A Ninh lấy làm lạ, hỏi: “Vì sao?”
Trát Tây bèn nói: “Bà nội tôi nói, trước mặt mấy người đây là một tòa thành ma quỷ, chứ không phải điểm du lịch đâu. Khoảng địa hình Yardang này rộng phải đến tám mươi bảy ki lô mét vuông, mênh mông vô cùng. Cảnh quan bên trong đều rất nguyên sơ, không có bất kỳ biển chỉ đường nào, buổi tối mà vào đây thì cực kỳ dễ lạc đường. Hơn nữa, có người còn nói, trong này có cơ man là cát lún, năm 1997 cả một đội khảo sát địa chất đã mất tích ở đó, hồi ấy có biết bao nhiêu người đi tìm mà vẫn không thấy. Về sau, năm 1999, trời nổi gió lớn, một nhóm nhiếp ảnh gia khi đến đây chụp ảnh đã phát hiện ra hai cái xác khô quắt trong một hố cát, những người còn lại vẫn chưa tìm thấy.”
A Ninh nghe xong liền lắc đầu, nói: “Cậu không phải lo, bọn tôi có mang theo GPS. Nếu theo lời cậu nói, địa hình nơi này phức tạp đến vậy thì chúng tôi càng phải đi vào trong, nếu đợi đến sáng mới đi tìm, không chừng bọn họ sẽ xảy ra chuyện mất.”
Nói rồi, cô vẫn không nghe lời cảnh báo của Trát Tây mà gọi vài người tới, vặn đèn pin, định tiếp tục chuẩn bị tiến vào trong tòa thành.
Tôi nghĩ lời cô ta nói cũng có lý. Từ trước tới giờ Trát Tây toàn sắm vai nguy hiểm, mở mồm câu nào giật gân câu ấy, giờ lời cậu ta nói ra đương nhiên A Ninh sẽ không hoàn toàn tin tưởng. Hơn nữa, phong cách của người Tây là lấy con người làm gốc, bảo bọn họ phải bỏ rơi ba người đồng đội kia, đối với họ chẳng khác nào tự tay giết bạn mình cả, vì vậy không còn cách nào khác đành đưa ra quyết định này.
Tôi đương nhiên là muốn cùng đi theo, bởi ba người kia khi mất tích đều ở cùng với tôi. Dù nhiều dù ít, tôi cũng phải bỏ công bỏ sức ra một chút, bằng không nhỡ ba người kia quả thực gặp điều bất trắc gì thì tôi cũng không thể yên giấc được.
Trát Tây còn muốn nói gì đó, chợt Định Chủ Trác Mã ở bên liền quát một tiếng. Bà ta lắc đầu, ý bảo Trát Tây đừng nói nữa, sau đó nói liến thoắng với Trát Tây mấy câu tiếng Tạng.
Lập tức Trát Tây lộ ra vẻ mặt khó hiểu, nhưng dáng vẻ của Định Chủ Trác Mã rất kiên quyết. Trác Tây còn muốn kháng nghị nữa, nhưng Định Chủ Trác Mã liền mắng một tiếng, cậu ta không dám nói gì thêm nữa. Trát Tây gật đầu với Định Chủ Trác Mã, lùi trở về, vẻ mặt buồn bực mà nói với chúng tôi: “Mấy người gặp may đấy, bà nội tôi bảo tôi đưa mấy người vào trong.” Nói rồi cậu ta vặn đèn pin, đến chỗ hành lý của mình, bắt đầu sắp xếp đồ đạc.
Tôi không nghe hiểu tiếng Tạng, bèn hỏi A Ninh xem bà lão kia nói gì thế. A Ninh cũng lắc đầu, bảo nhỏ tiếng quá cô cũng không nghe rõ, hình như là nói “nhận tiền của người ta thì giúp người ta trừ tai họa” đại loại thế thì phải.
Tôi thầm thấy tức cười, quay đầu thoáng nhìn Định Chủ Trác Mã. Bà cụ này đã quay trở về lều của mình, xem ra không có vẻ gì là lo lắng cả.
Trát Tây dọn dẹp sắp xếp lại trang bị một lượt, bỏ lại hết tất cả những đồ không cần thiết, mang theo đầy đủ nước và lương khô, còn có cả súng tín hiệu nữa. Sau đó đánh thức tài xế dậy, nói với ông ta ý định của chúng tôi, rồi để ông ta chờ ở bên ngoài chuẩn bị tiếp ứng. Nếu thấy chúng tôi ở trong bắn đạn tín hiệu lên thì tuyệt đối không vào trong, ở ngoài bắn đạn tín hiệu chỉ phương hướng cho chúng tôi. Nếu như bọn tôi vẫn không ra, thì đợi trời sáng mọi người hẵng vào trong tìm, chúng tôi sẽ để lại ký hiệu ven đường đi.
