Quán trà này lúc tôi bước vào thấy vô cùng xa lạ, nhưng đi lên lầu lại thấy trong trí nhớ của tôi hiện ra chút ấn tượng, trước đây hình như là tôi từng được tới đây vài lần, hơn nữa đều là đi cùng Chú Ba và những tay chân dưới trướng của chú. Có điều là khi đó tôi còn rất nhỏ, chỉ nhớ mang máng là trong phòng này lúc nào cũng đầy mùi thuốc lá, người lớn trong phòng chơi mạt chược cười nói ầm ầm, tôi là được bố đưa theo, còn được cho tiền mừng tuổi để mua quà nữa.
Có đánh chết tôi cũng không ngờ là, vẫn tại nơi này, vẫn những người đó, tôi lại phải đối mặt với quá khứ một lần nữa.
Lầu hai của quán trà có một hành lang, hai bên đều là phòng, nhưng khác với khách sạn Tân Nguyệt trước kia chúng tôi từng đại náo, bên trong trang trí không đẹp bằng, có rất nhiều vách ngăn chỉ làm bằng thanh trúc, quét không biết bao nhiêu lần sơn khiến cho màu của nó nhìn như bị bôi dầu lên vậy, màu vàng khô hóa ra trắng bệch. Bước tới gần rèm đã ngửi thấy một mùi thuốc lá, cũng không biết bao nhiêu năm rồi không được thay đi, mùi thuốc lá năm xưa vẫn không hết được.
Phan Tử đi trước, dẫn chúng tôi đi tới phòng cuối dãy hành lang, vén rèm lên, đoàn người chúng tôi cùng bước vào trong. Không gian rất rộng rãi, nhưng chỉ có một cái bàn gỗ lim đặt ngăn nắp ở giữa phòng, hai bên bày sáu chiếc ghế bàn long đệm lụa, đằng sau là cửa sổ, có thể nhìn xuống cảnh tượng bên dưới lầu. Tôi liếc mắt một cái, xem nếu như bị lộ có thể nhảy từ đây xuống bỏ trốn được không.
Nhưng nhìn xuống một lát, lòng tôi lập tức băng lạnh. Bên dưới ồn ào nhộn nhạo biết bao nhiêu con người, đều là thủ hạ trong địa bàn nghe tiếng mà tới đây, hai bên đường đậu đầy những xe, xe hiệu gì cũng có, ai không biết còn tưởng nơi này đang bán vé tàu tết , nhảy xuống dự là chạy kiểu gì cũng không ra được.
Trên bàn gỗ lim bày một bộ ấm chén, Tiểu Hoa bước lên trước gạt năm chiếc ghế khác ra, chỉ để lại một cái mời tôi ngồi, năm chiếc ghế còn lại hắn kéo sát vào tường, Phan Tử ngồi xuống một chiếc, bắt đầu châm thuốc hút. Tôi thấy tay anh ấy hơi run, trong lòng có chút cuống, không biết anh ấy có chịu được nổi không nữa. Tôi không dám hỏi, chỉ làm bộ vuốt mặt bàn, kiểu như đang hoài niệm cùng dáng vẻ đăm chiêu.
Hoắc Tú Tú bên cạnh bắt đầu biểu diễn nghệ thuật pha trà nhằm kéo dài thời gian cho tôi, phương pháp pha trà của cô ấy cũng thực độc đáo, tay đưa lên rút trâm cài tóc, rồi dùng nước ngâm trà rừa qua trâm, sau đó lại dùng trâm đó để khuấy lá trà.
Tôi nhìn động tác của cô áy, vừa cầu cho là sáng nay cô ấy đã gội sạch đầu, vừa phát hiện trâm gài tóc kia cũng có điểm rất lạ, nó như là một loại phỉ thúy sáng màu, lại vừa giống một mẩu xương, bên trên khắc hoa văn cực tỉ mỉ, chắc hẳn nó cũng có lai lịch không vừa.
Nước trà ngon, tôi ngửi ra mùi bích loan xuân trong đó, đồng thời lại cảm giác được có một mùi rất quen thuộc nhưng nghĩ mãi không ra quện với nó. Uống một ngụm, hương vị tuyệt vô cùng, có cảm giác tập trung tư tưởng.
