Bất cứ một thế trận nào, một khi kẻ chủ động mà trở thành bị động, tinh thần sẽ theo đó mà tụt xuống vô phương cứu vãn.
Lý Đức Uy đến đây, bọn áo vàng được phi báo trước, chúng đã biết hắn là con cọp dữ và vì thế, chúng đã chuẩn bị thật chu đáo, chúng đã đặt đối phương đứng giữa hai hàng kiếm kích và nhứt là cung nỏ.
Quan trọng hơn hết là đám cung thủ được huấn luyện cực kỳ tinh nhuệ.
Từ tên mặc áo vàng mặt trắng dẫn xuống đám thuộc hạ thân cận và binh sĩ bên ngoài, chúng tin chắc mẻm là khi đã bước vào cái “rọ” của chúng rồi thì cọp dữ cũng trở thành... chồn dính bẫy.
Đám cầm kiếm kích sẵn sàng phóng ra những mũi nhọn sấm sét, đám cung thủ đợi chờ có lịnh buông tên nhưng họ không ngờ được rằng không bao giờ họ có cơ hội đó.
Và khi mà “cái chắc ăn” trong tay vuột mất, họ đâm ra luýnh quýnh, họ trở tay không kịp, không phải họ quá dở mà là tại họ bị bất thình lình đảo lộn tinh thần.
Một tay không ngưng thanh Ngư Trường kiếm, một tay Lý Đức Uy đoạt lấy những bó đuốc ném vào gian trại chính.
Gian lều rộng lớn được làm nơi đặt khu chỉ huy, gian lều được căng bằng thứ da trâu tẩm dầu - một thứ dầu chỉ có một dành cho trung khu đồn binh, thứ chỉ dành cho viên tướng chỉ huy, thứ coi như tên bắn không bao giờ lủng được, thế nhưng lại cũng là thứ bắt lửa rất nhanh.
Những bó đuốc của Lý Đức Uy vừa ném vào là lửa phựt lên ngay.
Chỉ trong nháy mắt đã có mười mấy gian trại bốc lửa lên cao.
Lửa tạo sức gió, gió tăng thế lửa, chỉ mới có mười mấy gian trại mà đã làm cho một góc trời hừng sáng.
Giữa lúc Đức Uy đang tung hoành thanh Ngư Trường kiếm, hắn chợt thấy từ góc phía Đông của giải trại dài, đám quân lính áo vàng vụt loạn lên.
Chúng tràn ra khỏi trại và cùng nhau chạy ngược về Tây.
Ban đầu Đức Uy cứ nghĩ là chúng được lịnh tràn tới để bao vây hắn, nhưng khi nhìn kỹ thì không phải vì chúng chạy toán loạn và nhiều tiếng rú nghe khủng khiếp.
Đức Uy còn đang ngơ ngác trước hiện tượng kỳ lạ thì hắn chợt thấy ánh sáng lạ lùng: ánh “Tử Quang”.
Tay của Đức Uy vẫn không ngừng, nhưng mắt hắn vô cùng kinh dị, nhìn chăm chăm về hướng có ánh sáng lạ lùng... và hắn vụt kêu lên :
- “Tử Kim đao”!
Hắn vừa dứt tiếng là đã thấy người.
Cũng giống y như một con cọp giữa bầy dê, một bóng người từ góc phía Đông càn tới.
Bóng người càn tới đâu, ánh “tử quang” cuốn theo tới đó và ánh sáng màu tía ấy cứ nhoáng lên là nhiều bựng máu bắn theo.
Ánh hừng hừng của lửa cháy, ánh sáng màu tía của thanh “Tử Kim đao” và những bựng máu lóng lánh vọt lên như hoa cải, những thứ đó hòa trộn với nhau tạo thành màu sắc... đẹp lạnh mình.
Hồi nãy, chỉ loạn ở phân trại trung khu, bây giờ thì tất cả đều loạn hết.
Một thanh Ngư Trường kiếm đã làm cho đoàn quân của Lý Tự Thành khủng khiếp, bây giờ thêm một thanh Tử Kim đao, khiến cho khu trại đằng đằng sát khí của đoàn quân áo vàng xẹp xuống như quả bóng xì hơi.
Đúng như lời của Hải Hoàng đã nói, võ công của La Hán không hơn được Lý Đức Uy, nhưng khí thế của hắn quả không ai qua nổi.
Đám quân áo vàng của Lý Tự Thành bây giờ y như đạo quân Tào Tháo, chúng rất ngán Quan Vân Trường, nhưng thật sự càn đạp lên nhau mà chạy khi chúng chạm mặt Trương Phi.
Bây giờ đám quân áo vàng quả đã càn lên nhau mà chạy.
Thân ảnh của La Hán theo chân nhún nhồi lên nhồi xuống tiếng về phía Đức Uy, thanh đao trên tay hắn từ trên xuống dưới, từ trái qua phải và ngược lại, ánh “tử quang” loang loáng theo ánh máu.
Những tiếng rú bây giờ biến thành những tiếng kêu khóc, bất cứ một đám đông nào, chỉ cần tiếng khởi đầu một khi đã có một người kinh hoàng đến mức kêu cha mẹ, kêu khóc như một đứa trẻ thì cả bọn như bị giựt dây, tiếng kêu khóc vì thế rên lên từng chập.
Bây giờ không phải là “đoàn quân tinh nhuệ, kiếm đã tuốt vỏ, tên đã lên cung” nữa, họ đã biến thành những nạn nhân của một... thiên tai, họ ùn ùn càn lên nhau không còn biết, không còn nhớ chút gì là sĩ diện.
Đức Uy đứng sững nhìn La Hán.
La Hán chống thanh đao quắc mắt nhìn theo đám quân ôm đầu tán loạn.
Trước mắt hắn những thây người bị tiện làm đôi, máu và ruột trào lổn ngổn dưới ánh lửa chập chờn.
La Hán chống thanh đao mở trừng đôi mắt đỏ ngầu.
Đức Uy thảng thốt kêu lên :
- La Hán...
Giọng La Hán trầm trầm :
- Đã trật chỗ rồi, Lý Tự Thành đã độ quân về hướng Bắc.
Đức Uy sửng sốt...
La Hán vùng thét lên một tiếng, thanh Tử Kim đao vớt trái ra sau.
Một tên áo vàng từ trong tay hắn giáng ngay xuống ót La Hán, phóng ra ngọn đại đao trong chỗ tranh tối tranh sáng thình lình, nhưng hắn đã chậm mất một giây, y như sau ót có thêm con mắt, thính giác của La Hán thật vô cùng bén nhạy, hắn vẫn đứng y một chỗ không hề quay lại nhưng khi ánh “tử quang” nhoáng lên thì bựng máu xối ướt vạt sau của La Hán, tên áo vàng đánh lén không kịp kêu một tiếng, thây hắn bị tiện làm hai khúc.