Người tài xế kia mơ mơ màng màng gật đầu ưng thuận. Bốn người chúng tôi sắp xếp một chút, sau đó Trát Tây xị mặt đi đầu, mấy người chúng tôi quay về phía lối vào thành ma sau lưng mà bắt đầu xuất phát.
Nơi chúng tôi tránh gió là ở sát ranh giới với tòa thành ma, đằng sau ngọn núi đá cao lớn nơi chúng tôi hạ trại là một sườn dốc kéo dài thẳng xuống dưới, ở phía cuối chính là mỏm núi đá trông như một tòa pháo đài mà tôi đã nhìn thấy trong bão cát, có lẽ đây là một mỏm núi đá khá cao nằm trong vùng thành ma.
Trên đường xuống dốc, Trát Tây dùng những hòn đá vụn đắp thành những đống đá A rập(*) đánh dấu hướng đi cho người đi sau. Cậu ta nói, suốt dọc đường đi, mỗi khi cần rẽ trái rẽ phải gì đó thì đắp một đống đá ở đó, sau này khi đang đi thẳng mà gặp đống đá của mình thì không được tiếp tục tiến bước nữa, nếu đi tiếp sẽ lại thành đi vòng vèo. Đây là mốc đánh dấu của cậu ta.
Chúng tôi nghe thấy có lý, nói không thành vấn đề.
Rất nhanh chúng tôi đã đến lối vào thành. Tiến vào trong tòa thành ma, quang cảnh bốn phía bắt đầu trở nên kỳ dị. Ngước mắt nhìn trông, dưới ánh trăng vằng vặc thấy cơ man những mỏm núi đá tối đen như mực nổi lên trên nền cát sỏi của hoang mạc, do ánh sáng mập mờ không nhìn rõ. Khi chiếu đèn pin qua mới có thể thấy những rãnh phong hóa do gió cát bào mòn hết sức rõ ràng trên bề mặt núi đá. Dưới màn trời tối mịt, một số ít những nơi ánh trăng có thể chiếu đến trông trắng lợt ảm đạm vô cùng, khiến tôi có cảm giác dường như đang bước đi trên mặt trăng.
Tôi nhìn ngắm cảnh vật suốt dọc đường, cố gắng nhớ lại những kiến thức địa chất học năm xưa đã học ở trường, nhưng đã quên sạch mất rồi. Chỉ biết vùng địa hình Yardang này bị phong hóa chưa lâu, đa phần địa thế tương đối thấp, thời gian núi đá và gò đất hình thành không dài nên mức độ phong hóa không nghiêm trọng. Vì thế, ở đây phần lớn đều là những núi đá và gò đất vô cùng cao lớn.
Trong tình cảnh đó, chúng tôi chỉ có thể đi xuyên qua các khe núi xen kẽ giữa những núi đá và gò đất, không thể thoải mái trèo lên trên các gò đất mà đi như ở những vùng thành ma khác. Có điều, ở kiểu địa hình này, các khe núi không hề bằng phẳng, nơi thì cao vượt lên trên mặt cát sỏi của hoang mạc, nơi thấp thì ở tít sâu dưới lớp cát hoang mạc. Theo địa chất học, nhưng ngọn núi đá này thực ra là đỉnh của hệ thống núi chìm bên dưới hoang mạc, đừng thấy nó chỉ cao có mười mấy mét mà nhầm, có khi dưới chân chúng tôi đây còn ẩn chứa cả một hệ thống núi đá cao đến cả chục ki lô mét nữa. Những rặng núi ngầm dưới lớp cát hoang mạc này đều là các nhánh của hệ thống núi Côn Lôn. Theo lý thuyết mà nói, chúng tôi bây giờ cũng là đang bước đi trên núi Côn Lôn.
Chẳng qua, tôi không có thời gian suy nghĩ nhiều đến những vấn đề học thuật này. Khi tiến vào trong được khoảng hai, ba ki lô mét, A Ninh bắt đầu dùng bộ đàm gọi. Còn bọn tôi thì lớn tiếng hô hoán, hi vọng ba người kia nghe được tiếng của chúng tôi mà đáp lại.
Ở giữa chốn thành ma vắng vẻ, tiếng gọi của chúng tôi lập tức bị vọng lại vô số lần, tiếng vọng vang lên chồng chéo nhau, có thể truyền đi rất xa. Xa xa mà nghe thì cảm thấy vô cùng quái gở, cứ như là tiếng quỷ khóc vang vọng lại từ cõi u minh.