Tôi vừa bị cảnh tượng trước cửa quán làm cho hốt hoảng, vừa rồi trải qua hết thảy thực ra nó khiến tôi rơi vào trạng thái ngây ngẩn cả người. Tuy rằng là nhịp tim đập không quá nhanh, người cũng không tới mức quá căng thẳng, nhưng tất cả mọi cảm xúc đều như bị đình trệ, mãi cho tới khi nhấp một ngụm trà xong, bao nhiêu cảm giác mơ hồ đó mới được khống chế. Trong đầu tôi bắt đầu rõ ràng lên, tâm tư cũng dần căng thẳng.
Cùng lúc chúng tôi tiến vào, bên ngoài cũng có một nhóm người đi theo, nhưng bọn họ không đứng ngoài rèm cửa kia mà đi thẳng vào trong một phòng khác. Tôi không nghe thấy tiếng bọn họ nói chuyện, dường như tất cả mọi người ở đây đều đang đợi một cái gì đó.
Có lẽ là thấy nét mặt tôi không được bình thường, Tiểu Hoa khoát tay ra hiệu tôi đừng nóng vội, chính hắn lại đang nói nhỏ gì với mấy tên thủ hạ, tới lúc quan trọng, cơ bản chỉ có thể ra hiệu, ngay cả miệng cũng không được mấp máy.
Tôi chỉ biết kiên nhẫn chờ đợi, hít sâu vài hơi ổn định tinh thần. Tú Tú kéo tay tôi tỏ vẻ an ủi, lòng tôi lại càng thêm lo âu, nếu Tú Tú nhìn ra được tôi đang bất an vậy hẳn những người kia cũng sẽ nhìn ra, có thể tôi không thể khống chế được lo lắng của bản thân.
Vất vả lắm Tiểu Hoa với thủ hạ mới nói xong câu chuyện, hắn lúc này quay sang để ý tôi, buông rèm xuống rồi bước về phía sau tôi. Cả phòng liền tối đi. Hắn cúi người, nói nhỏ vào tai tôi:” con rùa đen họ Khâu kia không tới, xem ra sự tình có biến, áp dụng biện pháp lấy lui làm tiến, có điều bên ngoài hẳn vẫn còn tai mắt của hắn, thấy tình huống bất hợp lý là hắn sẽ dẫn người xuất hiện, người bên ngoài kia thấy hắn không dám tới cũng đang rục rịch, tình huống này bất lợi cho chúng ta, tôi thấy sẽ phải chuẩn bị hạ sát thủ.”
“Vậy…” tôi đang định hỏi hắn. Hắn lập tức ra hiệu đừng nói chuyện, lại rút điện thoại di động ra cho tôi xem.
Tôi thấy trên màn hình điện thoại của hắn có một tin nhắn chưa gửi đi, hắn dùng cách này để thông báo, trên đó viết: phòng bên cạnh có ba người lỗ tai rất thính, nói thầm cũng không dùng được. Nửa câu trước là thật, nửa câu sau là tôi nói cho bọn họ nghe. Cậu chỉ cần diễn vai của mình, những việc khác cứ để chúng tôi giải quyết.
Tôi gật đầu, hắn lập tức xóa những chữ trên màn hình, tốc độ ngón tay cực nhanh, tiếp theo hắn nháy mắt ra hiệu cho Phan Tử.
Phan Tử mặt tái nhợt nhưng vẫn gật đầu, chợt nghe anh ấy cất giọng hô to:
“Các vị, Tam Gia mời giao hàng.”
Vừa dứt lời, trong phòng ngách bên cạnh cũng vang lên những tiếng dịch chuyển ghế, tiếp đó là một mớ âm thanh hỗn độn. Lát sau, liền thấy rèm được vén lên, một tên đầu trâu mặt ngựa bước vào, rất nhanh sau đó trong căn phòng nhỏ này liền đứng đông kín người.