La Hán nói :
- Có làm nơi này thành bình địa cũng chỉ vô ích, đi!
Hắn lao tới trước mở đường.
Đức Uy vung Ngư Trường kiếm theo sau.
Đám áo vàng chưa kịp chạy vội giạt ra hai bên, họ đạp lên nhau để giạt ra, đạp càn lên lửa để dạt ra, họ run rẩy nhìn theo La Hán và Đức Uy, họ cảm thấy tử thần đã bắt đầu rời khỏi, họ thiếu điều mang nhang đèn ra quỳ lạy “tống ôn”, họ không còn lòng dạ nào dám nghĩ đến chuyện xông ra cản.
La Hán và Đức Uy ra khỏi vòng trại địch một cách yên lành.
La Hán dừng đứng lại nhìn doanh trại của đám quân áo vàng bây giờ đã biến thành biển lửa, hắn nghiến răng quắc mắt :
- Như thế là tốt, nhưng vẫn chưa giết được Lý Tự Thành.
Đức Uy nhìn sững La Hán, từ nãy giờ hắn chỉ lo giết giặc và mừng vì cuộc hội kiến bất ngờ, nhất là vì đứng bên phải của La Hán nên hắn chưa thấy cánh tay bị cụt, hắn hỏi :
- La Hán, làm sao anh lại đến đây. Nghê Thường đâu?
Tia mắt của La Hán cứ đăm đăm về hướng biển lửa mà như nhìn vào khoảng trống xa xăm :
- Đang ở Trường An.
Đức Uy càng ngạc nhiên :
- Trường An? Sao nghe Mông lão bảo rằng nàng đi chung với anh?
La Hán đáp :
- Nàng với Mông lão và Dương, Tổ nhị cô nương ở chung với nhau.
Đức Uy mừng rỡ :
- Anh đã tìm được hai cô ấy à?
La Hán gật đầu :
- Tôi đưa hai người đến Trường An nghe được tin Dương đô đốc ngộ hại, Lý Tự Thành độ quân ngược Bắc nên tôi vội đuổi theo.
Hắn giấu không cho Đức Uy biết chuyện hắn bỏ đi không từ giã.
Đức Uy gật đầu :
- Có Mông lão thì không đáng ngại, nhưng anh tìm được hai cô nàng ấy ở đâu?
La Hán đáp :
- Tại Thiên Vương tự, bọn “Cúc Hoa đảo” và bọn Mãn Châu cùng ở chung nơi đó.
Không cần La Hán phải kể rõ, Đức Uy đã biết rằng đem được Mẫn Tuệ và Thiên Hương về đến Trường An nhất định La Hán đã phải qua một cuộc chiến sanh tử chớ không phải dễ dàng...
Hắn vô cùng cảm kích :
- La Hán, tôi không muốn nói lời cảm tạ đối với anh...
La Hán thản nhiên :
- Không cần phải khách sáo, thật ra thì tôi cũng không phải vì anh mà cứu hai người đó đâu!
Câu nói lạnh băng của La Hán làm cho Đức Uy “nghẹt lối” nhưng hắn không đặt thành vấn đề vì hắn thừa biết con người của “Tử Kim đao” tánh tình vốn như thế, con người không hề bộc lộ tình cảm ra ngoài.
Đức Uy chỉ nhìn La Hán cười cười, nhưng vụt nhớ ra, hắn vội hỏi :
- Còn Trầm cô nương...
Câu hỏi vừa tuôn ra là hắn hối hận ngay, vì hắn nhớ lại chuyện Ngọc Hà đã làm cho La Hán khốn khổ khi còn trong Bạch Liên giáo...
Thế nhưng La Hán vẫn điềm nhiên thuật lại cái chết của Ngọc Hà và chuyện nhờ đó mà hắn mới biết tin đến cứu Mẫn Tuệ và Thiên Hương...
Đức Uy lặng thinh không nói được một tiếng nào khi hắn nghe cái chết thê thảm của người đàn bà vừa biết ăn năn sám hối.
Thật lâu, Đức Uy mới hỏi :
- Trường An đã mất, Lý Tự Thành lại độ binh ngược về Kinh sư, Mông lão và chư vị cô nương chắc không còn cần phải ở lại Trường An nữa?
La Hán nói :
- Tánh tôi không thể chần chừ nên đi trước, có lẽ bây giờ thì các vị đó cũng đã lên đường.
Đức Uy hỏi :
- Dương cô nương có yên ổn không? Tôi muốn hỏi tình hình sau khi nghe tin dữ của Dương đô đốc?
La Hán nói :
- Dương cô nương là người con gái kiên cường, sự bi thống nếu có cũng không đến nỗi gây phương hại.
Đức Uy thở ra :
- Tôi chỉ mong nàng có thể khóc được, nếu nàng khóc được thì không nguy hại, tôi rất sợ nàng không khóc...
La Hán nói :
- Tôi nghĩ Dương cô nương sẽ biết bảo trọng để lo chuyện lớn hơn.
Đức Uy gật đầu :
- Cũng mong như thế...
Ngẫm nghĩ một giây, Đức Uy trầm ngâm nói tiếp :
- Cúc Hoa đảo được liệt danh là một trong “Tứ đại thế gia” trong võ lâm, uy thế vang lừng bốn cõi, giàu có một phương thế mà lại quên nguồn quên gốc, cấu kết ngoại bang, cam tâm làm đầy tớ cho ngoại tộc...
La Hán trầm giọng :
- Bọn đó đều cần phải giết!
Đức Uy nói :
- Tổ cô nương đã bỏ ám đầu minh, Tổ Tài Thần đã bị một vố mới cảm tình với Mãn Châu, Nam Cung Nguyệt cũng đã bất hòa với chúng nhưng không biết hiện tại như thế nào?
La Hán lắc đầu :
- Không nghe động tĩnh gì cả, chỉ có điều không thấy họ chung một chỗ với Mãn Châu như Cúc Hoa đảo.
Đức Uy trầm ngâm :
- Anh có nghe hiện thời Lý Tự Thành ở đâu không?
La Hán lắc đầu :
- Không rõ, chỉ biết hắn độ quân ngược lên mạn Bắc.
Đức Uy làm thinh suy nghĩ...
La Hán vụt nói :
- Lý huynh, tôi không khách khí vì thói quen nhưng không biết giữa “Ngư Trường kiếm” và “Tử Kim đao” chúng ta có thể nối lại thế giao của tiền nhân chăng?
Đức Uy nói :
- La Hán, chúng ta đã là bằng hữu lâu rồi.
