Sau khi rời khỏi tứ hợp viện của Ngô Thạc Xương, ròng rã bốn mươi chín ngày, Tiêu Phàm không có lộ mặt ở thủ đô, cũng không có quay lại nhà hỏi thăm sức khỏe của cha mẹ. Thậm chí cả bệnh viện 301 cũng chưa từng đi, thật sự giống như mất tích vậy.
Nhưng Chỉ Thủy Quan lại trở nên vô cùng bận rộn.
Tân Lâm bề bộn rất nhiều việc. Bốn mươi ngày qua, cô thậm chí không có thời gian bước ra khỏi Chỉ Thủy Quan một bước. Sáu nữ đạo sĩ ở Chỉ Thủy Quan, ngoại trừ một vị lớn tuổi nhất phụ trách sắp xếp sinh hoạt hàng ngày, vẩy nước quét đình viện, giặt quần áo, nhóm lửa nấu cơm. Năm người đó đều sống cùng Tân Lâm.
Chế thuốc!
Trong khoảng thời gian này, nhiệm vụ chính của Tân Lâm chính là chế thuốc.
Đem đủ loại dược liệu mà Tiêu Phàm thu thập từ các nơi phân ra luyện chế. Bên trong phòng luyện thuốc của Chỉ Thủy Quan, sáu lò luyện thuốc mở ra cùng một lúc. Tân Lâm làm việc chính, năm người kia phụ trách trợ giúp.
Thất Diệu Cung có bảy đại tuyệt kỹ, Thuật Chế Đan cũng là một trong số đó, phương pháp vô cùng thần kỳ tuyệt diệu, ngay cả Chỉ Thủy sư tổ cũng khen ngợi không ngớt.
Trong điển tịch Vô Cực Thuật Tàng cũng có ghi chép những chuyện liên quan đến Chế Đan Thuật của Thất Diệu Cung. Phương pháp chế đan của Vô Cực Môn cũng không kém Thất Diệu Cung, tuy nhiên hiện giờ thánh nữ của Thất Diệu Cung ở nơi này nên Tiêu Phàm không cần phải đích thân xuất thủ, cậu cũng có việc phải bận rộn của mình.
Tiêu Phàm vội vàng bày binh bố trận.
Chỉ Thủy Quan là do Chỉ Thủy sư tổ xây, rừng trúc bên ngoài ẩn giấu Vô Cực Hỗn Độn Trận do đích thân Chỉ Thủy sư tổ đích thân bố trí. Người bình thường, trừ phi là leo lên nồng súng bắn tới hoặc là phóng hỏa đốt cháy bằng không thì căn bản không cần nghĩ đến việc đi vào.
Nhưng mà như thế còn chưa đủ.
Tiêu Phàm phải tiếp tục củng cố trận pháp, vốn đã có Vô Cực Tứ Tượng Trận và Vô Cực Hỗn Độn Trận, bây giờ phải tăng thêm một cái Vô Cực Luân Hồi Trận. Trận pháp này do Tiêu Phàm tự mình nghĩ ra, theo những gì Chỉ Thủy Sư Tổ nói thì bất kỳ một vị chưởng giáo Vô Cực Môn nào cũng có trận pháp độc môn, trọng điểm mỗi người nghiên cứu khác nhau nên chế tạo ra trận pháp cũng khác nhau. Tiêu Phàm đã đem Luân Hồi Tương tu luyện đến cảnh giới cực kỳ cao thâm, thậm chí sự ảo diệu hơi nghiêng về Thiên Nhân Cảnh.
Những ghi chép trong Vô Cực Thuật Tàng rất phong phú, có một điển tịch riêng biệt gọi là Chưởng Giáo Châm Ngôn do các thời kỳ chưởng giáo tự mình biên soạn. Các thế hệ chưởng giáo đem những tâm đắc về Vô Cực Thuật Tàng nghiên cứu được ghi chép vào, ghi rất chi tiết cả chuyện lớn lẫn chuyện nhỏ.
Có điểm tương tự với ghi chép sinh hoạt thường ngày của các triều đại vua chúa.
