“Người hiền dù ở phương xa,
Vẫn chăm lo cho người thân, bè bạn;
Mây mưa dẫu trôi mãi trên từng cao,
Vẫn giúp mùa màng bội thu.”
(Cách ngôn Sakya)
Hoàng hôn nhuộm đỏ cả không gian, ráng chiều len lỏi qua các ô cửa sổ cao vời vợi, đổ nắng vào căn phòng trống trải. Tôi mặc bộ y phục màu xanh nước biển, viền thêu hoa mai trắng, thắt lưng màu trắng đính kim tuyến lấp lánh, dây tóc màu lam, đứng trong phòng ngủ của Kháp Na, mân mê từng vật dụng thân thuộc của cậu ấy, lưu luyến mãi chẳng rời.
Bỗng có tiếng bước chân rộn rã ngoài hành lang, đoán định chỉ có một mình Bát Tư Ba nên tôi không làm phép ẩn mình. Cánh cửa bật mở, chàng ngó đầu vào bên trong tìm kiếm. Trông thấy tôi, chàng không khỏi kinh ngạc, vội lao đến:
- Kìa Lam Kha, sao em lại một mình trốn ở đây thế? Làm ta phải chạy khắp nơi tìm kiếm.
Tôi chậm rãi đặt gọn y phục của Kháp Na lên giướng, vuốt cho phẳng các nếp gấp rồi mới từ tốn ngẩng đầu nhìn chàng, cất giọng bình thản:
- Vì sao đêm đó không phải là chàng?
Chàng đang thở hổn hển, bỗng ngây ra như phỗng sau khi nghe câu hỏi của tôi. Tôi lại gần, đuổi theo ánh mắt của chàng, tiếp tục truy hỏi:
- Đêm đó, Khabi chỉ đưa một mình chàng đến căn nhà ấy, vậy thì vì sao sau đó lại đổi thành Kháp Na?
Thấy tôi sáp lại gần, chàng đột nhiên thức tỉnh, ánh mắt thoáng bối rối:
- Em… em… đã nghe chúng ta trò chuyện sao?
Tôi cười buồn, gật đầu:
- Tám ngày trước, sau khi từ biệt chàng, em đã tìm thấy Kháp Na trong đoàn đưa dâu, kể từ lúc ấy, em vẫn luôn ở bên cạnh Kháp Na nhưng không xuất đầu lộ diện.
Chàng cúi đầu, nói khẽ:
- Tối hôm ta và đệ ấy trò chuyện, em cũng có mặt ư?
- Em trốn trên xà ngang nên nghe được toàn bộ cuộc chuyện trò của hai người.
Tôi tập trung toàn bộ nhãn lực vào chàng để không cho phép mình bỏ sót bất cứ biểu cảm nào, dù là nhỏ nhất trên gương mặt chàng.
- Đêm hôm đó, rõ ràng chàng đã đến, nhưng vì sao lại đổi thành Kháp Na?
Chàng ngẩng đầu, lùi lại phía sau, giữ khoảng cách với tôi, lấy lại vẻ thản nhiên thường thấy, lạnh lùng đáp:
- Ba đời giáo chủ phái Sakya đều chưa từng thọ giới, chỉ có bác ta và ta là những người đầu tiên thọ giới Tỷ khâu. Em có biết, thọ giới Tỷ khâu có ý nghĩa thế nào đối với một nhà sư không? Nó có nghĩa là, người đó không còn là một thường dân coi việc tu tập Phật pháp là nhiệm vụ nữa mà phải thề nguyện tuân thủ hơn hai trăm giới luật của người tu hành. Sự trói buộc này thể hiện quyết tâm lớn lao của người theo đuổi con đường Phật đạo.
Tôi không ngăn nổi nỗi nghẹn ngào dâng trào:
- Khi phải lựa chọn giữa Phật Tổ và em, chàng đã chọn Phật Tổ.
Chàng hít một hơi thật sau, khẽ quay mặt đi:
- Vì ta đã thề nguyện trước Phật Tổ nên ta phải giữ trọn lời thề.
Nước mắt cứ thế tuôn rơi, tôi cố nén chặt nỗi run rẩy dâng lên trong từng câu nói:
- Vậy thì vì sao, trước đó chàng lại cho em hy vọng? Chàng khiến em nghĩ rằng… nghĩ rằng…
Tôi không sao nói tiếp được nữa, đành quay mặt đi, không để chàng nhìn thấy nước mắt như mưa xối trên gương mặt mình.
