹn, giỏi võ, dáng người khôi ngô cường tráng. Mà vì thế, bọn họ được đãi ngộ cũng tốt hơn bộ binh, ngay cả quân lương đều gấp đôi bộ binh.
Nhưng có ai biết bọn họ phải bỏ ra mồ hôi hơn bộ binh rất nhiều. Lúc bộ binh mới cầm vũ khí luyện tập, thì bọn họ đã luyện tập được một lúc. Lúc bộ binh nghỉ ngơi, thì bọn họ vẫn còn phải luyện tập. Bất kể mưa gió, nóng lạnh, kỵ binh đều không ngừng nỗ lực, tất cả là để đạt tới giấc mộng vượt qua kỵ binh Thiên Thuận. Nhưng… lúc đi lên chiến trường, bọn họ mới phát hiện ra rằng, kỵ binh tưởng như kiêu ngạo nhất không ngờ lại trở thành vô dụng nhất.
Triệu Thất không giận vì những bộ binh kia châm chọc. Thậm chí không giận kẻ địch.
Bàn tay nắm chặt lấy dây cương ngựa, đôi mắt của Triệu Thất như bốc lửa.
- Giáo Úy!
Một tên kỵ binh không chịu được sự châm chọc và coi thường của bộ binh, nhìn sang Triệu Thất, lớn tiếng hỏi:
- Chẳng lẽ chúng ta cứ trơ mắt nhìn đồng đội của mình tử chiến? Chẳng lẽ chúng ta vất vả tập luyện không kể mưa gió chỉ để khoanh tay đứng nhìn?
- Câm miệng!
Triệu Thất cắn môi, nói:
- Chúng ta là kỵ binh, nhưng đầu tiên chúng ta là một người lính. Quân nhân… phải phục tùng theo quân lệnh. Tướng quân còn chưa có mệnh lệnh, các ngươi im lặng chờ đợi cho ta!
- Nhưng…
- Không nhưng nhị gì cả!
Triệu Thất nhìn về phía đám dân chăn nuôi đang dần dần tản ra, sau đó lại đi về hướng bên này, hắn biết rằng Tiểu tướng Phan Mỹ và các huynh đệ Doanh Thường Thắng đã tử trận hết rồi. Vừa nãy, hai trăm kỵ binh của hắn đã sẵn sàng để cứu Phan Mỹ, nhưng họ lại bị Tiểu tướng Triệu Sâm ngăn cản.
Bọn họ phải trơ mắt nhìn đồng đội của mình chết trận, giống như phế vật vô dụng không thể làm được gì.
Đó rõ ràng là tính mạng của một nghìn hai trăm người. Một nghìn hai trăm người chết trong sự vây công của hơn vạn dân chăn nuôi quần áo rách rưới. Lúc những người đó huyết chiến, họ mong mỏi đồng đội tới cứu đến cỡ nào? Nhưng toàn bộ bọn họ đều chết trận, tới tận lúc chết họ cũng không thấy chiến kỳ màu đỏ rực của Đại Nam xuất hiện ở phía sau kẻ địch.
Trong lòng Triệu Thất đang rỉ máu. Hắn thật sự muốn rít gào để giải tỏa buồn bực trong lòng.
Nhưng hắn thu hồi ánh mắt, không khỏi quay mặt nhìn về phía tướng quân Triệu Sâm. Vừa lúc đó, một kỵ binh được hắn phái đi dò hỏi chỉ thị của Triệu Sâm trở về, cúi đầu, vẻ mặt đầy thất vọng.
- Giáo Úy… Tướng quân bảo chúng ta đợi lệnh.
Kỵ binh nói rất nhỏ, dường như sợ nói to sẽ làm tổn thương lòng mình.
- Đợi lệnh…
Triệu Thất thì thào nói, bàn tay đang năm dây cương lộ gân xanh.
Cách y không xa, Tiểu tướng Triệu Sâm lệnh cho binh lính bố trí phòng ngự ở cửa thung lũng nhân lúc kẻ địch còn chưa xông tới. Binh lính vội vàng đào những hố cách cửa ra phía tây thung lũng chừng mười mét. Những hố này rất cạn cũng không lớn. Nhưng một khi ngựa phóng nhanh dẫm lên những cái hố này, chúng sẽ mất đi trọng tâm.