Trong lúc hỗn loạn, tôi chỉ láng máng có chút ấn tượng với bọn họ, trước giờ lòng tôi vẫn luôn tồn tại một dự cảm sai lầm, đó là hình dung về tên lão đại có phải là kẻ nhìn hung ác nhất trong những người kia. Quan sát thật kỹ, nào là cao thấp gầy béo rồi cả những tên còn rất trẻ, nhưng tất cả bọn chúng đều vô cùng bình thường, phải nói là rất bình thường.
Có những người tuổi đã cao quả thực tôi có phần quen mặt, nhưng cũng có những người tuổi còn rất trẻ. Tổng thể mà nói những người này cho dù có cố gắng nhớ tới đâu cũng là chuyện tương đối khó. Tôi nhớ tới Chú Ba từng nói với mình, rằng trong chuyện tuyển chọn người, dáng vẻ oai qua liệt tảo (hùng hổ, oai vệ) chỉ cần nhìn một cái mà cả đời quên không được cũng chẳng liên quan, nhưng một khi đã chọn người đứng trong hàng ngũ tay sai thì tốt nhất nên chọn người mà ở đâu cũng có thể nhìn thấy. Lấy đồ trong tay người chết thì dễ, còn muốn moi được tiền trong tay kẻ sống là khó khăn nhất.
Thủ hạ của Tiểu Hoa mang bốn cái ghế bên cạnh Phan Tử tới, chuẩn bị cho bốn người đứng đầu trong địa bàn ngồi. Hệ thống tổ chức của Chú Ba vô cùng rõ ràng, tại đây nhất thiết phải giới thiệu qua một chút.
Ở Trường Sa tồn tại một hệ thống phi tang minh khí từ rất lâu rồi, dường như hệ thống này được xác định từ cuối thời dân quốc. Vì sao lại nói như vậy? Ngược dòng lịch sử, có thể khẳng định từng tồn tại những hệ thống giống như vậy trước đây, nhưng lịch sử luôn không ngừng vận động, các hệ thống trong sự xáo trộn đó đều lần lượt bị phá hủy, chúng tôi cũng không biết chúng chuyển thành kiểu gì nữa, nhưng hệ thống đó ngày nay, cũng là được truyền thừa từ thời dân quốc.
Mua bán đồ cổ được chia làm sưu tầm trong nước và tuồn ra nước ngoài hay còn gọi là buôn lậu. Tục ngữ có câu “thịnh thế cổ đồng” (thời đại hoàng kim của đồ cổ), là chỉ có ở trong cảnh thái bình thịnh trị mới có người dốc lòng mà sưu tầm đồ cổ, nhưng câu châm ngôn này cũng chỉ nói phiến diện, nó chỉ có hiệu quả trong thời bế quan tỏa càng mà thôi. (không giao thương với nước ngoài)
Đầu nhà Khang là một thời kỳ hưng thịnh, nhưng sang tới triều Thanh lại cho bế quan tỏa cảng. Thuận Trị năm thứ mười hai (1655) cấm biển tới năm Khang Hi thứ mười ba (1684) mới gỡ bỏ, Khang Hi đời thứ mười sáu (1717) lại cho cấm tiếp, sau đó không lâu sau thì cũng xóa bỏ lệnh cấm đó, nhưng vẫn khống chế vận chuyển đường biển vô cùng nghiêm ngặt. Trong thời gian đó, “thịnh thế cổ đồng” được nhắc đến ít nhiều, nhưng vì cấm biển, áp chế bằng trọng hình (hình phạt nặng), tình hình hoạt động trộm mộ không được lộ liễu lắm.
Duy chỉ sau thời dân quốc một thời gian, thứ nhất là do nhu cầu ở hải ngoại. Thứ hai là cửa khẩu trong nước xóa bỏ cẩm vận. Chính phủ thân mình chưa lo xong, vì vậy lịch sử đạo mộ thời kỳ cận đại bước lên đỉnh cao chói lọi.
Thị trường lớn, lại không người quản lý, sự việc càng lúc càng trở lên phô trương.