Rốt cuộc chàng cũng chịu nhìn thẳng vào mắt tôi, ánh mắt ẩn giấu nỗi niềm lưu luyến, cảm thương nhưng giọng nói thì kiên định, sỏi đá:
- Lam Kha, em rất đẹp, lại hiền thục, khiến cho bất cứ người đàn ông nào cũng phải rung động. Tuy ta tu tập đã lâu nhưng lòng trần còn nặng, khi phải đối diện với một thiếu nữ hoàn hảo như em, quả thật, đã có lúc ta không sao cưỡng lại nổi, trở nên u mê, thiếu sáng suốt.
Tôi khẽ rùng mình, bật cười chua chát:
- Chỉ là sự mê muội trong chốc lát thôi sao?
Trái tim tôi lạnh dần. Ánh mắt ấm áp, dịu dàng, lời nói ngọt ngào, mềm mại, những cử chỉ ân cần khiến tim tôi loạn nhịp ngày nào, thì ra chỉ là thoáng chốc u mê.
Chàng khép hờ đôi mắt, hàng mi dài khẽ rung động:
- Sắc giới vốn là thử thách lớn nhất nơi cửa Phật, ta cũng đã bị động lòng bởi những lời thuyết phục khéo léo của Kháp Na, thiếu chút nữa đã hủy hoại quyết tâm tu hành. Đêm đó, ta đã dằn vặt rất lâu nhưng xét đi xét lại, ta thấy mình không thể phá giới, càng không thể đánh đổi mười năm tuổi thọ!
Chàng càng nói càng xúc động, vội vã ngừng lại, hít thở nhiều lần để lấy lại bình tĩnh.
- Kháp Na nói rất đúng, ta phải giữ mạng sống của mình để làm nhiều việc khác. Ta phải gây dựng và phát triển Sakya trở thành giáo phái hùng mạnh nhất đất Tạng. Ta phải thực hiện di nguyện thống nhất đất Tạng của người bác. Trọng trách nặng nề trên vai buộc ta phải có lỗi với em.
Nỗi buồn ào ạt xô tới, tôi chết lặng trước bóng chiếc áo thầy tu màu đỏ sẫm trong ráng chiều nhạt nhòa ấy. Vẫn còn nguyên vẻ tuấn tú, hút hồn, phong tư tót vời ấy nhưng sao lại xa lạ đến thế? Tình cảm mà tôi đã khổ công vun đắp bao năm chỉ trong chốc lát đã đổ vỡ hoàn toàn trước Phật Tổ. Tôi chưa bao giờ thắng trong cuộc chiến tranh giành Bát Tư Ba với Người. Trong khoảnh khắc ấy, tôi bỗng thấy lòng nguội lạnh. Thì ra, hết yêu một người cũng chẳng mấy khó khăn, nhưng không hiểu sao, trước kia tôi cứ cố chấp làm vậy?
Tôi ngửa đầu cười vang, mặc cho nước mắt trào qua hốc mắt, tuôn rơi.
- Thế nên chàng đã để Kháp Na thay chàng làm chuyện đó? Nhưng lẽ nào Kháp Na hy sinh mười năm dương thọ thì không sao ư?
- Ta không có ý đó, chỉ tại đệ ấy nhất quyết muốn cứu em, không ai có thể ngăn cản.
Chàng buông một tiếng thở dài, nỗi xót xa dâng ngập trong mắt.
- Ta đã bỏ đi, phó mặc sự sống của em cho số phận. Lúc về phủ Quốc sư, ta bỗng thấy cỗ xe ngựa của Kháp Na. Đệ ấy vừa tới nơi. Nhận ra vẻ mặt khác lạ của ta, đệ ấy một mực truy hỏi. Ta không thể giấu giếm. Sau khi biết chuyện, đệ ấy đã bất chấp tất cả để chạy đến cứu em. Đệ ấy hỏi địa chỉ rồi cứ thế phi đi như bay, sáng hôm sau mới trở về.