Hầu như mỗi một đời chưởng giáo tổ sư đều ghi chép cặn kẽ những chuyện đã trải qua, các phương pháp nghiên cứu Vô Cực Cửu Tương Thiên đến cảnh giới cao thâm, những dị tượng sinh ra khi đột phá. Mỗi một vị chưởng giáo tổ sư đều tu luyện qua Luân Hồi Tương, đây chính là Thiên Nhân Tiên cảnh giới phía sau Trường Sinh Thiên và Tạo Hóa Thiên trong Vô Cực Cửu Tương Thiên, đệ tử Vô Cực Môn đều có thể nghiên cứu đến cảnh giới cao nhất.
Nhưng mỗi một vị tổ sư tu luyện Luân Hồi Tương đều lĩnh hội không giống nhau. Từ chưởng giáo tổ sư đời thứ ba mươi sáu cho đến Tiêu Phàm, đã qua hai mươi tám đời rồi, người có thể đem Luân Hồi Tương luyện đến cảnh giới viên mãn chỉ le que mấy người.
Sở dĩ xuất hiện loại tình huống như vậy là do Luân Hồi Tương đã không còn hoàn chỉnh, đã bị thất lạc một đến hai phần. Mà các thế hệ tổ sư cũng có thiên phú và tư chất không đồng đều. Mặc dù nói người có thể trở thành chưởng giáo, nhất định phải có thiên phú xuất chúng, nhưng đã đến cảnh giới cao xa như vậy, dù cho thiên phú và ngộ tính có khác biệt cực kỳ nhỏ cũng sẽ tạo thành ảnh hưởng vô cùng lớn đến cảnh giới tu vi.
Mỗi một vị tổ sư đều dựa vào những lý giải của mình mà nỗ lực muốn đem Luân Hồi Tương luyện đến cảnh giới viên mãn, tự bổ sung những thiếu sót của bản gốc. Sau đó cố gắng liên kết với những gì còn sót lại của Thiên Nhân Tương, cưỡng chế đột phá đến Thiên Nhân Cảnh.
Cho dù nói thế nào thì phương pháp tu luyện Thiên Nhân Cảnh còn lưu lại rất ít, mặc dù không còn toàn vẹn nhưng con đường tu luyện vẫn xem trọng một chữ "Ngộ". Nếu như có thể đem Luân Hồi Tương luyện đến đại thành, có thể từ phương pháp tu luyện Thiên Nhân Cảnh không trọn vẹn tìm ra một số gợi ý nào đó.
Có rất ít vị tổ sư có thể đem Luân Hồi Tương luyện đến cảnh giới viên mãn, rồi ghi lại những tâm đắc tìm hiểu của mình về Thiên Nhân Cảnh.
Điều khiến Tiêu Phàm giật mình chính là trong số những ghi chép về đủ loại dị tượng khi đột phá Thiên Nhân Cảnh mà các vị tổ sư tìm hiểu được, cậu đã trải qua ba loại. Mặc dù chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi, cảm nhận được dị tượng cũng rất mơ hồ, nhưng cậu thật sự đã trải qua.
Thảo nào Chỉ Thủy Sư Tổ lại đặt kỳ vọng lớn lao trên người Tiêu Phàm như vậy, còn nói cậu chính là đệ tử có hy vọng đột phá đến Thiên Nhân Cảnh nhất.
Nhưng khi tu vi đã đến cảnh giới này rồi, muốn đột phá một bước nữa lại gian nan biết bao. Coi như Tiêu Phàm có thiên phú xuất chúng hiếm thấy thì trước sau vẫn bị vây ở ranh giới Thiên Nhân Cảnh, khó có thể chân chính đột phá, tiến dần từng bước nhìn trộm phong thái huyền diệu của Thiên Nhân Cảnh.
Chỉ có điều đến cảnh giới hôm nay, Tiêu Phàm cũng dư sức chế ra trận pháp riêng của bản thân.
Tiêu Phàm đã bố trí Vô Cực Luân Hồi Đại Trận xong, tác dụng chủ yếu nhất chính là đem Tứ Tượng Trận cùng với Hỗn Độn Trận của Chỉ Thủy sư tổ khai thông, ba đại trận hòa làm một thể, lực phòng ngự đã được củng cố đến cực điểm.