Lúc đó hình thành thế hệ buôn lậu đầu tiên. Ngọn nguồn của buôn lậu chính là trộm mộ tặc, sau này là “con buôn”, những con buôn này đều làm nghề buôn đồ cổ, lấy hàng từ trong tay trộm mộ tặc, mang tới hai thành phố lớn là Bắc Bình và Thượng Hải để tiêu thụ, đặc biệt là Bắc Bình. Nhưng vào thởi điểm đó, phần lớn hàng tốt đều tuồn ra nước ngoài.
Về sau Tân Hoa Xã thành lập (Trung Hoa dân quốc), hải quan kiểm duyệt càng lúc càng gắt gao, buôn lậu nước ngoài dần dần giảm bớt, nhưng hệ thống đã được ra đời. Ông nội tôi là cũng là một trong số những người trưởng thành trong những năm đó, bọn họ thành công duy trì tới tận khi cải cách mở cửa, cho nên hệ thống đó vẫn tiếp tục được sử dụng. Từ khi “văn bản sửa đổi” chấm dứt, ở biên giới phía Nam Trung Quốc và trên biển buôn lậu bắt đầu hoạt động trở lại. Sau mấy năm trữ hàng, sưu tầm được rất nhiều đồ cổ lại bắt đầu tìm kiếm mối hàng xuất khẩu, Chú Ba lợi dụng thế hệ trước của hệ thống bắt đầu tiến hành trọng thao cựu nghiệp (chuyên tâm vận dụng nghề cũ) mà trở thành một trong những người phát triển hệ thống đó.
Đương nhiên là hiện tại những tay trùm thu thập đồ cổ trong nước đã trở thành đối thủ thương buôn hải ngoại, đây cũng nguyên nhân biến nơi đây thành thị trường đồ cổ sầm uất nhất.
Như vậy có có thể hiểu được Chú Ba ở Trường Sa, Hàng Châu cùng với sản nghiệp của Hoắc gia và Tiểu Hoa ở Bắc Kinh liên quan mật thiết tới nhau, còn thêm cả Giải gia và Ngô gia lại là quan hệ thông gia sâu xa.
Nhìn từ cấu trúc cơ bản thì địa bàn Chú Ba sở hữu ở Trường Sa, chủ yếu phụ trách hai mảng, một là nhập hàng, và một là tiêu thụ hàng.
Địa bàn lấy hàng, chúng tôi gọi với cái tên là “bàn lạt ma”, địa bàn tiêu thụ gọi là ” mã bàn”.
Phương thức hoạt động của hệ thống này là như sau:
Người như Chú Ba được gọi là “thiết khoái tử” (đũa sắt), là người đóng vai trò mắt xích trong bộ máy sản xuất, bọn họ độc quyền nguồn tài nguyên tốt nhất, bao gồm cả tin tức về cổ mộ, kiến thức do thám cổ mộ và giám định đồ cổ.
Chính những “thiếu khoái tử” này là người nắm giữ vị trí cổ mộ cùng tin tức về triều đại, giao cho “lạt ma bàn” (địa bàn lấy hàng) bên dưới, chính họ sẽ tổ chức gắp lạt ma. Lúc này “thiết khoái tử” sẽ gặp một người gọi là “khoái tử đầu” (cứ coi như là đũa cả đi ), mang những tin tức này, dẫn “lạt ma bàn” trong nhóm người người gắp lạt ma, cùng đi lấy hàng. Phan Tử chính là thủ hạ nổi danh “khoái tử đầu” của Chú Ba.
Đồng thời, lạt ma bàn sẽ móc nối với “mã bàn”, họ đã sớm chờ ở bên ngoài, chỉ cần không bị bắt tại trận, người bị hại chỉ có “mã bàn”, “thiết khoái tử” và “lạt ma bàn” không chịu bất cứ liên lụy nào. Hoạt động trộm mộ liên tiếp bị cấm không chỉ vì như vậy. Mà đối với “thiết khoái tử” và “lạt ma bàn” mà nói thì loại người như “mã bàn” muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, chết mấy người cũng không thành vấn đề.