Tôi nắm chặt bàn tay, móng tay cắm sâu vào lòng bàn tay nhưng tôi chẳng hề thấy đau đớn. Trước mắt tôi là hình ảnh gương mặt tiều tụy vì lo âu của Kháp Na. Tôi có thể tưởng tượng được, khi đó cậu ấy đã hoang mang, lo lắng nhường nào. Đây đâu phải lần đầu cậu ấy vì tôi như vậy!
Bát Tư Ba lại gần khung cửa sổ, ngước nhìn những quầng mây rực rỡ trên nền trời rộng, thở than:
- Trông thấy bộ dạng thất thểu, vô hồn của đệ ấy, ta mới hiểu, thì ra trong lòng của đệ ấy vẫn luôn có hình bóng em, nhưng đệ ấy không chịu cho ta biết, thậm chí muốn nhường em cho ta. Đệ ấy muốn giúp em biến giấc mộng xa vời thành hiện thực.
Tôi như kẻ mất hồn, đầu óc choáng váng, phải bám chặt vào ghế, mấp máy trong vô thức:
- Giấc mộng ư? Giấc mộng... xa vời ư?
Chàng quay lại nhìn tôi, ánh mắt buốt sắc cắm sâu, bới tung những phần sâu thẳm nhất trong tâm hồn tôi:
- Không phải sao? Lam Kha ơi, bao năm qua em thờ ơ với tình yêu nồng nàn của Kháp Na, chẳng qua vì muốn theo đuổi giấc mộng xa xôi đó sao? Lẽ nào em cho rằng ta tốt đẹp hơn Kháp Na? Hay vì không thể có được nên càng muốn theo đuổi, để rồi em quay lưng hờ hững với người yêu em thật lòng ở ngay bên cạnh?
Mặt đẫm lệ, tôi khóc không thành tiếng, co gập người lại vì cơn đau lan khắp cơ thể. Tôi phải tựa cả người vào ghế để giữ cho mình khỏi ngã. Gương mặt Bát Tư Ba thoáng hiện nét thương xót, chàng định lại gần, ôm lấy bờ vai tôi, nhưng khi sắp chạm vào tôi, chàng bỗng rụt tay về, giọng nói càng chua chát:
- Ta chưa từng làm được gì cho em, nhưng Kháp Na thì sao? Đệ ấy đã vì em nhiều như thế nào! Đệ ấy sẵn sàng tuyệt tự tuyệt tôn để vun đắp cho em, sẵn sàng trả giá mười năm dương thọ để cứu em. Không lẽ, những việc làm ấy chẳng thể khiến trái tim em rung động ư?
Tôi ôm đầu, gào lên thảm thiết:
- Xin đừng hỏi nữa!
Chàng đã dồn tôi đến bờ vực, tôi chẳng thể thờ ơ trước sự thật rành rành, cũng không thể tiếp tục mê man trong cơn mộng mị nhiều năm nữa. Những mảnh ký ức gắn liền với hình ảnh của Kháp Na lần lượt hiện lên, cuồn cuộn trong đầu tôi. Hình ảnh cậu ấy há hốc miệng kinh ngạc khi thấy tôi hóa phép thành người, ánh mắt nhìn tôi đắm đuối trong đêm hội Nguyên tiêu, bờ môi ngọt ngào, ấm nồng của cậu ấy lúc hôn tôi và còn rất nhiều, rất nhiều hình ảnh nữa. Ngập đầy trong tâm trí tôi lúc này là nụ cười rạng rỡ, là ánh mắt chứa chan, là nỗi phiền muộn sầu bi, là niềm vui hân hoan của cậu ấy...
- Lam Kha ơi, có câu: kẻ trong cuộc thường thiếu tỉnh táo, không hiểu tình cảm thực sự của mình.
Chàng nở nụ cười cay đắng, nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Người mà em thật lòng yêu là đệ ấy, không phải ta!
Tôi bàng hoàng ngước lên:
- Chàng... chàng nói sao?
- Vậy ta hỏi em, vì sao khi nghe tin Kháp Na tái hôn, em lại buồn đến vậy? Vì sao em vội vã từ biệt ta để đi tìm đệ ấy?
Tôi run bắn:
- Em...
Không để tôi nói thêm, chàng tiếp tục truy hỏi:
- Những ngày qua, vì sao em không chịu xuất hiện trước mặt đệ ấy mà chỉ lặng lẽ đi theo?
Tôi như người lạc vào mê cung, hồn phách tứ tán:
- Em... em cũng không biết nữa...