Trừ cái đó ra thì Vô Cực Luân Hồi Trận còn có một tác dụng lớn nhất đó chính là che đậy thiên cơ.
Vì luyện chế Càn Khôn Tạo Hóa Đan cho Tiêu lão gia là một việc nghịch thiên cải mệnh, cứu vớt cả dòng họ Tiêu thị, nhất định phải khai thông tinh tượng, đoạt lực thiên địa tạo hóa. Đến lúc đó, nhất định sẽ tạo nên dị tượng, mà Tiêu Phàm cũng không có cách nào dự đoán trước được. Nhưng có một chuyện khẳng định là dị tượng đó nhất định vô cùng kinh người.
Kẻ địch ẩn núp trong bóng tối kia lại có thành tựu trên mặt thuật pháp phong thủy dường như không hề thua kém Tiêu Phàm, cho nên Tiêu Phàm không thể khinh thường được.
Thời điểm cậu thi pháp nghịch nghiên cướp đoạt tạo hóa cũng chính là lúc cậu yếu nhất, ngộ nhỡ bị kẻ địch đó phát hiện, thừa cơ công kích thì Tiêu Phàm khó có thể ngăn cản được.
Vì thế nên khâu chuẩn bị phải thật đầy đủ mới được, càng dư dả càng tốt.
Mà may mắn là có Tân lâm hỗ trợ chế thuốc, nếu không thì Tiêu Phàm quả thật không thể phân thân làm nhiều việc như vậy được.
Trong mật thất, trên chiếc bàn làm bằng gỗ tử đàn sau lưng Tân Lâm, để một loạt hộp ngọc, bình sứ, hộp gỗ, hồ lô, tùy tiện đếm mỗi một loại có hơn trăm hộp.
Mỗi một hộp ngọc, bình sứ đều chứa dược liệu không giống nhau.
Đủ loại kỳ dược linh thảo, nhiều đến không đếm xuể.
Mật gấu mới vừa lấy được ở vùng Đông Bắc, não Ngọc Giao ở Sơn Thành chính là hai loại dược liệu sau cùng, mới mẻ nhất. Trước đó không lâu, Ô Dương Mộc lấy được từ trong tay của Đặng Thông Thiên, niêm phong vào trong hộp ngọc màu vàng nhạt. Cái hộp ngọc này được điêu khắc từ một khối Hỏa Noãn Nham Ngọc thượng phẩm, ngắn ngủi hai tháng, dương khí ẩn trong Hỏa Noãn Nham Ngọc này đã bị Ô Dương Mộc hấp thu hơn một nửa.
Phương pháp chế thuốc do đích thân Tiêu Phàm kê.
Tân Lâm chỉ dựa theo những gì ghi trong bài thuốc, đem những dược liệu cực kỳ quý báu phân chia bỏ vào lò luyện đan tiến hành luyện chế. Nếu như tất cả suông sẻ thì bốn mươi chín ngày sau, Tân lâm sẽ luyện chế ra sáu bình linh dịch.
Sáu bình linh dịch này chính là nguyên liệu dùng để luyện chế Càn Khôn Đại Hoàn Đan.
Cả phòng luyện đan tràn ngập mùi thuốc.
Tân Lâm cùng với năm đạo cô cơ bản đều ăn ngủ bên trong phòng luyện đan.
Tân Lâm căn dặn các cô ấy, nếu có thời gian rãnh rỗi thì ngồi thiền tu luyện.
Càn Khôn Đại Hoàn Đan chính là thành tựu cao nhất ở mặt chế đan thuật của Vô Cực Môn, chỉ riêng hơn trăm loại dược liệu quý hiếm đã cực kỳ khó tìm rồi. Tân Lâm phỏng chừng đây không phải công của một mình Tiêu Phàm, giống như Sâm Vương ngàn năm, Hà Thủ Ô một trăm hai mươi năm, Thiên Sơn Tuyết Liên thượng hạng, Cửu Phân Trân Châu cũng không phải ngắn ngủi mấy năm là có thể thu gom đầy đủ hết.