La Hán nói :
- Tôi đã nợ anh nhiều quá!
Đức Uy thành khẩn :
- Đã là anh em với nhau thì đâu còn vấn đề ai nợ ai.
La Hán nói :
- Tôi đã làm một chuyện lỗi lầm với “Cùng Gia bang”.
Đức Uy nói :
- Tôi đã can thiệp chuyện đó và bây giờ thì không còn ai nghĩ gì nữa cả.
La Hán nói :
- Cũng chưa biết sẽ ra sao, những mong khi nào gặp gỡ, anh nói giùm một tiếng!
Đức Uy chưa nói gì thì La Hán đã tiếp luôn :
- Mông lão có một vấn đề mà tôi cần cho anh biết...
Đức Uy hỏi :
- Chuyện quan trọng lắm không?
La Hán đáp :
- Mông lão nghi ngờ Tào Hóa Thuần cấu kết Lý Tự Thành.
Và thuật lại lập luận của Mông Bất Danh đã nói ở Khai Nguyên tự, Đức Uy gật đầu :
- Điều đó có lý, tôi đã nhờ anh em “Cùng Gia bang” truyền báo chuyện đó vào Kinh cho nghĩa phụ tôi rồi!
La Hán nói :
- Chuyện này phải lo càng sớm càng tốt, vì Lý Tự Thành đổ quân về Bắc là đã có ý phạm Kinh sư, nếu không sớm giải quyết chuyện Tào Hóa Thuần để chúng tiếp tục nội ứng thì hậu quả vô cùng trầm trọng.
Đức Uy nói :
- Phải lắm, có lẽ tôi phải đến thôi thúc anh em Cùng Gia bang tiến hành thật sớm.
La Hán nói :
- Tôi cũng phải đi, hy vọng gặp lại khi cùng đi về hướng Bắc.
Hắn hoành thanh “Tử Kim đao” lên ngang ngực và tung mình vào bóng tối...
La Hán quay mình thì Đức Uy cũng vừa nhận ra cánh tay áo bên trái trống không, hắn hớt hải kêu lên :
- La Hán...
Nhưng La Hán đã đi xa, thân pháp của hắn thật nhanh, không biết vì gấp chuyện hay vì không muốn cho Đức Uy thấy cánh tay cụt của mình.
Đức Uy đứng nhìn theo ngơ ngẩn...
Hắn nhớ lại cuộc chiến vừa rồi, hắn nhớ La Hán sử dụng thanh đao có một tay, rõ ràng hắn đã không còn tay trái...
Tại làm sao?
Khinh công của hắn cao lắm, đao pháp của hắn vô cùng, điều đó Đức Uy biết rõ hơn ai hết, thế tại sao hắn lại có thể bị mất một tay?
Thôi rồi, Đức Uy chợt hiểu :
- Một trận đánh tầm thường đối với một số cao thủ tầm thường nhất định không thể làm cho hắn mất một cánh tay như thế, chỉ có “Cúc Hoa đảo” và Mãn Châu tại Thiên Vương tự, nơi mà hắn đã xông vào cứu Mẫn Tuệ và Thiên Hương.
Đức Uy cúi mặt thở dài.
Trách nhiệm này đáng lý ra là của hắn.
Hắn cảm thấy mình thật vô tư vô ý thành ra vô tình.
Hắn biết La Hán quyết theo dấu bọn Lý Tự Thành ngược về phương Bắc, hắn cũng biết tin về Tào Hóa Thuần không thể chậm trễ. Hắn đã quyết định, hắn phải đến ngay Cùng Gia bang và cấp tốc đuổi theo La Hán, hắn không thể để cho La Hán một mình, một tay lăn vào nguy hiểm...
Đức Uy bỗng thấy lòng như lửa đốt...
Một cỗ xe như bay giữa bụi mù.
Trên ghế trước gọng xe, một lão già quần áo rách, đầu tóc rối bù.
Mui xe bằng bố phủ rèm kín.
Trời tuy đã sắp qua thu rồi, nhưng ban ngày cũng vẫn nóng như thiêu, nếu trong xe có người ngồi trong cái bít bùng đó nhất định sẽ tháo mồ hôi hột.
Ngựa phi lốc cốc, bánh xe lăn lộc xộc, lão già ngồi him híp mắt, hình như ông ta mặc kệ cứ để cho con ngựa muốn mang cỗ xe chạy đâu là chạy, nhứt là dưới trời nắng chang chang như thế mà ông ta không có một giọt mồ hôi.
Thình lình, đôi mắt lim dim như ngủ gục của lão vụt mở bừng, như lão ta đang chăm chú vào một vật gì...
Không, không thấy gì cả, có lẽ lão đang nghe ngóng một cái gì.
Không ai có thể nghe thấy gì cả, chỉ nghe tiếng chân ngựa nện lốc cốc trên mặt đường, bánh xe lăn lộc xộc và những bựng bụi cuốn mù.
Con đường lớn trống trơn, không thấy bóng một con chim, không thấy một bóng gì.
Thế nhưng mặt lão già nghiêng nặng qua bên trái, mắt lão đăm đăm.
Không biết mé bên trái đó có gì?
Xa xa, dãy núi chạy dài, gần thì rừng cây cao, gần nữa là rừng chồi và sát ngoài đường, lúp xúp trong chòm tranh chồi có chỗ quá đầu người, loáng thoáng những ngôi một thấp có cao có, rải rác đó đây.
Lão nghe thấy những gì?
Tiếng quỷ khóc trong bãi tha ma? Hay tiếng trùng tiếng dế?
Nhưng giữa ban ngày ban mặt, làm gì có tiếng quỷ ma?
Giữa lúc mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, trùng dế cũng phải rút xuống đất sâu, làm gì dám ló đầu lên để mà nghe tiếng?
Nhưng không...
Rõ ràng là có.
Xa xa, xéo về bên kia vòng núi, ở chỗ quành nhìn mút tầm mắt có mấy chấm đen, hay đúng hơn là mười mấy chấm đen di động.
Nhưng nếu mắt người nào tinh, sẽ thấy đó là mười mấy con ngựa phi nhanh.
Xa quá, không thấy rõ dáng người trên ngựa ra sao.
Nhưng ngựa phi nhanh lắm, chỉ thoáng cái đã thấy đến gần, hướng đến ngay chỗ cỗ xe đang đi tới.
Bây giờ thì đã thấy rõ người.
Mười sáu tên đại hán, mười sáu con tuấn mã, tám tên áo đen, tám tên áo xám, lưng họ giắt đao và bên yên ngựa lại có cung tên.
Mười sáu con tuấn mã say nghiêng, xa xa trông như là...