Những ngày qua, tôi cứ lặng lẽ đi theo Kháp Na, chỉ khi cậu ấy ngủ say mới chịu hóa thành người, ngồi bên giường, mê mẩn ngắm nhìn gương mặt cậu ấy, cho đến khi trời sáng. Con tim tôi như thể bị giày vò bởi hàng trăm vuốt sắc, nhưng tôi không sao lý giải nổi những nỗi lo lắng, chán chường, bồn chồn, phiền muộn ấy vì đâu mà có.
Bát Tư Ba tiếp tục o bế tôi:
- Em vẫn chưa chịu thừa nhận sao? Em không thấy Kháp Na đang từng ngày giày vò bản thân, bất chấp tính mạng hay sao? Lam Kha, đến bao giờ em mới chịu thức tỉnh? Lẽ nào chờ đến khi đệ ấy cận kề cái chết em mới ân hận, nuối tiếc, dằn vặt sao?
Lòng dạ tan nát, tôi lùi lại, cho đến khi lưng chạm phải bờ tường lạnh ngắt. Như thể vừa được giác ngộ! Như thể vừa bị giáng một đòn chí mạng! Tôi đã hoàn toàn thức tỉnh! Gió thổi mây tan, ánh nắng chan hòa, mọi thứ trước mắt tôi trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Lưng vươn thẳng, tôi nắm chặt trong tay sợi dây buộc tóc màu lam, cảm nhận được hơi ấm vô bờ từ đó. Đây mới là thứ tôi thật sự cần: sự ấm áp chân thực tuyệt đối!
Tôi cười với Bát Tư Ba, lúc đầu chỉ là mỉm cười, sau đó tiếng cười ngày một lớn, ngày một vang, tôi cười ha hả, bất chấp tất cả. Nút thắt bao năm đã được cởi bỏ, lòng tôi nhẹ nhõm như vừa thoát khỏi gánh nặng ngàn cân. Cấm kỵ gì chứ, giới luật gì chứ, buồn lo sợ hãi, canh cánh trong lòng gì chứ, đau khổ dằn vặt, chờ đợi mỏi mòn gì chứ? Hơn mười năm qua, tất cả chỉ là ngộ nhận, chỉ là tự mình làm khổ mình, chỉ là tự giày vò, trói buộc bản thân mình mà thôi!
Chàng không khỏi ngạc nhiên khi thấy tôi cười, chừng như có chút ân hận vì đã quá nặng lời. Nhưng tôi mặc kệ, tôi cười cho thật đã rồi mới nghiêm túc nói:
- Chàng nói đúng, em cứ mải mê kiếm tìm những điều xa xôi mà quên đi tình cảm thực sự của mình.
Tôi nhã từng chữ rõ ràng, mạch lạc:
- Khabi đã nói dối, đêm đó em không hề bị linh khí phản ngược, chỉ vì mệt quá nên mới thiếp đi. Cô ấy làm vậy để thử thách lòng dạ đàn ông mà thôi.
Đôi đồng từ của chàng dần thu nhỏ lại, ánh mắt lấp lánh, bàn tay nắm chặt ghế, những đường gân nổi lên vằn vện. Nhưng chỉ trong chốc lát, biểu hiện bất thường ấy lập tức tan biến, chàng lại trở về là một quốc sư cao quý, tôn nghiêm trong mắt hàng vạn người. Sau khi đã lấy lại sự bình tĩnh, chàng lạnh lùng nói:
- Vậy thì hẳn rằng em đã nhận ra, ai mới là người thật lòng với em.
Tôi mỉm cười:
- Đúng vậy, em đã biết. Cảm ơn chàng đã giúp em thức tỉnh, cho em biết nỗi lòng thực sự của mình..
Loài người vốn đoản thọ, tôi không thể chần chừ, do dự, thời gian đâu có chờ đợi tôi. Kháp Na đã hai mươi bảy tuổi, những người đàn ông khác ở vào độ tuổi này đã con cái đầy nhà. Còn cậu ấy, kể từ năm hai mươi tuổi, khi lần đầu tiên thấy tôi hóa thành người, đã một lòng chờ đợi tôi cho đến tận bây giờ. Tôi không thể để cậu ấy tiếp tục hành hạ bản thân như thế, không thể để cậu ấy tiếp tục rước về nhà những người vợ hữu danh vô thực nữa.