Số lượng “mã bàn” tiêu thụ hàng cấm của Chú Ba rất đông đảo, bước vào trong gian phòng này, chẳng qua chỉ là những tên trùm sỏ nhất. Điều khiến Chú Ba phải kiêng rè, chính là bốn tên đầu lĩnh “lạt ma bàn”, mà người hôm nay ngồi trên ghế kia cũng chính là bốn kẻ đó.
Có đánh chết tôi cũng không ngờ là, vẫn tại nơi này, vẫn những người đó, tôi lại phải đối mặt với quá khứ một lần nữa.
Lầu hai của quán trà có một hành lang, hai bên đều là phòng, nhưng khác với khách sạn Tân Nguyệt trước kia chúng tôi từng đại náo, bên trong trang trí không đẹp bằng, có rất nhiều vách ngăn chỉ làm bằng thanh trúc, quét không biết bao nhiêu lần sơn khiến cho màu của nó nhìn như bị bôi dầu lên vậy, màu vàng khô hóa ra trắng bệch. Bước tới gần rèm đã ngửi thấy một mùi thuốc lá, cũng không biết bao nhiêu năm rồi không được thay đi, mùi thuốc lá năm xưa vẫn không hết được.
Phan Tử đi trước, dẫn chúng tôi đi tới phòng cuối dãy hành lang, vén rèm lên, đoàn người chúng tôi cùng bước vào trong. Không gian rất rộng rãi, nhưng chỉ có một cái bàn gỗ lim đặt ngăn nắp ở giữa phòng, hai bên bày sáu chiếc ghế bàn long đệm lụa, đằng sau là cửa sổ, có thể nhìn xuống cảnh tượng bên dưới lầu. Tôi liếc mắt một cái, xem nếu như bị lộ có thể nhảy từ đây xuống bỏ trốn được không.
Nhưng nhìn xuống một lát, lòng tôi lập tức băng lạnh. Bên dưới ồn ào nhộn nhạo biết bao nhiêu con người, đều là thủ hạ trong địa bàn nghe tiếng mà tới đây, hai bên đường đậu đầy những xe, xe hiệu gì cũng có, ai không biết còn tưởng nơi này đang bán vé tàu tết , nhảy xuống dự là chạy kiểu gì cũng không ra được.
Trên bàn gỗ lim bày một bộ ấm chén, Tiểu Hoa bước lên trước gạt năm chiếc ghế khác ra, chỉ để lại một cái mời tôi ngồi, năm chiếc ghế còn lại hắn kéo sát vào tường, Phan Tử ngồi xuống một chiếc, bắt đầu châm thuốc hút. Tôi thấy tay anh ấy hơi run, trong lòng có chút cuống, không biết anh ấy có chịu được nổi không nữa. Tôi không dám hỏi, chỉ làm bộ vuốt mặt bàn, kiểu như đang hoài niệm cùng dáng vẻ đăm chiêu.
Hoắc Tú Tú bên cạnh bắt đầu biểu diễn nghệ thuật pha trà nhằm kéo dài thời gian cho tôi, phương pháp pha trà của cô ấy cũng thực độc đáo, tay đưa lên rút trâm cài tóc, rồi dùng nước ngâm trà rừa qua trâm, sau đó lại dùng trâm đó để khuấy lá trà.
Tôi nhìn động tác của cô áy, vừa cầu cho là sáng nay cô ấy đã gội sạch đầu, vừa phát hiện trâm gài tóc kia cũng có điểm rất lạ, nó như là một loại phỉ thúy sáng màu, lại vừa giống một mẩu xương, bên trên khắc hoa văn cực tỉ mỉ, chắc hẳn nó cũng có lai lịch không vừa.
Nước trà ngon, tôi ngửi ra mùi bích loan xuân trong đó, đồng thời lại cảm giác được có một mùi rất quen thuộc nhưng nghĩ mãi không ra quện với nó. Uống một ngụm, hương vị tuyệt vô cùng, có cảm giác tập trung tư tưởng.