Đây không phải vấn đề có tiền hay không, mà đó toàn là những loại linh dược hảo hạng, trăm năm khó tìm. Cho dù bạn có tiền nhiều thế nào đi nữa cũng không thể mua được. Số lượng Sâm Vương ngàn năm, Hà Thủ Ô một trăm hai mươi năm, Thiên Sơn Tuyết Liên thượng hạng, Cửu Phân Trân Châu trên thế giới ít hơn rất nhiều so với người có tiền.
Trên chiếc bàn bằng gỗ tử đàn chất đống vô số linh dược.
Một số hộp gỗ còn tỏa ra ánh sáng màu đen dày đặc, vừa nhìn cũng biết là đồ cổ, không biết được bao nhiêu bàn tay vuốt qua rồi. Dược liệu trong hộp có lẽ tồn tại lâu hơn so với hộp gỗ.
Đây chính là báo vật do các thế hệ tổ sư Vô Cực Môn cất giấu.
Nếu như Tiêu gia không gặp phải tai họa kinh thiên, khiến Tiêu Phàm bắt buộc phải luyện chế Càn Khôn Đại Hoàn Đan để Tiêu lão gia kéo dài tính mạng, thì Tiêu Phàm không nỡ dùng. Cậu còn muốn để những linh dược trân quý này lưu truyền đời sau. Những bảo bối mà Tiêu Phàm thu thập được cũng sẽ gia nhập vào trong hàng ngũ này, lưu lại cho những chưởng giáo chân nhân đời sau.
Việc luyện chế đan dược hiện nay chẳng khác nào đem bảo tàng hơn mấy trăm năm của Vô Cực Môn đem đi sử dụng. Trong phòng luyện đan nho nhỏ này tràn ngập mùi thuốc nồng nặc, quả thật là độc nhất vô nhị. Luyện đan ở môi trường này chẳng khác nào để cho linh dược hấp thu miễn phí mọi loại thiên địa linh khí, hiệu quả tốt hơn rất nhiều.
Đây cũng xem là một loại thiên địa cơ duyên.
Ngay cả Tân Lâm cũng thỏa thích nghỉ ngơi trong chốc lát, hấp thu thiên địa nguyên khí.
Cơ duyên như vậy làm sao có thể để vuột mất được chứ?
Tuy nhiên thoạt nhìn Tân Lâm có vẻ không vui, ngược lại có vẻ tâm sự nặng nề, càng về sau hai hàng lông mày càng nhíu chặt. Năm đạo cô cũng vô cùng khẩn trương, cẩn thận điều khiển lò luyện đan do mình phụ trách, chỉ sợ sơ suất một chút sẽ xảy ra tai họa khó có thể cứu vãng.
Những dược liệu này trân quý như thế, ngộ nhỡ luyện đan dược hỏng thì biết tìm nguyên liệu khác ở nơi nào chứ?
Chỉ có mình Tân Lâm biết cái cô lo lắng không phải là chuyện này.
Đan dược sẽ không bị hỏng.
Điểm này, trong lòng Tân Lâm vô cùng tin tưởng, thuật chế đan của Thất Diệu Cung cũng không phải hữu danh vô thực.
Cái Tân Lâm lo lắng là một chuyện khác.
Có lẽ Tiêu Phàm đã chuẩn bị sẵn sàng rồi!
Lấy phong cách làm việc cẩn thận chững chạc của Tiêu Phàm, cậu không có khả năng không chuẩn bị sẵn sàng. Chỉ là Tân Lâm vẫn không nhịn được mà lo lắng không yên, càng về sau càng lo lắng. Trước khi linh dịch được luyện thành mấy ngày, Tân Lâm quả thực vô cùng lo sợ, không thể không ngồi thiền để điều hòa khí tức, mới có thể áp chế tâm tình kích động xuống được.
Bảy bảy bốn mươi chín ngày qua đi, tất cả lò luyện đan đều tắt cùng một lúc, bảy bình ngọc dương chi cao gần sáu tấc được đặt chỉnh tề trên bàn gỗ tử đàn, thân bình trắng muốt, bảo quang lưu chuyển.
Cả bàn gỗ tử đàn được bao phủ bởi một cỗ linh khí nồng đậm.