Tôi nhấc cao vạt váy, đoan trang cúi người trước Bát Tư Ba:
- Xin hãy đưa em đến nơi cử hành hôn lễ, em muốn cùng cậu ấy nên duyên vợ chồng. Đêm nay, em mới là cô dâu đích thực của Kháp Na!
Toàn thân Bát Tư Ba bỗng run lên bần bật, gương mặt tối sầm, đau khổ hướng về tôi, ánh mắt buồn vô hạn. Tôi giật mình, vội bước đến, định đỡ lấy chàng:
- Chàng sao vậy?
Nhưng chàng đã vội tránh tôi như tránh tà. Chàng đặt tay lên ngực, lưng còng xuống, khẽ nhíu mày, mồ hôi túa ra trên trán:
- Ta không sao, chỉ tại mải đi tìm em nên bỏ cả cơm trưa.
Tôi lo lắng:
- Vậy để em mang đồ ăn đến cho chàng...
Sắc mặt chàng trắng bệch, nhưng chàng xua tay, mệt mỏi nói:
- Không cần đâu, lát nữa ta sẽ tự mình lo liệu. Sắp đến giờ cử hành hôn lễ, em mau biến hình đi, rồi ta sẽ đưa em đến chỗ Kháp Na.
Tôi trở lại nguyên hình, nhảy vào lòng Bát Tư Ba. Chàng đưa tôi rời khỏi Lang Như Thư Lầu, rảo bước về phía phòng tân hôn của Kháp Na – Labrang Qulo. Tôi cảm nhận được trái tim chàng đang đập mãnh liệt, toàn thân khẽ run lên, làn da nóng hổi, mãi đến khi tới Labrang Qulo, những biểu hiện khác thường ấy mới vơi bớt đôi chút.
Labrang Qulo đèn hoa rực rỡ, cờ bay rợp trời, dưới đất là những mô gạo ngũ sắc được xếp theo hình đàn tế lễ. Kháp Na đứng chờ ngoài cửa, lòng như lửa đốt. Cậu ấy vội đưa mắt dò hỏi khi thấy Bát Tư Ba bước vào. Bát Tư Ba khẽ gật đầu, tiến lại gần em trai, trịnh trọng trao tôi cho Kháp Na.
Kháp Na tươi cười rạng rỡ đón lấy tôi, giấu vào trong lớp áo lễ phục rộng thùng thình. Cậu ấy khẽ đặt miếng ngọc thiêng liêng lên chiếc đầu nhỏ xíu của tôi. Tôi sững sờ! Đó là nghi thức không thể thiếu trong lễ cưới của người Tạng. Miếng ngọc này được gọi là ngọc Linh hồn. Chú rể đặt miếng ngọc lên đỉnh đầu của cô dâu, với ý nghĩa rằng từ nay, linh hồn của người con trai sẽ được trao cho người con gái. Miếng ngọc rung rinh trên đỉnh đầu tôi. Tôi hiểu Kháp Na muốn nói với tôi rằng, cậu ấy trao gửi linh hồn của mình cho tôi.
Đúng lúc đó, bên ngoài bỗng rền vang từng hồi khèn, hồi trống. Bát Tư Ba hắng giọng ra hiệu, Kháp Na dùng dằng mãi mới chịu nhấc miếng ngọc Linh hồn ra khỏi đầu tôi. Lúc này, cô dâu Kangtsoban trong bộ lễ phục diêm dúa, sặc sỡ được đưa vào đại điện. Hàng trăm tu sĩ của phái Sakya chấp tay tụng niệm chúc phúc. Âm thanh tụng niệm trầm bỗng vấn vít như tiếng gió reo trên hàng thông. Bản khâm của giáo phái, đại sư Shakya Zangpo đứng ngoài cửa, cầm một nhành hoàng bá đã thấm nước, khẽ vẩy lên đầu cô dâu. Cô dâu giẫm lên những hạt thanh khoa và lá trà được rải đều trên nền đất dưới sự hướng dẫn của bà mối. Nghi lễ chỉ mang tính tượng trưng nhưng Kangtsoban vốn bản tính trẻ con, tinh nghịch đã biến nó thành trò chơi lý thú. Cô nàng nhảy cẫng lên sung sướng, ra sức giẫm đạp khiến lúa mì thanh khoa và lá trà bắn tung tóe. buộc phải mạnh tay, kéo cô nàng đến trước mặt Kháp Na.