Lão già đánh xe hình như không để ý nữa, lão cứ cho xe lao về hướng trước, lão không có vẻ gì muốn cho xe chạy nhanh hơn.
Mười sáu kỵ mã bây giờ chỉ còn cách cỗ xe chừng hơn hai mươi trượng, một trong những tên kỵ sĩ cúi xuống gỡ cây cung.
Dây cung thẳng băng, vành cung tròn lại và bật ra, tếng mũi tên xé gió.
Chưa kịp chớp mắt, mũi tên xẹt tới, ghim đúng vào hông bên phải.
Lão già bụm tay vào chỗ mũi tên ghim, lão bật ngửa ra sau thành xe bất động.
Mười sáu kỵ sĩ cùng thét rập lên, họ thúc ngựa thành hình vòng cung chận cỗ xe dừng lại.
Tên mặc áo xám cao lớn nhìn tên mới buông tên toét miệng cười :
- “Bá bộ xuyên dương” Trại Lý Quảng, khi bình công phân thưởng, lão đệ sẽ chiếm phần đầu đó nghen.
Và hắn vẫy tay ra lịnh :
- Hãy tung mui xe xem trong đó có những gì.
Tên áo đen cầm cung gật đầu :
- Mui xe trùm kín như thế, bên trong nhứt định khá lắm chớ chẳng bỏ đâu.
Hắn với tay dùng đầu cung hất tấm mui xe...
Lão già đánh xe vụt “khịt” một tiếng rồi ngồi bật dậy, tay lão nắm mũi tên, mắt lão hấp háy :
- Đâu có, chết đâu mà làm hung thế? Bắn khá lắm, nhưng rất tiếc đầu tên hơi sét.
Mười sáu tên kỵ sĩ cùng khựng lại.
Lão già cầm cây tên chỉ vào mặt tên “Trại Lý Quảng” :
- Mẹ họ, bắn được một mũi bộ dễ sao? Tại làm sao không mài cho cẩn thận, thứ tên này bắn đậu hũ cũng không thủng chớ đừng nói chi người, nhứt là gặp cái thứ da già này dai lắm. Lấy về mài lại đi...
Câu nói chưa dứt là tay lão đã vẫy lên và khi tay lão chưa hạ xuống thì tên cầm cung bắn tên khi nãy đã rú lên.
Mũi tên lão “trả” lại ghim ngay vào mu bàn tay của hắn và từ mu bàn tay lại ló ra khỏi lòng bàn tay một khúc cỡ hơn gang.
Hắn rú lên và buông cây cung, tay trái chụp lấy bàn tay phải, cho ngựa thụt lui hí lên mấy tiếng.
Lão già vụt nhướng mắt lên “như” sửng sốt :
- Mẹ, mới rõ ràng là sét mục đây mà, sao bây giờ bén dữ ha?
Lão lầm bầm kinh ngạc, như tự nói với mình.
Mười lăm tên còn lại thét rập lên một tiếng, mười lăm thanh đao được rút ra một lượt.
Tên áo xám cười gằn :
- Khá, cao nhân mà lại không hay, giết!
Tiếng giết vừa chấm dứt, hai tên áo đen cầm quỷ đầu đao chồm tới trước bên xe.
Lão già chớp chớp mắt :
- Ý ý... làm cái gì mà tá hỏa lên như thế? Coi chừng, coi chừng, đao thương nó không có con mắt đó nghen, coi chừng đứt bậy nghe.
Lão bỗng đâm lính quýnh, ngọn roi trên tay lão cũng bật run nhưng thật không may, ngọn roi lại đè bật trúng vào mặt hai tên áo đen một lượt.
Hai tên rú bật lên, hai tên áo đen buông đao ôm mặt lăn luôn xuống đất.
Lão già trố mắt :
- Chết cha bộ đui sao? Bốn bên trống lỗng không chịu nhảy tới, lại nhè ngọn roi mà kê cái mặt vào, ta đã nói rồi mà hông chịu coi chừng, ta nói cái thứ đao thương roi róc này nó không có con mắt mà...
Còn lại mười ba tên, hình như chúng bắt đầu hốt hoảng, tên áo xám khi nãy cau mặt :
- Lão già, ngươi là...
Lão già nói :
- Bộ đui hả, ta là lão già đánh xe chớ còn ai nữa!
Tên áo xám cười gằn :
- Đừng có hàm hồ, giang hồ với nhau mà...
Lão già toét miệng cười :
- Đã hỏi thì phải nói thật tình, bây giờ thì không tiện đâu, nói ra các người chạy không kịp, về hỏi cái thằng áo đen đầu đảng của ngươi, bảo có lão già quen là hắn biết ngay.
Tên áo xám ngần ngừ và hắn cúi xuống yên chụp một vật phóng vút lên không.
Lão già nheo mắt :
- Cái gì vậy? Kêu cứu à? Trời đất, mười mấy tay lưng nách như vậy chưa đủ ăn thịt thằng già sao còn kêu nữa?
Nhưng ngay lúc đó thì xa xa, từ chỗ quanh eo núi lại thêm những chấm đen...
Một... hai... ba... mười hai.
Đúng y, mười hai ngựa, mười hai người.
Như một trận gió ào ào, mười hai con tuấn mã chở mười hai gã đại hán lao tới bên xe.
Cầm đầu đám này lại cũng là một gã cao cao mặc áo xám, gã lừ lừ đôi mắt ốc nhồi :
- Bộ gặp tay dữ rồi phải không?
Lão già hấp háy mắt :
- Tưởng ba đầu sáu tay gì, không ngờ cũng một bọn nhãi ranh.
Tên áo xám hất mặt :
- Đã ra ngón rồi thì cũng thuộc vào tay khá, xưng tên đi.
Lão già lắc lắc đầu :
- Không vội! Để ta xem các ngươi từ trong lỗ nào mà chui ra đó đã.
Tên áo xám lạnh lùng :
- Anh em ta là người dưới cờ của Bát Đại Vương.
Lão già nhướng nhướng :
- Ủa, vậy là binh tôm tướng cá của thằng giặc Trương Hiến Trung đó sao?
Tên áo xám gằn giọng :
- Lão già ăn nói cho cẩn thận.
Lão già nhướng nhướng :
- Sao? Nghe không được à? Đã làm giặc mà lại sợ người ta gọi là giặc, thôi thì gọi là cướp, nếu nghe bằng tai không được thì ta bổ óc nhét vào giùm cho.
Lão nheo nheo mắt và cười cười nói tiếp :
- Mẹ, hồi nào vậy? Cái thằng Nam Cung Nguyệt kết bè với Trương Hiến Trung bao giờ vậy? Cũng phải, kỳ đà là cha cắc ké... cùng một thứ thì ráp lại với nhau là phải.