- May mắn!
Triệu Thất lau mồ hôi trên trán, lẩm bẩm:
- May mắn đám dân chăn nuôi kia không biết nặng nhẹ. May mắn họ giết người tới mất cả lý trí, tất cả bọn họ đều liều mạng bao vây Doanh Thường Thắng của Phan Mỹ, mà không chia đội ra chiếm lấy thung lũng này. Chỉ sợ đây là một việc mà ngay cả Thế Anh cũng không ngờ tới. Đám dân chăn nuôi này chưa từng được huấn luyện, không hiểu cái gì là chiến thuật, nếu không chỉ sợ chúng ta đã trở thành một tội nhân rồi.
- Tướng quân!
Lính quan sát đứng ở trên cao nhìn xuống dưới, la lớn:
- Tình hình bên kia của Nguyễn tướng quân bên kia không được tốt lắm! Kỵ binh địch bao vây quân trận bắn tên chứ không trực tiếp tấn công. Quân trận của chúng ta càng ngày càng nhỏ rồi!
- Thật là chiến thuật ngoan độc!
Đồng tử Triệu Sâm co lại, trầm mặc một lúc, liền la lên:
- Lính liên lạc đâu, gọi Giáo Úy kỵ binh Triệu Thất tới đây tìm ta.
- Vâng!
Lính liên lạc lên tiếng, xoay người rời đi.
…
…
Trên trán Nguyễn Văn Dũng đã đổ đầy mồ hôi. Hắn nhìn những kỵ binh Thiên Thuận kia, khóe miệng run rẩy, thoạt nhìn có vẻ đau khổ. Trước khi tiến quân, hắn cho rằng mình đã biết tất cả chiến thuật của khinh kỵ binh Thiên Thuận, và hắn cũng đã nghĩ kỹ cách ứng đối. Nhưng hắn lại xem nhẹ một điều, đó là kỵ binh của địch dựa vào ưu thế tốc độ chỉ chạy bên ngoài trận, rồi dùng cung tiễn mài mòn dần quân trận.
Kẻ địch kêu gào chạy quanh cách bốn mươi bước, nhưng không thể tạo sát thương với kẻ địch. Kỵ cung làm từ gỗ hoàng dương trong tay kẻ địch có tốc độ bắn nhanh hơn cung của bộ binh của Đại Nam. Nhức đầu nhất chính là tốc độ của kẻ địch cũng nhanh hơn. Cung tiễn thủ của Đại Nam bắn tên ra nhưng thường xuyên bắn hụt. Mặc dù đã hạ lệnh cung tiễn thủ không cần phải ngắm bắn, cứ thỏa sức bắn, song tỷ lệ tử vong đôi bên vẫn rất chênh lệch.
Điều duy nhất khiến kẻ địch rung động chính là ba mươi cái nỏ lớn. Nhưng do nỏ quá lớn, quá chậm chạp. Nếu kẻ thù ở ngay trước mặt, thì sẽ có uy lực rất lớn. Thế nhưng kẻ địch dùng chiến thuật vừa bắn vừa chạy, khiến cho nỏ lớn không phát huy được tác dụng.
Thuẫn binh có chưa tới một trăm năm mươi người, không thể bảo vệ toàn bộ đội hình được. Song cho dù thuẫn binh có thể bảo vệ được, chỉ co cụm bên trong không có lực trả đòn, thì làm được gì?
Nhìn một lúc, Nguyễn Văn Dũng cắn môi, rốt cuộc hạ lệnh.
- Tấn công!
Hắn giơ hoành đao lên, hét lớn:
- Thà xung phong chết trận, còn hơn chịu cảnh thế này!
- Xông về phía trước.