Tôi vừa bị cảnh tượng trước cửa quán làm cho hốt hoảng, vừa rồi trải qua hết thảy thực ra nó khiến tôi rơi vào trạng thái ngây ngẩn cả người. Tuy rằng là nhịp tim đập không quá nhanh, người cũng không tới mức quá căng thẳng, nhưng tất cả mọi cảm xúc đều như bị đình trệ, mãi cho tới khi nhấp một ngụm trà xong, bao nhiêu cảm giác mơ hồ đó mới được khống chế. Trong đầu tôi bắt đầu rõ ràng lên, tâm tư cũng dần căng thẳng.
Cùng lúc chúng tôi tiến vào, bên ngoài cũng có một nhóm người đi theo, nhưng bọn họ không đứng ngoài rèm cửa kia mà đi thẳng vào trong một phòng khác. Tôi không nghe thấy tiếng bọn họ nói chuyện, dường như tất cả mọi người ở đây đều đang đợi một cái gì đó.
Có lẽ là thấy nét mặt tôi không được bình thường, Tiểu Hoa khoát tay ra hiệu tôi đừng nóng vội, chính hắn lại đang nói nhỏ gì với mấy tên thủ hạ, tới lúc quan trọng, cơ bản chỉ có thể ra hiệu, ngay cả miệng cũng không được mấp máy.
Tôi chỉ biết kiên nhẫn chờ đợi, hít sâu vài hơi ổn định tinh thần. Tú Tú kéo tay tôi tỏ vẻ an ủi, lòng tôi lại càng thêm lo âu, nếu Tú Tú nhìn ra được tôi đang bất an vậy hẳn những người kia cũng sẽ nhìn ra, có thể tôi không thể khống chế được lo lắng của bản thân.
Vất vả lắm Tiểu Hoa với thủ hạ mới nói xong câu chuyện, hắn lúc này quay sang để ý tôi, buông rèm xuống rồi bước về phía sau tôi. Cả phòng liền tối đi. Hắn cúi người, nói nhỏ vào tai tôi:” con rùa đen họ Khâu kia không tới, xem ra sự tình có biến, áp dụng biện pháp lấy lui làm tiến, có điều bên ngoài hẳn vẫn còn tai mắt của hắn, thấy tình huống bất hợp lý là hắn sẽ dẫn người xuất hiện, người bên ngoài kia thấy hắn không dám tới cũng đang rục rịch, tình huống này bất lợi cho chúng ta, tôi thấy sẽ phải chuẩn bị hạ sát thủ.”
“Vậy…” tôi đang định hỏi hắn. Hắn lập tức ra hiệu đừng nói chuyện, lại rút điện thoại di động ra cho tôi xem.
Tôi thấy trên màn hình điện thoại của hắn có một tin nhắn chưa gửi đi, hắn dùng cách này để thông báo, trên đó viết: phòng bên cạnh có ba người lỗ tai rất thính, nói thầm cũng không dùng được. Nửa câu trước là thật, nửa câu sau là tôi nói cho bọn họ nghe. Cậu chỉ cần diễn vai của mình, những việc khác cứ để chúng tôi giải quyết.
Tôi gật đầu, hắn lập tức xóa những chữ trên màn hình, tốc độ ngón tay cực nhanh, tiếp theo hắn nháy mắt ra hiệu cho Phan Tử.
Phan Tử mặt tái nhợt nhưng vẫn gật đầu, chợt nghe anh ấy cất giọng hô to:
“Các vị, Tam Gia mời giao hàng.”
Vừa dứt lời, trong phòng ngách bên cạnh cũng vang lên những tiếng dịch chuyển ghế, tiếp đó là một mớ âm thanh hỗn độn. Lát sau, liền thấy rèm được vén lên, một tên đầu trâu mặt ngựa bước vào, rất nhanh sau đó trong căn phòng nhỏ này liền đứng đông kín người.
Trong lúc hỗn loạn, tôi chỉ láng máng có chút ấn tượng với bọn họ, trước giờ lòng tôi vẫn luôn tồn tại một dự cảm sai lầm, đó là hình dung về tên lão đại có phải là kẻ nhìn hung ác nhất trong những người kia. Quan sát thật kỹ, nào là cao thấp gầy béo rồi cả những tên còn rất trẻ, nhưng tất cả bọn chúng đều vô cùng bình thường, phải nói là rất bình thường.