Lý Đức Uy đến đây, bọn áo vàng được phi báo trước, chúng đã biết hắn là con cọp dữ và vì thế, chúng đã chuẩn bị thật chu đáo, chúng đã đặt đối phương đứng giữa hai hàng kiếm kích và nhứt là cung nỏ.
Quan trọng hơn hết là đám cung thủ được huấn luyện cực kỳ tinh nhuệ.
Từ tên mặc áo vàng mặt trắng dẫn xuống đám thuộc hạ thân cận và binh sĩ bên ngoài, chúng tin chắc mẻm là khi đã bước vào cái “rọ” của chúng rồi thì cọp dữ cũng trở thành... chồn dính bẫy.
Đám cầm kiếm kích sẵn sàng phóng ra những mũi nhọn sấm sét, đám cung thủ đợi chờ có lịnh buông tên nhưng họ không ngờ được rằng không bao giờ họ có cơ hội đó.
Và khi mà “cái chắc ăn” trong tay vuột mất, họ đâm ra luýnh quýnh, họ trở tay không kịp, không phải họ quá dở mà là tại họ bị bất thình lình đảo lộn tinh thần.
Một tay không ngưng thanh Ngư Trường kiếm, một tay Lý Đức Uy đoạt lấy những bó đuốc ném vào gian trại chính.
Gian lều rộng lớn được làm nơi đặt khu chỉ huy, gian lều được căng bằng thứ da trâu tẩm dầu - một thứ dầu chỉ có một dành cho trung khu đồn binh, thứ chỉ dành cho viên tướng chỉ huy, thứ coi như tên bắn không bao giờ lủng được, thế nhưng lại cũng là thứ bắt lửa rất nhanh.
Những bó đuốc của Lý Đức Uy vừa ném vào là lửa phựt lên ngay.
Chỉ trong nháy mắt đã có mười mấy gian trại bốc lửa lên cao.
Lửa tạo sức gió, gió tăng thế lửa, chỉ mới có mười mấy gian trại mà đã làm cho một góc trời hừng sáng.
Giữa lúc Đức Uy đang tung hoành thanh Ngư Trường kiếm, hắn chợt thấy từ góc phía Đông của giải trại dài, đám quân lính áo vàng vụt loạn lên.
Chúng tràn ra khỏi trại và cùng nhau chạy ngược về Tây.
Ban đầu Đức Uy cứ nghĩ là chúng được lịnh tràn tới để bao vây hắn, nhưng khi nhìn kỹ thì không phải vì chúng chạy toán loạn và nhiều tiếng rú nghe khủng khiếp.
Đức Uy còn đang ngơ ngác trước hiện tượng kỳ lạ thì hắn chợt thấy ánh sáng lạ lùng: ánh “Tử Quang”.
Tay của Đức Uy vẫn không ngừng, nhưng mắt hắn vô cùng kinh dị, nhìn chăm chăm về hướng có ánh sáng lạ lùng... và hắn vụt kêu lên :
- “Tử Kim đao”!
Hắn vừa dứt tiếng là đã thấy người.
Cũng giống y như một con cọp giữa bầy dê, một bóng người từ góc phía Đông càn tới.
Bóng người càn tới đâu, ánh “tử quang” cuốn theo tới đó và ánh sáng màu tía ấy cứ nhoáng lên là nhiều bựng máu bắn theo.
Ánh hừng hừng của lửa cháy, ánh sáng màu tía của thanh “Tử Kim đao” và những bựng máu lóng lánh vọt lên như hoa cải, những thứ đó hòa trộn với nhau tạo thành màu sắc... đẹp lạnh mình.
Hồi nãy, chỉ loạn ở phân trại trung khu, bây giờ thì tất cả đều loạn hết.
Một thanh Ngư Trường kiếm đã làm cho đoàn quân của Lý Tự Thành khủng khiếp, bây giờ thêm một thanh Tử Kim đao, khiến cho khu trại đằng đằng sát khí của đoàn quân áo vàng xẹp xuống như quả bóng xì hơi.
Đúng như lời của Hải Hoàng đã nói, võ công của La Hán không hơn được Lý Đức Uy, nhưng khí thế của hắn quả không ai qua nổi.
Đám quân áo vàng của Lý Tự Thành bây giờ y như đạo quân Tào Tháo, chúng rất ngán Quan Vân Trường, nhưng thật sự càn đạp lên nhau mà chạy khi chúng chạm mặt Trương Phi.
Bây giờ đám quân áo vàng quả đã càn lên nhau mà chạy.
Thân ảnh của La Hán theo chân nhún nhồi lên nhồi xuống tiếng về phía Đức Uy, thanh đao trên tay hắn từ trên xuống dưới, từ trái qua phải và ngược lại, ánh “tử quang” loang loáng theo ánh máu.
Những tiếng rú bây giờ biến thành những tiếng kêu khóc, bất cứ một đám đông nào, chỉ cần tiếng khởi đầu một khi đã có một người kinh hoàng đến mức kêu cha mẹ, kêu khóc như một đứa trẻ thì cả bọn như bị giựt dây, tiếng kêu khóc vì thế rên lên từng chập.
Bây giờ không phải là “đoàn quân tinh nhuệ, kiếm đã tuốt vỏ, tên đã lên cung” nữa, họ đã biến thành những nạn nhân của một... thiên tai, họ ùn ùn càn lên nhau không còn biết, không còn nhớ chút gì là sĩ diện.
Đức Uy đứng sững nhìn La Hán.
La Hán chống thanh đao quắc mắt nhìn theo đám quân ôm đầu tán loạn.
Trước mắt hắn những thây người bị tiện làm đôi, máu và ruột trào lổn ngổn dưới ánh lửa chập chờn.
La Hán chống thanh đao mở trừng đôi mắt đỏ ngầu.
Đức Uy thảng thốt kêu lên :
- La Hán...
Giọng La Hán trầm trầm :
- Đã trật chỗ rồi, Lý Tự Thành đã độ quân về hướng Bắc.
Đức Uy sửng sốt...
La Hán vùng thét lên một tiếng, thanh Tử Kim đao vớt trái ra sau.
Một tên áo vàng từ trong tay hắn giáng ngay xuống ót La Hán, phóng ra ngọn đại đao trong chỗ tranh tối tranh sáng thình lình, nhưng hắn đã chậm mất một giây, y như sau ót có thêm con mắt, thính giác của La Hán thật vô cùng bén nhạy, hắn vẫn đứng y một chỗ không hề quay lại nhưng khi ánh “tử quang” nhoáng lên thì bựng máu xối ướt vạt sau của La Hán, tên áo vàng đánh lén không kịp kêu một tiếng, thây hắn bị tiện làm hai khúc.