Năm đạo cô thở phào một cái, trên mặt tràn đầy vẻ mỏi mệt đến cực điểm, nhưng miệng lại nhấc lên một nụ cười an tâm.
Cuối cùng không có xuất hiện sai lầm gì, đại công cáo thành!
Nhưng Chỉ Thủy Quan lại trở nên vô cùng bận rộn.
Tân Lâm bề bộn rất nhiều việc. Bốn mươi ngày qua, cô thậm chí không có thời gian bước ra khỏi Chỉ Thủy Quan một bước. Sáu nữ đạo sĩ ở Chỉ Thủy Quan, ngoại trừ một vị lớn tuổi nhất phụ trách sắp xếp sinh hoạt hàng ngày, vẩy nước quét đình viện, giặt quần áo, nhóm lửa nấu cơm. Năm người đó đều sống cùng Tân Lâm.
Chế thuốc!
Trong khoảng thời gian này, nhiệm vụ chính của Tân Lâm chính là chế thuốc.
Đem đủ loại dược liệu mà Tiêu Phàm thu thập từ các nơi phân ra luyện chế. Bên trong phòng luyện thuốc của Chỉ Thủy Quan, sáu lò luyện thuốc mở ra cùng một lúc. Tân Lâm làm việc chính, năm người kia phụ trách trợ giúp.
Thất Diệu Cung có bảy đại tuyệt kỹ, Thuật Chế Đan cũng là một trong số đó, phương pháp vô cùng thần kỳ tuyệt diệu, ngay cả Chỉ Thủy sư tổ cũng khen ngợi không ngớt.
Trong điển tịch Vô Cực Thuật Tàng cũng có ghi chép những chuyện liên quan đến Chế Đan Thuật của Thất Diệu Cung. Phương pháp chế đan của Vô Cực Môn cũng không kém Thất Diệu Cung, tuy nhiên hiện giờ thánh nữ của Thất Diệu Cung ở nơi này nên Tiêu Phàm không cần phải đích thân xuất thủ, cậu cũng có việc phải bận rộn của mình.
Tiêu Phàm vội vàng bày binh bố trận.
Chỉ Thủy Quan là do Chỉ Thủy sư tổ xây, rừng trúc bên ngoài ẩn giấu Vô Cực Hỗn Độn Trận do đích thân Chỉ Thủy sư tổ đích thân bố trí. Người bình thường, trừ phi là leo lên nồng súng bắn tới hoặc là phóng hỏa đốt cháy bằng không thì căn bản không cần nghĩ đến việc đi vào.
Nhưng mà như thế còn chưa đủ.
Tiêu Phàm phải tiếp tục củng cố trận pháp, vốn đã có Vô Cực Tứ Tượng Trận và Vô Cực Hỗn Độn Trận, bây giờ phải tăng thêm một cái Vô Cực Luân Hồi Trận. Trận pháp này do Tiêu Phàm tự mình nghĩ ra, theo những gì Chỉ Thủy Sư Tổ nói thì bất kỳ một vị chưởng giáo Vô Cực Môn nào cũng có trận pháp độc môn, trọng điểm mỗi người nghiên cứu khác nhau nên chế tạo ra trận pháp cũng khác nhau. Tiêu Phàm đã đem Luân Hồi Tương tu luyện đến cảnh giới cực kỳ cao thâm, thậm chí sự ảo diệu hơi nghiêng về Thiên Nhân Cảnh.
Những ghi chép trong Vô Cực Thuật Tàng rất phong phú, có một điển tịch riêng biệt gọi là Chưởng Giáo Châm Ngôn do các thời kỳ chưởng giáo tự mình biên soạn. Các thế hệ chưởng giáo đem những tâm đắc về Vô Cực Thuật Tàng nghiên cứu được ghi chép vào, ghi rất chi tiết cả chuyện lớn lẫn chuyện nhỏ.
Có điểm tương tự với ghi chép sinh hoạt thường ngày của các triều đại vua chúa.