Cứ như vậy, chúng tôi vừa đi vừa gọi, tìm được đủ ba tiếng đồng hồ thì cũng là lúc tiến vào rất sâu bên trong thành ma rồi. Chiếu đèn pin ra khắp bốn phía núi đá, mắt cũng hoa hết cả lên, mồm cũng đã kêu gọi đến mỏi cả rồi. Thế nhưng vẫn chẳng thấy bóng dáng nhóm người anh Caucasus đâu, cũng không có bất kỳ tiếng trả lời nào. Đáp lại tiếng gọi của chúng tôi chỉ có tiếng vọng của chính chúng tôi cùng với tiếng gió thổi hiu hiu.
Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi. A Ninh hỏi Trát Tây, dựa vào kinh nghiệm của cậu ta, phải tìm kiếm bằng cách nào mới tốt nhất đây?
Trát Tây lắc đầu: “Cũng chỉ có mỗi cách như mấy người vẫn làm đây thôi. Chúng ta bây giờ đi được khoảng bảy ki lô mét, nếu là tính theo đường thẳng thì là một quãng đường rất dài rồi. Thế nhưng thực ra chúng ta đã vô thức đi vòng vèo từ lâu, nhìn la bàn xem, bây giờ chúng ta đang đi theo hướng vòng về đấy. Con người ở nơi này cũng giống như con kiến, sẽ vô thức mà đi theo hình chữ S. Vì thế mới nói, bây giờ tôi chỉ có thể bảo đảm đưa mọi người ra ngoài thôi, việc tìm người tôi không có cách nào cả… Mấy người đó ngồi im một chỗ thì còn tốt, chứ bọn họ mà cũng đang mò mẫm tìm đường, vậy, cô nói xem, xác suất để hai nhóm người gặp được nhau trong một mê cung rộng tám mươi ki lô mét vuông là bao nhiêu?”
A Ninh không hài lòng với câu trả lời này, cau mày nói: “Mấy người các cậu trước đây không có ai từng bị lạc đường à?”
Trát Tây đang đắp một đống đá, không ngẩng đầu lên mà lắc đầu nói: “Chúng tôi không vào trong nơi này vào buổi tối.”
Nói rồi cậu ta thở dài, không biết là có ý gì.
A Ninh nhìn vẻ mặt của mấy chúng tôi, cổ vũ vài câu, nói chúng tôi không nên nản chí. Chẳng qua hiển nhiên là không có tác dụng cho lắm. Chúng tôi rút ra mấy điếu thuốc, xốc lại tinh thần, tiếp tục bước đi.
Thế nhưng vẫn chẳng có tiến triển gì như chúng tôi kỳ vọng. Lại vừa kêu gọi vừa bước đi, cũng không biết là đã đi bao lâu rồi nữa, trong lúc đó đã dừng lại nghỉ ngơi dược bốn lần, Trát Tây đã đắp được không dưới ba mươi đống đá rồi, nhưng ngay cả một bóng người vẫn không thấy, cũng không có bất kỳ tiếng đáp lại nào. Dường như bên trong tòa thành ma vắng vẻ này đã nuốt chửng hết tất cả mọi tiếng gọi của chúng tôi.
Mà điều khiến tôi cảm thấy đáng sợ rõ ràng là, trước giờ đi mãi mà chúng tôi chưa từng đụng phải bất kỳ đống đá nào của Trát Tây, chứng tỏ chúng tôi vẫn còn đang tiến về phía trước. Tòa thành ma này thật sự là thâm sâu không thể lường được, không biết bên trong này còn có bao nhiêu chặng đường nữa đây.
Tiếp tục tiến bước, chúng tôi đi vào trong một hẻm núi kẹp giữa hai ngọn núi đá. Đến dưới chân một tảng đá lớn, thật sự là không thể đi tiếp nổi nữa, đành phải dừng lại nghỉ ngơi lần thứ sáu.
Lúc này chúng tôi đều đã khản giọng hết cả, không thể gọi to được nữa. Chúng tôi ừng ực uống từng ngụm nước lớn, tất cả mọi người đều mất giọng, đầu óc có chút trống rỗng.
Im lặng một lúc lâu, ông bác sĩ kia bỗng nói: “Có khi nào tòa thành ma này thật sự có ma quỷ chăng? Bọn họ đã bị ma quỷ bắt đi mất rồi?”
Lời này thốt ra rất đột ngột, chúng tôi đều sửng sốt một hồi. Trát Tây lườm ông ta một cái, bảo ông ta chớ có nói nhảm. Người Tạng tương đối truyền thống, nghe những lời như thế này cảm thấy khá khó chịu.