Gần một nghìn năm trăm bộ binh Đại Nam phát ra tiếng gầm giận dữ, lập tức thay đổi trận hình. Thuẫn binh chia ra hai bên, cung tiễn thủ ở cuối cùng, trường thương binh xông về phía trước. Đi đầu là Nguyễn Văn Dũng và mười mấy thân binh. Đây cũng là nhóm kỵ binh duy nhất trong đội quân này.
Nhưng lúc xung phong, Nguyễn Văn Dũng và thân binh đều nhảy xuống chiến mã, cùng với bộ binh xông về phía trước. Không hề tiếc chiến mã của mình.
- Xông về phía trước!
- Thà xung phong mà chết!
Đám binh lính đều hô to, vẻ mặt đầy quyết tâm.
Thế Anh thấy người Đại Nam chợt thay đổi đội hình, không nhịn được phát ra tiếng cười đắc ý:
- Như vậy mà người Đại Nam cũng dám tự xưng là bách chiến bách thắng? Ta chỉ dùng một đám dân chăn nuôi liền giết gần như một nửa binh mã của bọn chúng. Nếu ta thích, có thể tiếp tục dùng chiến thuật kỵ binh này vờn quanh bọn chúng như mèo vờn chuột. Nhưng ta sẽ không làm như vậy… Bọn chúng đã lựa chọn tấn công, vậy hãy để cho bọn chúng nhìn thấy đội quân mạnh nhất thế giới giết người như thế nào, tấn công như thế nào!
- Thổi sừng trâu, nghênh chiến!
Hắn rút loan đao chỉ về phía trước.
Tiếng sừng trâu trầm đục lập tức vang lên. Tất cả kỵ binh bày trận, sau đó đi theo Thế Anh giết về hướng quân Đại Nam.
Người Đại Nam kiêu ngạo, người Thiên Thuận cũng như vậy. Lúc kẻ địch lựa chọn xung phong, sự kiêu ngạo của Thế Anh không cho phép hắn chỉ co cụm phòng thủ. Hắn muốn đánh chính diện với Nguyễn Văn Dũng, đối thủ ba năm ở bên kia dãy núi.
…
Những dân chăn nuôi cuồng bạo, dã man của Thiên Thuận dùng chiến thuật biển người bao vây Doanh Thường Thắng của Phan Mỹ. Một nghìn hai trăm tinh binh được huấn luyện bài bản của Hữu Kiêu Vệ Đại Nam chết trận trong sự nghẹn khuất. Tuy không có ai trong số bọn họ đầu hàng, nhưng đối thủ không phải là quân đội chính quy của Thiên Thuận, điều này làm cho bọn họ đều tức giận và buồn bực.
Mà đám dân chăn nuôi giết đỏ cả con mắt, cũng không vì tổn thất lớn mà dừng tay. Lúc bọn họ phát hiện người Đại Nam bị bọn họ bao vây đã bị bọn họ giết sạch, lập tức quay đầu ngựa đi về hướng thung lũng. Dẫu lúc trước Thế Anh lệnh cho bọn họ nhất định phải chiếm được thung lũng, song khi bắt đầu chém giết, bọn họ đã không thể khống chế được bản thân.
Chừng sáu nghìn dân chăn nuôi bao gồm cả nam lẫn nữ gào thét xông vào thung lũng. Bởi vì đế quốc Thiên Thuận đã quy định, mỗi một hộ dân chăn nuôi chỉ cho phép có một cây cung, cho nên áp lực lên bộ binh của Đại Nam không lớn lắm. Bằng không, sáu nghìn dân chăn nuôi này vừa xông lên vừa bắn cung, thì bọn họ cũng không chịu được lâu.
Dân chăn nuôi điên cuồng kêu to giục ngựa lao về phía trước.
Đằng trước có không ít người bởi vì ngựa đạp vào hố mà bị ngã xuống. Mà một khi bị ngã, sẽ không có cơ hội trốn tránh, lập tức bị vó ngựa đằng sau giẫm thành thịt nát. Vó ngựa giẫm lên vũng máu lẫn nội tạng, phát ra tiếng “bịch bịch”.
- Bắn tên!
Triệu Sâm hét lớn ra lệnh.