Hầu như mỗi một đời chưởng giáo tổ sư đều ghi chép cặn kẽ những chuyện đã trải qua, các phương pháp nghiên cứu Vô Cực Cửu Tương Thiên đến cảnh giới cao thâm, những dị tượng sinh ra khi đột phá. Mỗi một vị chưởng giáo tổ sư đều tu luyện qua Luân Hồi Tương, đây chính là Thiên Nhân Tiên cảnh giới phía sau Trường Sinh Thiên và Tạo Hóa Thiên trong Vô Cực Cửu Tương Thiên, đệ tử Vô Cực Môn đều có thể nghiên cứu đến cảnh giới cao nhất.
Nhưng mỗi một vị tổ sư tu luyện Luân Hồi Tương đều lĩnh hội không giống nhau. Từ chưởng giáo tổ sư đời thứ ba mươi sáu cho đến Tiêu Phàm, đã qua hai mươi tám đời rồi, người có thể đem Luân Hồi Tương luyện đến cảnh giới viên mãn chỉ le que mấy người.
Sở dĩ xuất hiện loại tình huống như vậy là do Luân Hồi Tương đã không còn hoàn chỉnh, đã bị thất lạc một đến hai phần. Mà các thế hệ tổ sư cũng có thiên phú và tư chất không đồng đều. Mặc dù nói người có thể trở thành chưởng giáo, nhất định phải có thiên phú xuất chúng, nhưng đã đến cảnh giới cao xa như vậy, dù cho thiên phú và ngộ tính có khác biệt cực kỳ nhỏ cũng sẽ tạo thành ảnh hưởng vô cùng lớn đến cảnh giới tu vi.
Mỗi một vị tổ sư đều dựa vào những lý giải của mình mà nỗ lực muốn đem Luân Hồi Tương luyện đến cảnh giới viên mãn, tự bổ sung những thiếu sót của bản gốc. Sau đó cố gắng liên kết với những gì còn sót lại của Thiên Nhân Tương, cưỡng chế đột phá đến Thiên Nhân Cảnh.
Cho dù nói thế nào thì phương pháp tu luyện Thiên Nhân Cảnh còn lưu lại rất ít, mặc dù không còn toàn vẹn nhưng con đường tu luyện vẫn xem trọng một chữ "Ngộ". Nếu như có thể đem Luân Hồi Tương luyện đến đại thành, có thể từ phương pháp tu luyện Thiên Nhân Cảnh không trọn vẹn tìm ra một số gợi ý nào đó.
Có rất ít vị tổ sư có thể đem Luân Hồi Tương luyện đến cảnh giới viên mãn, rồi ghi lại những tâm đắc tìm hiểu của mình về Thiên Nhân Cảnh.
Điều khiến Tiêu Phàm giật mình chính là trong số những ghi chép về đủ loại dị tượng khi đột phá Thiên Nhân Cảnh mà các vị tổ sư tìm hiểu được, cậu đã trải qua ba loại. Mặc dù chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi, cảm nhận được dị tượng cũng rất mơ hồ, nhưng cậu thật sự đã trải qua.
Thảo nào Chỉ Thủy Sư Tổ lại đặt kỳ vọng lớn lao trên người Tiêu Phàm như vậy, còn nói cậu chính là đệ tử có hy vọng đột phá đến Thiên Nhân Cảnh nhất.
Nhưng khi tu vi đã đến cảnh giới này rồi, muốn đột phá một bước nữa lại gian nan biết bao. Coi như Tiêu Phàm có thiên phú xuất chúng hiếm thấy thì trước sau vẫn bị vây ở ranh giới Thiên Nhân Cảnh, khó có thể chân chính đột phá, tiến dần từng bước nhìn trộm phong thái huyền diệu của Thiên Nhân Cảnh.
Chỉ có điều đến cảnh giới hôm nay, Tiêu Phàm cũng dư sức chế ra trận pháp riêng của bản thân.
Tiêu Phàm đã bố trí Vô Cực Luân Hồi Đại Trận xong, tác dụng chủ yếu nhất chính là đem Tứ Tượng Trận cùng với Hỗn Độn Trận của Chỉ Thủy sư tổ khai thông, ba đại trận hòa làm một thể, lực phòng ngự đã được củng cố đến cực điểm.
Trừ cái đó ra thì Vô Cực Luân Hồi Trận còn có một tác dụng lớn nhất đó chính là che đậy thiên cơ.