“Ma quỷ thì chắc chắn không có, người cũng chắc chắn là ở trong này.” Một lúc sau, Trát Tây uống một ngụm nước cho nhuận giọng, vừa từ tốn nói: “Chỉ là không biết tình huống bây giờ là như thế nào thôi.”
Mọi người lại im lặng, mỗi người đều có suy nghĩ của riêng mình. Trên thực tế, tôi biết bây giờ hy vọng trong lòng chúng tôi đều rất mong manh, lúc vừa mới vào đây, tôi còn ngỡ xác suất tìm được bọn họ rất lớn, chí ít thì cũng phải tìm thấy được chút ít dấu vết nào đó. Thế nhưng bây giờ, hoàn toàn chẳng có cách gì cả.
Nghỉ ngơi một hồi lâu, A Ninh nhìn đồng hồ đeo tay một cái rồi đứng lên, kêu chúng tôi chuẩn bị tiếp tục xuất phát. Chúng tôi đều theo phản xạ có điều kiện mà đứng lên, hít một hơi thật sâu, chuẩn bị xốc lại tinh thần, tiếp tục hò hét.
Vào đúng lúc đó, mấy người bọn tôi nghe thấy từ trong bộ đàm của A Ninh vang lên một tiếng người la hét. Tiếng tĩnh điện vô cùng lớn, rất chói tai, không nghe rõ là đang nói cái gì.
Bốn bề vốn im lặng như tờ, đột nhiên lại nảy ra cái tiếng động này làm chúng tôi sợ hết hồn, lập tức quay sang nhìn bộ đàm của A Ninh.
A Ninh cũng ngẩn người ra, vài giây sau mới phản ứng lại đứng, vội vàng cầm lấy bộ đàm đưa lên nghe cho kỹ.
Tiếng động kia lại một lần nữa vang lên, tiếng tĩnh điện rất chói tai, nhưng có thể nghe rõ là tiếng gọi của một người.
“Bọn họ ở ngay gần đây!” Chúng tôi kinh ngạc kêu lên. A Ninh gần như nhảy dựng cả lên.
Với địa hình của thành ma, bộ đàm hầu như không có tác dụng gì mấy, chỉ khi ở trong một khoảng cách rất gần mới có thể thu được tín hiệu. Suốt dọc đường A Ninh đều điều chỉnh thử bộ đàm xem có thu được tín hiệu gì không, nhưng không có kết quả gì, giờ đây tín hiệu đột nhiên là vang lên, hiển nhiên là bộ đàm của đối phương đang ở rất gần đây.
Chúng tôi âm thầm thở phào một cái. A Ninh lập tức bắt đầu xoay vặn điều chỉnh tần số, giọng nói kia mới bắt đầu rõ ràng hơn, thế nhưng vẫn không nghe ra được là đang nói cái gì. Sau đó, cô ta kêu to vào bộ đàm: “Tôi là đội trưởng, chúng tôi đang đến tìm các anh, các anh đang ở hướng nào?”
Đáp lại là một chuỗi âm thanh liên tiếp khó mà diễn tả được, tiếng nhiễu sóng rất nhiều, nhưng ngữ điệu có thay đổi, rõ ràng là đối phương đã nghe được tiếng gọi của chúng tôi.
Những uể oải vừa rồi liền bị quét sạch, ông bác sĩ hét to một tiếng “Yes!”. Tôi cũng lấy bộ đàm của mình ra, vỗ vỗ, điều chỉnh một chút, nhìn xem máy móc có vấn đề gì không. Rất nhanh sau đó tôi cũng nghe được âm thanh nọ, cũng vẫn là tiếng ầm ĩ xì xèo như vậy.
A Ninh lại gọi một lần nữa, lúc này đây, âm thanh nọ mới rõ ràng hơn một chút. Mấy người chúng tôi vẫn cố gắng lắng nghe, hy vọng có thể nghe thấy rõ đối phương đang nói cái gì.
Nghe một hồi, tôi liền phát hiện ra có gì đó không ổn. Người bên kia bộ đàm hình như không phải là đang nói chuyện. Cái ngữ điệu giọng nói này vô cùng kỳ quái, rất khó hình dung, nghe thật kỹ thì thấy hình như là tiếng một người đang cười khẩy một cách đầy oán độc.
—
(*) người A rập cổ đại khi đi lại trong sa mạc thì dùng những đống đá này thay cho biển chỉ đường, để cho người đi sau khi đi sâu vào sa mạc hay khu vực thành ma không bị lạc đường.