La Hán nói :
- Có làm nơi này thành bình địa cũng chỉ vô ích, đi!
Hắn lao tới trước mở đường.
Đức Uy vung Ngư Trường kiếm theo sau.
Đám áo vàng chưa kịp chạy vội giạt ra hai bên, họ đạp lên nhau để giạt ra, đạp càn lên lửa để dạt ra, họ run rẩy nhìn theo La Hán và Đức Uy, họ cảm thấy tử thần đã bắt đầu rời khỏi, họ thiếu điều mang nhang đèn ra quỳ lạy “tống ôn”, họ không còn lòng dạ nào dám nghĩ đến chuyện xông ra cản.
La Hán và Đức Uy ra khỏi vòng trại địch một cách yên lành.
La Hán dừng đứng lại nhìn doanh trại của đám quân áo vàng bây giờ đã biến thành biển lửa, hắn nghiến răng quắc mắt :
- Như thế là tốt, nhưng vẫn chưa giết được Lý Tự Thành.
Đức Uy nhìn sững La Hán, từ nãy giờ hắn chỉ lo giết giặc và mừng vì cuộc hội kiến bất ngờ, nhất là vì đứng bên phải của La Hán nên hắn chưa thấy cánh tay bị cụt, hắn hỏi :
- La Hán, làm sao anh lại đến đây. Nghê Thường đâu?
Tia mắt của La Hán cứ đăm đăm về hướng biển lửa mà như nhìn vào khoảng trống xa xăm :
- Đang ở Trường An.
Đức Uy càng ngạc nhiên :
- Trường An? Sao nghe Mông lão bảo rằng nàng đi chung với anh?
La Hán đáp :
- Nàng với Mông lão và Dương, Tổ nhị cô nương ở chung với nhau.
Đức Uy mừng rỡ :
- Anh đã tìm được hai cô ấy à?
La Hán gật đầu :
- Tôi đưa hai người đến Trường An nghe được tin Dương đô đốc ngộ hại, Lý Tự Thành độ quân ngược Bắc nên tôi vội đuổi theo.
Hắn giấu không cho Đức Uy biết chuyện hắn bỏ đi không từ giã.
Đức Uy gật đầu :
- Có Mông lão thì không đáng ngại, nhưng anh tìm được hai cô nàng ấy ở đâu?
La Hán đáp :
- Tại Thiên Vương tự, bọn “Cúc Hoa đảo” và bọn Mãn Châu cùng ở chung nơi đó.
Không cần La Hán phải kể rõ, Đức Uy đã biết rằng đem được Mẫn Tuệ và Thiên Hương về đến Trường An nhất định La Hán đã phải qua một cuộc chiến sanh tử chớ không phải dễ dàng...
Hắn vô cùng cảm kích :
- La Hán, tôi không muốn nói lời cảm tạ đối với anh...
La Hán thản nhiên :
- Không cần phải khách sáo, thật ra thì tôi cũng không phải vì anh mà cứu hai người đó đâu!
Câu nói lạnh băng của La Hán làm cho Đức Uy “nghẹt lối” nhưng hắn không đặt thành vấn đề vì hắn thừa biết con người của “Tử Kim đao” tánh tình vốn như thế, con người không hề bộc lộ tình cảm ra ngoài.
Đức Uy chỉ nhìn La Hán cười cười, nhưng vụt nhớ ra, hắn vội hỏi :
- Còn Trầm cô nương...
Câu hỏi vừa tuôn ra là hắn hối hận ngay, vì hắn nhớ lại chuyện Ngọc Hà đã làm cho La Hán khốn khổ khi còn trong Bạch Liên giáo...
Thế nhưng La Hán vẫn điềm nhiên thuật lại cái chết của Ngọc Hà và chuyện nhờ đó mà hắn mới biết tin đến cứu Mẫn Tuệ và Thiên Hương...
Đức Uy lặng thinh không nói được một tiếng nào khi hắn nghe cái chết thê thảm của người đàn bà vừa biết ăn năn sám hối.
Thật lâu, Đức Uy mới hỏi :
- Trường An đã mất, Lý Tự Thành lại độ binh ngược về Kinh sư, Mông lão và chư vị cô nương chắc không còn cần phải ở lại Trường An nữa?
La Hán nói :
- Tánh tôi không thể chần chừ nên đi trước, có lẽ bây giờ thì các vị đó cũng đã lên đường.
Đức Uy hỏi :
- Dương cô nương có yên ổn không? Tôi muốn hỏi tình hình sau khi nghe tin dữ của Dương đô đốc?
La Hán nói :
- Dương cô nương là người con gái kiên cường, sự bi thống nếu có cũng không đến nỗi gây phương hại.
Đức Uy thở ra :
- Tôi chỉ mong nàng có thể khóc được, nếu nàng khóc được thì không nguy hại, tôi rất sợ nàng không khóc...
La Hán nói :
- Tôi nghĩ Dương cô nương sẽ biết bảo trọng để lo chuyện lớn hơn.
Đức Uy gật đầu :
- Cũng mong như thế...
Ngẫm nghĩ một giây, Đức Uy trầm ngâm nói tiếp :
- Cúc Hoa đảo được liệt danh là một trong “Tứ đại thế gia” trong võ lâm, uy thế vang lừng bốn cõi, giàu có một phương thế mà lại quên nguồn quên gốc, cấu kết ngoại bang, cam tâm làm đầy tớ cho ngoại tộc...
La Hán trầm giọng :
- Bọn đó đều cần phải giết!
Đức Uy nói :
- Tổ cô nương đã bỏ ám đầu minh, Tổ Tài Thần đã bị một vố mới cảm tình với Mãn Châu, Nam Cung Nguyệt cũng đã bất hòa với chúng nhưng không biết hiện tại như thế nào?
La Hán lắc đầu :
- Không nghe động tĩnh gì cả, chỉ có điều không thấy họ chung một chỗ với Mãn Châu như Cúc Hoa đảo.
Đức Uy trầm ngâm :
- Anh có nghe hiện thời Lý Tự Thành ở đâu không?
La Hán lắc đầu :
- Không rõ, chỉ biết hắn độ quân ngược lên mạn Bắc.
Đức Uy làm thinh suy nghĩ...
La Hán vụt nói :
- Lý huynh, tôi không khách khí vì thói quen nhưng không biết giữa “Ngư Trường kiếm” và “Tử Kim đao” chúng ta có thể nối lại thế giao của tiền nhân chăng?
Đức Uy nói :
- La Hán, chúng ta đã là bằng hữu lâu rồi.
La Hán nói :
- Tôi đã nợ anh nhiều quá!