Có những người tuổi đã cao quả thực tôi có phần quen mặt, nhưng cũng có những người tuổi còn rất trẻ. Tổng thể mà nói những người này cho dù có cố gắng nhớ tới đâu cũng là chuyện tương đối khó. Tôi nhớ tới Chú Ba từng nói với mình, rằng trong chuyện tuyển chọn người, dáng vẻ oai qua liệt tảo (hùng hổ, oai vệ) chỉ cần nhìn một cái mà cả đời quên không được cũng chẳng liên quan, nhưng một khi đã chọn người đứng trong hàng ngũ tay sai thì tốt nhất nên chọn người mà ở đâu cũng có thể nhìn thấy. Lấy đồ trong tay người chết thì dễ, còn muốn moi được tiền trong tay kẻ sống là khó khăn nhất.
Thủ hạ của Tiểu Hoa mang bốn cái ghế bên cạnh Phan Tử tới, chuẩn bị cho bốn người đứng đầu trong địa bàn ngồi. Hệ thống tổ chức của Chú Ba vô cùng rõ ràng, tại đây nhất thiết phải giới thiệu qua một chút.
Ở Trường Sa tồn tại một hệ thống phi tang minh khí từ rất lâu rồi, dường như hệ thống này được xác định từ cuối thời dân quốc. Vì sao lại nói như vậy? Ngược dòng lịch sử, có thể khẳng định từng tồn tại những hệ thống giống như vậy trước đây, nhưng lịch sử luôn không ngừng vận động, các hệ thống trong sự xáo trộn đó đều lần lượt bị phá hủy, chúng tôi cũng không biết chúng chuyển thành kiểu gì nữa, nhưng hệ thống đó ngày nay, cũng là được truyền thừa từ thời dân quốc.
Mua bán đồ cổ được chia làm sưu tầm trong nước và tuồn ra nước ngoài hay còn gọi là buôn lậu. Tục ngữ có câu “thịnh thế cổ đồng” (thời đại hoàng kim của đồ cổ), là chỉ có ở trong cảnh thái bình thịnh trị mới có người dốc lòng mà sưu tầm đồ cổ, nhưng câu châm ngôn này cũng chỉ nói phiến diện, nó chỉ có hiệu quả trong thời bế quan tỏa càng mà thôi. (không giao thương với nước ngoài)
Đầu nhà Khang là một thời kỳ hưng thịnh, nhưng sang tới triều Thanh lại cho bế quan tỏa cảng. Thuận Trị năm thứ mười hai (1655) cấm biển tới năm Khang Hi thứ mười ba (1684) mới gỡ bỏ, Khang Hi đời thứ mười sáu (1717) lại cho cấm tiếp, sau đó không lâu sau thì cũng xóa bỏ lệnh cấm đó, nhưng vẫn khống chế vận chuyển đường biển vô cùng nghiêm ngặt. Trong thời gian đó, “thịnh thế cổ đồng” được nhắc đến ít nhiều, nhưng vì cấm biển, áp chế bằng trọng hình (hình phạt nặng), tình hình hoạt động trộm mộ không được lộ liễu lắm.
Duy chỉ sau thời dân quốc một thời gian, thứ nhất là do nhu cầu ở hải ngoại. Thứ hai là cửa khẩu trong nước xóa bỏ cẩm vận. Chính phủ thân mình chưa lo xong, vì vậy lịch sử đạo mộ thời kỳ cận đại bước lên đỉnh cao chói lọi.
Thị trường lớn, lại không người quản lý, sự việc càng lúc càng trở lên phô trương.
Lúc đó hình thành thế hệ buôn lậu đầu tiên. Ngọn nguồn của buôn lậu chính là trộm mộ tặc, sau này là “con buôn”, những con buôn này đều làm nghề buôn đồ cổ, lấy hàng từ trong tay trộm mộ tặc, mang tới hai thành phố lớn là Bắc Bình và Thượng Hải để tiêu thụ, đặc biệt là Bắc Bình. Nhưng vào thởi điểm đó, phần lớn hàng tốt đều tuồn ra nước ngoài.