Trát Tây bèn nói: “Bà nội tôi nói, trước mặt mấy người đây là một tòa thành ma quỷ, chứ không phải điểm du lịch đâu. Khoảng địa hình Yardang này rộng phải đến tám mươi bảy ki lô mét vuông, mênh mông vô cùng. Cảnh quan bên trong đều rất nguyên sơ, không có bất kỳ biển chỉ đường nào, buổi tối mà vào đây thì cực kỳ dễ lạc đường. Hơn nữa, có người còn nói, trong này có cơ man là cát lún, năm 1997 cả một đội khảo sát địa chất đã mất tích ở đó, hồi ấy có biết bao nhiêu người đi tìm mà vẫn không thấy. Về sau, năm 1999, trời nổi gió lớn, một nhóm nhiếp ảnh gia khi đến đây chụp ảnh đã phát hiện ra hai cái xác khô quắt trong một hố cát, những người còn lại vẫn chưa tìm thấy.”
A Ninh nghe xong liền lắc đầu, nói: “Cậu không phải lo, bọn tôi có mang theo GPS. Nếu theo lời cậu nói, địa hình nơi này phức tạp đến vậy thì chúng tôi càng phải đi vào trong, nếu đợi đến sáng mới đi tìm, không chừng bọn họ sẽ xảy ra chuyện mất.”
Nói rồi, cô vẫn không nghe lời cảnh báo của Trát Tây mà gọi vài người tới, vặn đèn pin, định tiếp tục chuẩn bị tiến vào trong tòa thành.
Tôi nghĩ lời cô ta nói cũng có lý. Từ trước tới giờ Trát Tây toàn sắm vai nguy hiểm, mở mồm câu nào giật gân câu ấy, giờ lời cậu ta nói ra đương nhiên A Ninh sẽ không hoàn toàn tin tưởng. Hơn nữa, phong cách của người Tây là lấy con người làm gốc, bảo bọn họ phải bỏ rơi ba người đồng đội kia, đối với họ chẳng khác nào tự tay giết bạn mình cả, vì vậy không còn cách nào khác đành đưa ra quyết định này.
Tôi đương nhiên là muốn cùng đi theo, bởi ba người kia khi mất tích đều ở cùng với tôi. Dù nhiều dù ít, tôi cũng phải bỏ công bỏ sức ra một chút, bằng không nhỡ ba người kia quả thực gặp điều bất trắc gì thì tôi cũng không thể yên giấc được.
Trát Tây còn muốn nói gì đó, chợt Định Chủ Trác Mã ở bên liền quát một tiếng. Bà ta lắc đầu, ý bảo Trát Tây đừng nói nữa, sau đó nói liến thoắng với Trát Tây mấy câu tiếng Tạng.
Lập tức Trát Tây lộ ra vẻ mặt khó hiểu, nhưng dáng vẻ của Định Chủ Trác Mã rất kiên quyết. Trác Tây còn muốn kháng nghị nữa, nhưng Định Chủ Trác Mã liền mắng một tiếng, cậu ta không dám nói gì thêm nữa. Trát Tây gật đầu với Định Chủ Trác Mã, lùi trở về, vẻ mặt buồn bực mà nói với chúng tôi: “Mấy người gặp may đấy, bà nội tôi bảo tôi đưa mấy người vào trong.” Nói rồi cậu ta vặn đèn pin, đến chỗ hành lý của mình, bắt đầu sắp xếp đồ đạc.
Tôi không nghe hiểu tiếng Tạng, bèn hỏi A Ninh xem bà lão kia nói gì thế. A Ninh cũng lắc đầu, bảo nhỏ tiếng quá cô cũng không nghe rõ, hình như là nói “nhận tiền của người ta thì giúp người ta trừ tai họa” đại loại thế thì phải.
Tôi thầm thấy tức cười, quay đầu thoáng nhìn Định Chủ Trác Mã. Bà cụ này đã quay trở về lều của mình, xem ra không có vẻ gì là lo lắng cả.
Trát Tây dọn dẹp sắp xếp lại trang bị một lượt, bỏ lại hết tất cả những đồ không cần thiết, mang theo đầy đủ nước và lương khô, còn có cả súng tín hiệu nữa. Sau đó đánh thức tài xế dậy, nói với ông ta ý định của chúng tôi, rồi để ông ta chờ ở bên ngoài chuẩn bị tiếp ứng. Nếu thấy chúng tôi ở trong bắn đạn tín hiệu lên thì tuyệt đối không vào trong, ở ngoài bắn đạn tín hiệu chỉ phương hướng cho chúng tôi. Nếu như bọn tôi vẫn không ra, thì đợi trời sáng mọi người hẵng vào trong tìm, chúng tôi sẽ để lại ký hiệu ven đường đi.