Đức Uy thành khẩn :
- Đã là anh em với nhau thì đâu còn vấn đề ai nợ ai.
La Hán nói :
- Tôi đã làm một chuyện lỗi lầm với “Cùng Gia bang”.
Đức Uy nói :
- Tôi đã can thiệp chuyện đó và bây giờ thì không còn ai nghĩ gì nữa cả.
La Hán nói :
- Cũng chưa biết sẽ ra sao, những mong khi nào gặp gỡ, anh nói giùm một tiếng!
Đức Uy chưa nói gì thì La Hán đã tiếp luôn :
- Mông lão có một vấn đề mà tôi cần cho anh biết...
Đức Uy hỏi :
- Chuyện quan trọng lắm không?
La Hán đáp :
- Mông lão nghi ngờ Tào Hóa Thuần cấu kết Lý Tự Thành.
Và thuật lại lập luận của Mông Bất Danh đã nói ở Khai Nguyên tự, Đức Uy gật đầu :
- Điều đó có lý, tôi đã nhờ anh em “Cùng Gia bang” truyền báo chuyện đó vào Kinh cho nghĩa phụ tôi rồi!
La Hán nói :
- Chuyện này phải lo càng sớm càng tốt, vì Lý Tự Thành đổ quân về Bắc là đã có ý phạm Kinh sư, nếu không sớm giải quyết chuyện Tào Hóa Thuần để chúng tiếp tục nội ứng thì hậu quả vô cùng trầm trọng.
Đức Uy nói :
- Phải lắm, có lẽ tôi phải đến thôi thúc anh em Cùng Gia bang tiến hành thật sớm.
La Hán nói :
- Tôi cũng phải đi, hy vọng gặp lại khi cùng đi về hướng Bắc.
Hắn hoành thanh “Tử Kim đao” lên ngang ngực và tung mình vào bóng tối...
La Hán quay mình thì Đức Uy cũng vừa nhận ra cánh tay áo bên trái trống không, hắn hớt hải kêu lên :
- La Hán...
Nhưng La Hán đã đi xa, thân pháp của hắn thật nhanh, không biết vì gấp chuyện hay vì không muốn cho Đức Uy thấy cánh tay cụt của mình.
Đức Uy đứng nhìn theo ngơ ngẩn...
Hắn nhớ lại cuộc chiến vừa rồi, hắn nhớ La Hán sử dụng thanh đao có một tay, rõ ràng hắn đã không còn tay trái...
Tại làm sao?
Khinh công của hắn cao lắm, đao pháp của hắn vô cùng, điều đó Đức Uy biết rõ hơn ai hết, thế tại sao hắn lại có thể bị mất một tay?
Thôi rồi, Đức Uy chợt hiểu :
- Một trận đánh tầm thường đối với một số cao thủ tầm thường nhất định không thể làm cho hắn mất một cánh tay như thế, chỉ có “Cúc Hoa đảo” và Mãn Châu tại Thiên Vương tự, nơi mà hắn đã xông vào cứu Mẫn Tuệ và Thiên Hương.
Đức Uy cúi mặt thở dài.
Trách nhiệm này đáng lý ra là của hắn.
Hắn cảm thấy mình thật vô tư vô ý thành ra vô tình.
Hắn biết La Hán quyết theo dấu bọn Lý Tự Thành ngược về phương Bắc, hắn cũng biết tin về Tào Hóa Thuần không thể chậm trễ. Hắn đã quyết định, hắn phải đến ngay Cùng Gia bang và cấp tốc đuổi theo La Hán, hắn không thể để cho La Hán một mình, một tay lăn vào nguy hiểm...
Đức Uy bỗng thấy lòng như lửa đốt...
Một cỗ xe như bay giữa bụi mù.
Trên ghế trước gọng xe, một lão già quần áo rách, đầu tóc rối bù.
Mui xe bằng bố phủ rèm kín.
Trời tuy đã sắp qua thu rồi, nhưng ban ngày cũng vẫn nóng như thiêu, nếu trong xe có người ngồi trong cái bít bùng đó nhất định sẽ tháo mồ hôi hột.
Ngựa phi lốc cốc, bánh xe lăn lộc xộc, lão già ngồi him híp mắt, hình như ông ta mặc kệ cứ để cho con ngựa muốn mang cỗ xe chạy đâu là chạy, nhứt là dưới trời nắng chang chang như thế mà ông ta không có một giọt mồ hôi.
Thình lình, đôi mắt lim dim như ngủ gục của lão vụt mở bừng, như lão ta đang chăm chú vào một vật gì...
Không, không thấy gì cả, có lẽ lão đang nghe ngóng một cái gì.
Không ai có thể nghe thấy gì cả, chỉ nghe tiếng chân ngựa nện lốc cốc trên mặt đường, bánh xe lăn lộc xộc và những bựng bụi cuốn mù.
Con đường lớn trống trơn, không thấy bóng một con chim, không thấy một bóng gì.
Thế nhưng mặt lão già nghiêng nặng qua bên trái, mắt lão đăm đăm.
Không biết mé bên trái đó có gì?
Xa xa, dãy núi chạy dài, gần thì rừng cây cao, gần nữa là rừng chồi và sát ngoài đường, lúp xúp trong chòm tranh chồi có chỗ quá đầu người, loáng thoáng những ngôi một thấp có cao có, rải rác đó đây.
Lão nghe thấy những gì?
Tiếng quỷ khóc trong bãi tha ma? Hay tiếng trùng tiếng dế?
Nhưng giữa ban ngày ban mặt, làm gì có tiếng quỷ ma?
Giữa lúc mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, trùng dế cũng phải rút xuống đất sâu, làm gì dám ló đầu lên để mà nghe tiếng?
Nhưng không...
Rõ ràng là có.
Xa xa, xéo về bên kia vòng núi, ở chỗ quành nhìn mút tầm mắt có mấy chấm đen, hay đúng hơn là mười mấy chấm đen di động.
Nhưng nếu mắt người nào tinh, sẽ thấy đó là mười mấy con ngựa phi nhanh.
Xa quá, không thấy rõ dáng người trên ngựa ra sao.
Nhưng ngựa phi nhanh lắm, chỉ thoáng cái đã thấy đến gần, hướng đến ngay chỗ cỗ xe đang đi tới.
Bây giờ thì đã thấy rõ người.
Mười sáu tên đại hán, mười sáu con tuấn mã, tám tên áo đen, tám tên áo xám, lưng họ giắt đao và bên yên ngựa lại có cung tên.
Mười sáu con tuấn mã say nghiêng, xa xa trông như là...