Vì luyện chế Càn Khôn Tạo Hóa Đan cho Tiêu lão gia là một việc nghịch thiên cải mệnh, cứu vớt cả dòng họ Tiêu thị, nhất định phải khai thông tinh tượng, đoạt lực thiên địa tạo hóa. Đến lúc đó, nhất định sẽ tạo nên dị tượng, mà Tiêu Phàm cũng không có cách nào dự đoán trước được. Nhưng có một chuyện khẳng định là dị tượng đó nhất định vô cùng kinh người.
Kẻ địch ẩn núp trong bóng tối kia lại có thành tựu trên mặt thuật pháp phong thủy dường như không hề thua kém Tiêu Phàm, cho nên Tiêu Phàm không thể khinh thường được.
Thời điểm cậu thi pháp nghịch nghiên cướp đoạt tạo hóa cũng chính là lúc cậu yếu nhất, ngộ nhỡ bị kẻ địch đó phát hiện, thừa cơ công kích thì Tiêu Phàm khó có thể ngăn cản được.
Vì thế nên khâu chuẩn bị phải thật đầy đủ mới được, càng dư dả càng tốt.
Mà may mắn là có Tân lâm hỗ trợ chế thuốc, nếu không thì Tiêu Phàm quả thật không thể phân thân làm nhiều việc như vậy được.
Trong mật thất, trên chiếc bàn làm bằng gỗ tử đàn sau lưng Tân Lâm, để một loạt hộp ngọc, bình sứ, hộp gỗ, hồ lô, tùy tiện đếm mỗi một loại có hơn trăm hộp.
Mỗi một hộp ngọc, bình sứ đều chứa dược liệu không giống nhau.
Đủ loại kỳ dược linh thảo, nhiều đến không đếm xuể.
Mật gấu mới vừa lấy được ở vùng Đông Bắc, não Ngọc Giao ở Sơn Thành chính là hai loại dược liệu sau cùng, mới mẻ nhất. Trước đó không lâu, Ô Dương Mộc lấy được từ trong tay của Đặng Thông Thiên, niêm phong vào trong hộp ngọc màu vàng nhạt. Cái hộp ngọc này được điêu khắc từ một khối Hỏa Noãn Nham Ngọc thượng phẩm, ngắn ngủi hai tháng, dương khí ẩn trong Hỏa Noãn Nham Ngọc này đã bị Ô Dương Mộc hấp thu hơn một nửa.
Phương pháp chế thuốc do đích thân Tiêu Phàm kê.
Tân Lâm chỉ dựa theo những gì ghi trong bài thuốc, đem những dược liệu cực kỳ quý báu phân chia bỏ vào lò luyện đan tiến hành luyện chế. Nếu như tất cả suông sẻ thì bốn mươi chín ngày sau, Tân lâm sẽ luyện chế ra sáu bình linh dịch.
Sáu bình linh dịch này chính là nguyên liệu dùng để luyện chế Càn Khôn Đại Hoàn Đan.
Cả phòng luyện đan tràn ngập mùi thuốc.
Tân Lâm cùng với năm đạo cô cơ bản đều ăn ngủ bên trong phòng luyện đan.
Tân Lâm căn dặn các cô ấy, nếu có thời gian rãnh rỗi thì ngồi thiền tu luyện.
Càn Khôn Đại Hoàn Đan chính là thành tựu cao nhất ở mặt chế đan thuật của Vô Cực Môn, chỉ riêng hơn trăm loại dược liệu quý hiếm đã cực kỳ khó tìm rồi. Tân Lâm phỏng chừng đây không phải công của một mình Tiêu Phàm, giống như Sâm Vương ngàn năm, Hà Thủ Ô một trăm hai mươi năm, Thiên Sơn Tuyết Liên thượng hạng, Cửu Phân Trân Châu cũng không phải ngắn ngủi mấy năm là có thể thu gom đầy đủ hết.
Đây không phải vấn đề có tiền hay không, mà đó toàn là những loại linh dược hảo hạng, trăm năm khó tìm. Cho dù bạn có tiền nhiều thế nào đi nữa cũng không thể mua được. Số lượng Sâm Vương ngàn năm, Hà Thủ Ô một trăm hai mươi năm, Thiên Sơn Tuyết Liên thượng hạng, Cửu Phân Trân Châu trên thế giới ít hơn rất nhiều so với người có tiền.