Người tài xế kia mơ mơ màng màng gật đầu ưng thuận. Bốn người chúng tôi sắp xếp một chút, sau đó Trát Tây xị mặt đi đầu, mấy người chúng tôi quay về phía lối vào thành ma sau lưng mà bắt đầu xuất phát.
Nơi chúng tôi tránh gió là ở sát ranh giới với tòa thành ma, đằng sau ngọn núi đá cao lớn nơi chúng tôi hạ trại là một sườn dốc kéo dài thẳng xuống dưới, ở phía cuối chính là mỏm núi đá trông như một tòa pháo đài mà tôi đã nhìn thấy trong bão cát, có lẽ đây là một mỏm núi đá khá cao nằm trong vùng thành ma.
Trên đường xuống dốc, Trát Tây dùng những hòn đá vụn đắp thành những đống đá A rập(*) đánh dấu hướng đi cho người đi sau. Cậu ta nói, suốt dọc đường đi, mỗi khi cần rẽ trái rẽ phải gì đó thì đắp một đống đá ở đó, sau này khi đang đi thẳng mà gặp đống đá của mình thì không được tiếp tục tiến bước nữa, nếu đi tiếp sẽ lại thành đi vòng vèo. Đây là mốc đánh dấu của cậu ta.
Chúng tôi nghe thấy có lý, nói không thành vấn đề.
Rất nhanh chúng tôi đã đến lối vào thành. Tiến vào trong tòa thành ma, quang cảnh bốn phía bắt đầu trở nên kỳ dị. Ngước mắt nhìn trông, dưới ánh trăng vằng vặc thấy cơ man những mỏm núi đá tối đen như mực nổi lên trên nền cát sỏi của hoang mạc, do ánh sáng mập mờ không nhìn rõ. Khi chiếu đèn pin qua mới có thể thấy những rãnh phong hóa do gió cát bào mòn hết sức rõ ràng trên bề mặt núi đá. Dưới màn trời tối mịt, một số ít những nơi ánh trăng có thể chiếu đến trông trắng lợt ảm đạm vô cùng, khiến tôi có cảm giác dường như đang bước đi trên mặt trăng.
Tôi nhìn ngắm cảnh vật suốt dọc đường, cố gắng nhớ lại những kiến thức địa chất học năm xưa đã học ở trường, nhưng đã quên sạch mất rồi. Chỉ biết vùng địa hình Yardang này bị phong hóa chưa lâu, đa phần địa thế tương đối thấp, thời gian núi đá và gò đất hình thành không dài nên mức độ phong hóa không nghiêm trọng. Vì thế, ở đây phần lớn đều là những núi đá và gò đất vô cùng cao lớn.
Trong tình cảnh đó, chúng tôi chỉ có thể đi xuyên qua các khe núi xen kẽ giữa những núi đá và gò đất, không thể thoải mái trèo lên trên các gò đất mà đi như ở những vùng thành ma khác. Có điều, ở kiểu địa hình này, các khe núi không hề bằng phẳng, nơi thì cao vượt lên trên mặt cát sỏi của hoang mạc, nơi thấp thì ở tít sâu dưới lớp cát hoang mạc. Theo địa chất học, nhưng ngọn núi đá này thực ra là đỉnh của hệ thống núi chìm bên dưới hoang mạc, đừng thấy nó chỉ cao có mười mấy mét mà nhầm, có khi dưới chân chúng tôi đây còn ẩn chứa cả một hệ thống núi đá cao đến cả chục ki lô mét nữa. Những rặng núi ngầm dưới lớp cát hoang mạc này đều là các nhánh của hệ thống núi Côn Lôn. Theo lý thuyết mà nói, chúng tôi bây giờ cũng là đang bước đi trên núi Côn Lôn.
Chẳng qua, tôi không có thời gian suy nghĩ nhiều đến những vấn đề học thuật này. Khi tiến vào trong được khoảng hai, ba ki lô mét, A Ninh bắt đầu dùng bộ đàm gọi. Còn bọn tôi thì lớn tiếng hô hoán, hi vọng ba người kia nghe được tiếng của chúng tôi mà đáp lại.
Ở giữa chốn thành ma vắng vẻ, tiếng gọi của chúng tôi lập tức bị vọng lại vô số lần, tiếng vọng vang lên chồng chéo nhau, có thể truyền đi rất xa. Xa xa mà nghe thì cảm thấy vô cùng quái gở, cứ như là tiếng quỷ khóc vang vọng lại từ cõi u minh.