Lão già đánh xe hình như không để ý nữa, lão cứ cho xe lao về hướng trước, lão không có vẻ gì muốn cho xe chạy nhanh hơn.
Mười sáu kỵ mã bây giờ chỉ còn cách cỗ xe chừng hơn hai mươi trượng, một trong những tên kỵ sĩ cúi xuống gỡ cây cung.
Dây cung thẳng băng, vành cung tròn lại và bật ra, tếng mũi tên xé gió.
Chưa kịp chớp mắt, mũi tên xẹt tới, ghim đúng vào hông bên phải.
Lão già bụm tay vào chỗ mũi tên ghim, lão bật ngửa ra sau thành xe bất động.
Mười sáu kỵ sĩ cùng thét rập lên, họ thúc ngựa thành hình vòng cung chận cỗ xe dừng lại.
Tên mặc áo xám cao lớn nhìn tên mới buông tên toét miệng cười :
- “Bá bộ xuyên dương” Trại Lý Quảng, khi bình công phân thưởng, lão đệ sẽ chiếm phần đầu đó nghen.
Và hắn vẫy tay ra lịnh :
- Hãy tung mui xe xem trong đó có những gì.
Tên áo đen cầm cung gật đầu :
- Mui xe trùm kín như thế, bên trong nhứt định khá lắm chớ chẳng bỏ đâu.
Hắn với tay dùng đầu cung hất tấm mui xe...
Lão già đánh xe vụt “khịt” một tiếng rồi ngồi bật dậy, tay lão nắm mũi tên, mắt lão hấp háy :
- Đâu có, chết đâu mà làm hung thế? Bắn khá lắm, nhưng rất tiếc đầu tên hơi sét.
Mười sáu tên kỵ sĩ cùng khựng lại.
Lão già cầm cây tên chỉ vào mặt tên “Trại Lý Quảng” :
- Mẹ họ, bắn được một mũi bộ dễ sao? Tại làm sao không mài cho cẩn thận, thứ tên này bắn đậu hũ cũng không thủng chớ đừng nói chi người, nhứt là gặp cái thứ da già này dai lắm. Lấy về mài lại đi...
Câu nói chưa dứt là tay lão đã vẫy lên và khi tay lão chưa hạ xuống thì tên cầm cung bắn tên khi nãy đã rú lên.
Mũi tên lão “trả” lại ghim ngay vào mu bàn tay của hắn và từ mu bàn tay lại ló ra khỏi lòng bàn tay một khúc cỡ hơn gang.
Hắn rú lên và buông cây cung, tay trái chụp lấy bàn tay phải, cho ngựa thụt lui hí lên mấy tiếng.
Lão già vụt nhướng mắt lên “như” sửng sốt :
- Mẹ, mới rõ ràng là sét mục đây mà, sao bây giờ bén dữ ha?
Lão lầm bầm kinh ngạc, như tự nói với mình.
Mười lăm tên còn lại thét rập lên một tiếng, mười lăm thanh đao được rút ra một lượt.
Tên áo xám cười gằn :
- Khá, cao nhân mà lại không hay, giết!
Tiếng giết vừa chấm dứt, hai tên áo đen cầm quỷ đầu đao chồm tới trước bên xe.
Lão già chớp chớp mắt :
- Ý ý... làm cái gì mà tá hỏa lên như thế? Coi chừng, coi chừng, đao thương nó không có con mắt đó nghen, coi chừng đứt bậy nghe.
Lão bỗng đâm lính quýnh, ngọn roi trên tay lão cũng bật run nhưng thật không may, ngọn roi lại đè bật trúng vào mặt hai tên áo đen một lượt.
Hai tên rú bật lên, hai tên áo đen buông đao ôm mặt lăn luôn xuống đất.
Lão già trố mắt :
- Chết cha bộ đui sao? Bốn bên trống lỗng không chịu nhảy tới, lại nhè ngọn roi mà kê cái mặt vào, ta đã nói rồi mà hông chịu coi chừng, ta nói cái thứ đao thương roi róc này nó không có con mắt mà...
Còn lại mười ba tên, hình như chúng bắt đầu hốt hoảng, tên áo xám khi nãy cau mặt :
- Lão già, ngươi là...
Lão già nói :
- Bộ đui hả, ta là lão già đánh xe chớ còn ai nữa!
Tên áo xám cười gằn :
- Đừng có hàm hồ, giang hồ với nhau mà...
Lão già toét miệng cười :
- Đã hỏi thì phải nói thật tình, bây giờ thì không tiện đâu, nói ra các người chạy không kịp, về hỏi cái thằng áo đen đầu đảng của ngươi, bảo có lão già quen là hắn biết ngay.
Tên áo xám ngần ngừ và hắn cúi xuống yên chụp một vật phóng vút lên không.
Lão già nheo mắt :
- Cái gì vậy? Kêu cứu à? Trời đất, mười mấy tay lưng nách như vậy chưa đủ ăn thịt thằng già sao còn kêu nữa?
Nhưng ngay lúc đó thì xa xa, từ chỗ quanh eo núi lại thêm những chấm đen...
Một... hai... ba... mười hai.
Đúng y, mười hai ngựa, mười hai người.
Như một trận gió ào ào, mười hai con tuấn mã chở mười hai gã đại hán lao tới bên xe.
Cầm đầu đám này lại cũng là một gã cao cao mặc áo xám, gã lừ lừ đôi mắt ốc nhồi :
- Bộ gặp tay dữ rồi phải không?
Lão già hấp háy mắt :
- Tưởng ba đầu sáu tay gì, không ngờ cũng một bọn nhãi ranh.
Tên áo xám hất mặt :
- Đã ra ngón rồi thì cũng thuộc vào tay khá, xưng tên đi.
Lão già lắc lắc đầu :
- Không vội! Để ta xem các ngươi từ trong lỗ nào mà chui ra đó đã.
Tên áo xám lạnh lùng :
- Anh em ta là người dưới cờ của Bát Đại Vương.
Lão già nhướng nhướng :
- Ủa, vậy là binh tôm tướng cá của thằng giặc Trương Hiến Trung đó sao?
Tên áo xám gằn giọng :
- Lão già ăn nói cho cẩn thận.
Lão già nhướng nhướng :
- Sao? Nghe không được à? Đã làm giặc mà lại sợ người ta gọi là giặc, thôi thì gọi là cướp, nếu nghe bằng tai không được thì ta bổ óc nhét vào giùm cho.
Lão nheo nheo mắt và cười cười nói tiếp :
- Mẹ, hồi nào vậy? Cái thằng Nam Cung Nguyệt kết bè với Trương Hiến Trung bao giờ vậy? Cũng phải, kỳ đà là cha cắc ké... cùng một thứ thì ráp lại với nhau là phải.
/92
|