Trên chiếc bàn bằng gỗ tử đàn chất đống vô số linh dược.
Một số hộp gỗ còn tỏa ra ánh sáng màu đen dày đặc, vừa nhìn cũng biết là đồ cổ, không biết được bao nhiêu bàn tay vuốt qua rồi. Dược liệu trong hộp có lẽ tồn tại lâu hơn so với hộp gỗ.
Đây chính là báo vật do các thế hệ tổ sư Vô Cực Môn cất giấu.
Nếu như Tiêu gia không gặp phải tai họa kinh thiên, khiến Tiêu Phàm bắt buộc phải luyện chế Càn Khôn Đại Hoàn Đan để Tiêu lão gia kéo dài tính mạng, thì Tiêu Phàm không nỡ dùng. Cậu còn muốn để những linh dược trân quý này lưu truyền đời sau. Những bảo bối mà Tiêu Phàm thu thập được cũng sẽ gia nhập vào trong hàng ngũ này, lưu lại cho những chưởng giáo chân nhân đời sau.
Việc luyện chế đan dược hiện nay chẳng khác nào đem bảo tàng hơn mấy trăm năm của Vô Cực Môn đem đi sử dụng. Trong phòng luyện đan nho nhỏ này tràn ngập mùi thuốc nồng nặc, quả thật là độc nhất vô nhị. Luyện đan ở môi trường này chẳng khác nào để cho linh dược hấp thu miễn phí mọi loại thiên địa linh khí, hiệu quả tốt hơn rất nhiều.
Đây cũng xem là một loại thiên địa cơ duyên.
Ngay cả Tân Lâm cũng thỏa thích nghỉ ngơi trong chốc lát, hấp thu thiên địa nguyên khí.
Cơ duyên như vậy làm sao có thể để vuột mất được chứ?
Tuy nhiên thoạt nhìn Tân Lâm có vẻ không vui, ngược lại có vẻ tâm sự nặng nề, càng về sau hai hàng lông mày càng nhíu chặt. Năm đạo cô cũng vô cùng khẩn trương, cẩn thận điều khiển lò luyện đan do mình phụ trách, chỉ sợ sơ suất một chút sẽ xảy ra tai họa khó có thể cứu vãng.
Những dược liệu này trân quý như thế, ngộ nhỡ luyện đan dược hỏng thì biết tìm nguyên liệu khác ở nơi nào chứ?
Chỉ có mình Tân Lâm biết cái cô lo lắng không phải là chuyện này.
Đan dược sẽ không bị hỏng.
Điểm này, trong lòng Tân Lâm vô cùng tin tưởng, thuật chế đan của Thất Diệu Cung cũng không phải hữu danh vô thực.
Cái Tân Lâm lo lắng là một chuyện khác.
Có lẽ Tiêu Phàm đã chuẩn bị sẵn sàng rồi!
Lấy phong cách làm việc cẩn thận chững chạc của Tiêu Phàm, cậu không có khả năng không chuẩn bị sẵn sàng. Chỉ là Tân Lâm vẫn không nhịn được mà lo lắng không yên, càng về sau càng lo lắng. Trước khi linh dịch được luyện thành mấy ngày, Tân Lâm quả thực vô cùng lo sợ, không thể không ngồi thiền để điều hòa khí tức, mới có thể áp chế tâm tình kích động xuống được.
Bảy bảy bốn mươi chín ngày qua đi, tất cả lò luyện đan đều tắt cùng một lúc, bảy bình ngọc dương chi cao gần sáu tấc được đặt chỉnh tề trên bàn gỗ tử đàn, thân bình trắng muốt, bảo quang lưu chuyển.
Cả bàn gỗ tử đàn được bao phủ bởi một cỗ linh khí nồng đậm.
Năm đạo cô thở phào một cái, trên mặt tràn đầy vẻ mỏi mệt đến cực điểm, nhưng miệng lại nhấc lên một nụ cười an tâm.
Cuối cùng không có xuất hiện sai lầm gì, đại công cáo thành!
/339
|