Cứ như vậy, chúng tôi vừa đi vừa gọi, tìm được đủ ba tiếng đồng hồ thì cũng là lúc tiến vào rất sâu bên trong thành ma rồi. Chiếu đèn pin ra khắp bốn phía núi đá, mắt cũng hoa hết cả lên, mồm cũng đã kêu gọi đến mỏi cả rồi. Thế nhưng vẫn chẳng thấy bóng dáng nhóm người anh Caucasus đâu, cũng không có bất kỳ tiếng trả lời nào. Đáp lại tiếng gọi của chúng tôi chỉ có tiếng vọng của chính chúng tôi cùng với tiếng gió thổi hiu hiu.
Chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi. A Ninh hỏi Trát Tây, dựa vào kinh nghiệm của cậu ta, phải tìm kiếm bằng cách nào mới tốt nhất đây?
Trát Tây lắc đầu: “Cũng chỉ có mỗi cách như mấy người vẫn làm đây thôi. Chúng ta bây giờ đi được khoảng bảy ki lô mét, nếu là tính theo đường thẳng thì là một quãng đường rất dài rồi. Thế nhưng thực ra chúng ta đã vô thức đi vòng vèo từ lâu, nhìn la bàn xem, bây giờ chúng ta đang đi theo hướng vòng về đấy. Con người ở nơi này cũng giống như con kiến, sẽ vô thức mà đi theo hình chữ S. Vì thế mới nói, bây giờ tôi chỉ có thể bảo đảm đưa mọi người ra ngoài thôi, việc tìm người tôi không có cách nào cả… Mấy người đó ngồi im một chỗ thì còn tốt, chứ bọn họ mà cũng đang mò mẫm tìm đường, vậy, cô nói xem, xác suất để hai nhóm người gặp được nhau trong một mê cung rộng tám mươi ki lô mét vuông là bao nhiêu?”
A Ninh không hài lòng với câu trả lời này, cau mày nói: “Mấy người các cậu trước đây không có ai từng bị lạc đường à?”
Trát Tây đang đắp một đống đá, không ngẩng đầu lên mà lắc đầu nói: “Chúng tôi không vào trong nơi này vào buổi tối.”
Nói rồi cậu ta thở dài, không biết là có ý gì.
A Ninh nhìn vẻ mặt của mấy chúng tôi, cổ vũ vài câu, nói chúng tôi không nên nản chí. Chẳng qua hiển nhiên là không có tác dụng cho lắm. Chúng tôi rút ra mấy điếu thuốc, xốc lại tinh thần, tiếp tục bước đi.
Thế nhưng vẫn chẳng có tiến triển gì như chúng tôi kỳ vọng. Lại vừa kêu gọi vừa bước đi, cũng không biết là đã đi bao lâu rồi nữa, trong lúc đó đã dừng lại nghỉ ngơi dược bốn lần, Trát Tây đã đắp được không dưới ba mươi đống đá rồi, nhưng ngay cả một bóng người vẫn không thấy, cũng không có bất kỳ tiếng đáp lại nào. Dường như bên trong tòa thành ma vắng vẻ này đã nuốt chửng hết tất cả mọi tiếng gọi của chúng tôi.
Mà điều khiến tôi cảm thấy đáng sợ rõ ràng là, trước giờ đi mãi mà chúng tôi chưa từng đụng phải bất kỳ đống đá nào của Trát Tây, chứng tỏ chúng tôi vẫn còn đang tiến về phía trước. Tòa thành ma này thật sự là thâm sâu không thể lường được, không biết bên trong này còn có bao nhiêu chặng đường nữa đây.
Tiếp tục tiến bước, chúng tôi đi vào trong một hẻm núi kẹp giữa hai ngọn núi đá. Đến dưới chân một tảng đá lớn, thật sự là không thể đi tiếp nổi nữa, đành phải dừng lại nghỉ ngơi lần thứ sáu.
Lúc này chúng tôi đều đã khản giọng hết cả, không thể gọi to được nữa. Chúng tôi ừng ực uống từng ngụm nước lớn, tất cả mọi người đều mất giọng, đầu óc có chút trống rỗng.
Im lặng một lúc lâu, ông bác sĩ kia bỗng nói: “Có khi nào tòa thành ma này thật sự có ma quỷ chăng? Bọn họ đã bị ma quỷ bắt đi mất rồi?”
Lời này thốt ra rất đột ngột, chúng tôi đều sửng sốt một hồi. Trát Tây lườm ông ta một cái, bảo ông ta chớ có nói nhảm. Người Tạng tương đối truyền thống, nghe những lời như thế này cảm thấy khá khó chịu.