Một trận mưa tên không lớn lắm trút xuống, dân chăn nuôi vốn không có kinh nghiệm chiến đấu, cũng không biết trốn tránh như thế nào, vì thế không ngừng có người ngã ngựa.
Hàng rào bằng lao được quân Đại Nam bố trí trước cửa thung lũng cũng phát huy tác dụng lớn. Trong khoảng thời gian ngắn, đám dân chăn nuôi không biết gỡ bỏ mấy thứ đó như thế nào. Bọn họ nhảy xuống lưng ngựa, ngốc nghếch di chuyển, muốn thoát khỏi chướng ngại vật này. Nhưng cung tiễn thủ của Đại Nam làm sao cho bọn họ cơ hội đó?
Rất nhanh, trên hàng rào cắm đầy thi thể.
Dần dần, ở trước cửa thung lũng tạo thành một bức tường thịt cao cao.
Quân Đại Nam bắn hết cung trong giỏ, liền ném giáo. Khi ném hết cả giáo, bọn họ rút Hoành Đao ra xông lên chém giết.
Dân chăn nuôi bị tổn thất rất lớn, đã không thể cưỡi ngựa vượt qua đống thi thể. Bọn họ nhảy xuống ngựa, quơ đủ loại binh khí xông tới. Tuy nhiên vũ khí như cung tên, loan đao,… không phải dân chăn nuôi nào cũng có được.
Ở bất kỳ thời đại nào, ở bất kỳ quốc gia nào, quân chủ đều sẽ không cho phép dân chúng của mình cầm vũ khí trong tay để tránh nguy cơ làm loạn. Hơn nữa, Thiên Thuận là một quốc gia thiếu sắt thép. Cho nên không ít dân chăn nuôi vung lên gậy gỗ được vót nhọn trong tay.
Dân chăn nuôi một khi xuống ngựa, đâu phải là đối thủ của tinh binh Đại Nam? Đương nhiên, khi số lượng nhiều hơn gấp chục lần, thì những dân chăn nuôi này mới có cơ hội thắng.
Lúc bắt đầu chém giết, quân Đại Nam chỉ còn lại chưa tới bốn trăm người. Bọn họ miễn cưỡng tạo thành phòng tuyến ba tầng ở trước cửa thung lũng. Thoạt nhìn đơn độc, có chút đáng thương.
Dân chăn nuôi tầng tầng ngã xuống. Binh lính Đại Nam cũng dần giảm bớt.
Ngay lúc chỉ còn sáu, bảy mươi binh lính Đại Nam vất vả chống đỡ, thì phía sau dân chăn nuôi bỗng nhiên đại loạn. Dân chăn nuôi đã lâm vào sụp đổ, rốt cuộc không chịu được sự sợ chết, bắt đầu kêu khóc chạy trốn. Nếu bọn họ phát hiện ra kẻ địch đánh phía sau chỉ là một đội kỵ binh chưa tới một trăm người, chắc chắn bọn họ sẽ hối hận vì sao mình lựa chọn chạy trốn.
Nguyễn Văn Dũng đã trở lại, trên người trúng ba mũi tên, áo giáp dính đầy máu.
Kỵ binh đã trở lại, tổn thất hơn nửa. Nhưng bọn họ dùng thương để tuyên bố rằng tuy bọn họ ít người, nhưng còn đáng sợ hơn cả kỵ binh Thiên Thuận.
Bộ binh không ai trở về, toàn bộ chết trận. Thi thể của bọn họ lưu lại trên thảo nguyên. Cũng không biết linh hồn của bọn họ có thể vượt qua dãy núi Sơn Khê rồi trở về với quê hương hay không.
Đây là ngày đầu tiên của cuộc chiến. Quân Đại Nam dẫn theo năm nghìn binh mã rời khỏi thung lũng Sơn Khê, sau trận chiến chỉ còn lại chưa tới hai trăm người. Tuy bọn họ đã giết được tám nghìn dân chăn nuôi và hơn một nghìn sáu trăm kỵ binh Thiên Thuận, nhưng đây có thể coi là thắng lợi sao?
Có lẽ, nhưng mà thắng thảm.
/241
|