Về sau Tân Hoa Xã thành lập (Trung Hoa dân quốc), hải quan kiểm duyệt càng lúc càng gắt gao, buôn lậu nước ngoài dần dần giảm bớt, nhưng hệ thống đã được ra đời. Ông nội tôi là cũng là một trong số những người trưởng thành trong những năm đó, bọn họ thành công duy trì tới tận khi cải cách mở cửa, cho nên hệ thống đó vẫn tiếp tục được sử dụng. Từ khi “văn bản sửa đổi” chấm dứt, ở biên giới phía Nam Trung Quốc và trên biển buôn lậu bắt đầu hoạt động trở lại. Sau mấy năm trữ hàng, sưu tầm được rất nhiều đồ cổ lại bắt đầu tìm kiếm mối hàng xuất khẩu, Chú Ba lợi dụng thế hệ trước của hệ thống bắt đầu tiến hành trọng thao cựu nghiệp (chuyên tâm vận dụng nghề cũ) mà trở thành một trong những người phát triển hệ thống đó.
Đương nhiên là hiện tại những tay trùm thu thập đồ cổ trong nước đã trở thành đối thủ thương buôn hải ngoại, đây cũng nguyên nhân biến nơi đây thành thị trường đồ cổ sầm uất nhất.
Như vậy có có thể hiểu được Chú Ba ở Trường Sa, Hàng Châu cùng với sản nghiệp của Hoắc gia và Tiểu Hoa ở Bắc Kinh liên quan mật thiết tới nhau, còn thêm cả Giải gia và Ngô gia lại là quan hệ thông gia sâu xa.
Nhìn từ cấu trúc cơ bản thì địa bàn Chú Ba sở hữu ở Trường Sa, chủ yếu phụ trách hai mảng, một là nhập hàng, và một là tiêu thụ hàng.
Địa bàn lấy hàng, chúng tôi gọi với cái tên là “bàn lạt ma”, địa bàn tiêu thụ gọi là ” mã bàn”.
Phương thức hoạt động của hệ thống này là như sau:
Người như Chú Ba được gọi là “thiết khoái tử” (đũa sắt), là người đóng vai trò mắt xích trong bộ máy sản xuất, bọn họ độc quyền nguồn tài nguyên tốt nhất, bao gồm cả tin tức về cổ mộ, kiến thức do thám cổ mộ và giám định đồ cổ.
Chính những “thiếu khoái tử” này là người nắm giữ vị trí cổ mộ cùng tin tức về triều đại, giao cho “lạt ma bàn” (địa bàn lấy hàng) bên dưới, chính họ sẽ tổ chức gắp lạt ma. Lúc này “thiết khoái tử” sẽ gặp một người gọi là “khoái tử đầu” (cứ coi như là đũa cả đi ), mang những tin tức này, dẫn “lạt ma bàn” trong nhóm người người gắp lạt ma, cùng đi lấy hàng. Phan Tử chính là thủ hạ nổi danh “khoái tử đầu” của Chú Ba.
Đồng thời, lạt ma bàn sẽ móc nối với “mã bàn”, họ đã sớm chờ ở bên ngoài, chỉ cần không bị bắt tại trận, người bị hại chỉ có “mã bàn”, “thiết khoái tử” và “lạt ma bàn” không chịu bất cứ liên lụy nào. Hoạt động trộm mộ liên tiếp bị cấm không chỉ vì như vậy. Mà đối với “thiết khoái tử” và “lạt ma bàn” mà nói thì loại người như “mã bàn” muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, chết mấy người cũng không thành vấn đề.
Số lượng “mã bàn” tiêu thụ hàng cấm của Chú Ba rất đông đảo, bước vào trong gian phòng này, chẳng qua chỉ là những tên trùm sỏ nhất. Điều khiến Chú Ba phải kiêng rè, chính là bốn tên đầu lĩnh “lạt ma bàn”, mà người hôm nay ngồi trên ghế kia cũng chính là bốn kẻ đó.
/502
|