“Ma quỷ thì chắc chắn không có, người cũng chắc chắn là ở trong này.” Một lúc sau, Trát Tây uống một ngụm nước cho nhuận giọng, vừa từ tốn nói: “Chỉ là không biết tình huống bây giờ là như thế nào thôi.”
Mọi người lại im lặng, mỗi người đều có suy nghĩ của riêng mình. Trên thực tế, tôi biết bây giờ hy vọng trong lòng chúng tôi đều rất mong manh, lúc vừa mới vào đây, tôi còn ngỡ xác suất tìm được bọn họ rất lớn, chí ít thì cũng phải tìm thấy được chút ít dấu vết nào đó. Thế nhưng bây giờ, hoàn toàn chẳng có cách gì cả.
Nghỉ ngơi một hồi lâu, A Ninh nhìn đồng hồ đeo tay một cái rồi đứng lên, kêu chúng tôi chuẩn bị tiếp tục xuất phát. Chúng tôi đều theo phản xạ có điều kiện mà đứng lên, hít một hơi thật sâu, chuẩn bị xốc lại tinh thần, tiếp tục hò hét.
Vào đúng lúc đó, mấy người bọn tôi nghe thấy từ trong bộ đàm của A Ninh vang lên một tiếng người la hét. Tiếng tĩnh điện vô cùng lớn, rất chói tai, không nghe rõ là đang nói cái gì.
Bốn bề vốn im lặng như tờ, đột nhiên lại nảy ra cái tiếng động này làm chúng tôi sợ hết hồn, lập tức quay sang nhìn bộ đàm của A Ninh.
A Ninh cũng ngẩn người ra, vài giây sau mới phản ứng lại đứng, vội vàng cầm lấy bộ đàm đưa lên nghe cho kỹ.
Tiếng động kia lại một lần nữa vang lên, tiếng tĩnh điện rất chói tai, nhưng có thể nghe rõ là tiếng gọi của một người.
“Bọn họ ở ngay gần đây!” Chúng tôi kinh ngạc kêu lên. A Ninh gần như nhảy dựng cả lên.
Với địa hình của thành ma, bộ đàm hầu như không có tác dụng gì mấy, chỉ khi ở trong một khoảng cách rất gần mới có thể thu được tín hiệu. Suốt dọc đường A Ninh đều điều chỉnh thử bộ đàm xem có thu được tín hiệu gì không, nhưng không có kết quả gì, giờ đây tín hiệu đột nhiên là vang lên, hiển nhiên là bộ đàm của đối phương đang ở rất gần đây.
Chúng tôi âm thầm thở phào một cái. A Ninh lập tức bắt đầu xoay vặn điều chỉnh tần số, giọng nói kia mới bắt đầu rõ ràng hơn, thế nhưng vẫn không nghe ra được là đang nói cái gì. Sau đó, cô ta kêu to vào bộ đàm: “Tôi là đội trưởng, chúng tôi đang đến tìm các anh, các anh đang ở hướng nào?”
Đáp lại là một chuỗi âm thanh liên tiếp khó mà diễn tả được, tiếng nhiễu sóng rất nhiều, nhưng ngữ điệu có thay đổi, rõ ràng là đối phương đã nghe được tiếng gọi của chúng tôi.
Những uể oải vừa rồi liền bị quét sạch, ông bác sĩ hét to một tiếng “Yes!”. Tôi cũng lấy bộ đàm của mình ra, vỗ vỗ, điều chỉnh một chút, nhìn xem máy móc có vấn đề gì không. Rất nhanh sau đó tôi cũng nghe được âm thanh nọ, cũng vẫn là tiếng ầm ĩ xì xèo như vậy.
A Ninh lại gọi một lần nữa, lúc này đây, âm thanh nọ mới rõ ràng hơn một chút. Mấy người chúng tôi vẫn cố gắng lắng nghe, hy vọng có thể nghe thấy rõ đối phương đang nói cái gì.
Nghe một hồi, tôi liền phát hiện ra có gì đó không ổn. Người bên kia bộ đàm hình như không phải là đang nói chuyện. Cái ngữ điệu giọng nói này vô cùng kỳ quái, rất khó hình dung, nghe thật kỹ thì thấy hình như là tiếng một người đang cười khẩy một cách đầy oán độc.
—
(*) người A rập cổ đại khi đi lại trong sa mạc thì dùng những đống đá này thay cho biển chỉ đường, để cho người đi sau khi đi sâu vào sa mạc hay khu vực thành ma không bị lạc đường.
/502
|