So với hai người vợ trước, phục sức của cô dâu Kangtsoban hôm nay càng thể hiện rõ mức độ giàu có, xa hoa của nhà gái. Ngọc ngà, châu báu trĩu nặng khiến Kangtsoban khó chịu không yên, cô nàng cứ muốn bứt ra khỏi đầu mình chạc ba châu, biểu tượng của người phụ nữ quyền quý người Tạng. Bà mối phải canh chừng mọi lúc mới giữ được thứ trang sức nặng nề đó trên tóc Kangtsoban.
Sau khi lắng nghe lời chúc phúc từ người làm chứng, Kháp Na hững hờ cài mũi tên bằng vải, nhiều màu sắc vào lưng áo Kangtsoban, tượng trưng rằng, từ nay cô nàng sẽ trở thành người của nhà chồng. Đến nghi thức đặt ngọc Linh hồn lên đầu cô dâu thì chuyện nực cười xảy ra. Kangtsoban vỉ mỏi cổ, kiên quyết không cho Kháp Na đặt ngọc Linh hồn lên đầu mình, Jichoi và Selangqe khuyên nhủ thế nào, cô ngốc cũng không chịu nghe. Đám đông dự lễ thành hôn bật cười khúc khích, Kháp Na thừa dịp, bỏ qua nghi lễ này. Cậu ấy đặt viên ngọc vào lòng mình, ra hiệu cho người làm lễ tiếp tục các nghi thức khác.
Kháp Na và Kangtsoban ngồi khoanh tròn trên một đài cao đặt giữa chính điện. Vạn hộ hầu Ladulo được mời làm chứng nhân, tuyên đọc hôn ước. Nội dung quan trọng nhất của bản hôn ước này chính là những trao đổi lợi ích giữa phái Sakya và Vạn hộ hầu Shalu sau hôn lễ, hai gia tộc sẽ cùng chung hoạn nạn, cùng hưởng vinh hoa, phú quý.
Những người có mặt tại đó đều hồi hộp nín thở, lắng nghe từng điều khoản về quyền và lợi ích phân chia tài sản, chỉ có Kangtsoban là tỏ ra khó chịu, bức bối. Nhân lúc bà mối sơ ý, cô nàng liền nhảy xuống, chạy về phía Kháp Na, kéo tay cậu ấy, kêu gào:
- Kháp Na, chàng ơi, chúng ta đi sinh em bé thôi!
Đám đông sững sờ, Vạn hộ hầu Ladulo ngừng đọc hôn ước. Kháp Na đỏ bừng mặt, vội vã kéo tay Kangtsoban. Nhưng cô ngốc chẳng chịu yên, tiếp tục vỗ vỗ vào bụng dưới của mình, cất giọng ngây ngô:
- Cha và anh trai nói rằng, chàng sẽ đặt em bé vào bụng ta, sau đó ta sẽ sinh em bé. Kháp Na, chàng ơi, chàng giấu em bé ở đâu thế? Vì sao phải chờ đến tối mới đặt em bé vào bụng ta? Chúng ta làm ngay bây giờ được không?
Kháp Na chỉ muốn tìm một khe hở để chui xuống, quay mặt đi, vờ như không nghe thấy. Jichoi và Selangqe muối mặt bước đến kéo Kangtsoban. Nhưng cô ngốc vẫn oang oang khiến rất nhiều người không nhịn nổi, phì cười. Dì năm ghé tai chị Zhouma của Kháp Na, thì thầm:
- Úi giời, Vương phi sốt ruột cũng phải, chú rể đẹp trai thế kia mà! Nhưng không biết cô ta có sinh ra những đứa trẻ giống mình không? Người thừa kế của giáo phái Sakya đấy!
Zhouma vội đưa tay ra hiệu bảo dì năm dừng lại:
- Dì năm!
Những lời “thầm thì” của dì năm đã lọt vào tai Bát Tư Ba. Chàng đưa mắt về phía bà ta, ánh nhìn lạnh lùng, nghiêm nghị. Dì năm sợ hãi cúi đầu, không dám nói năng xằng bậy nữa.
Buổi lễ kết thúc chóng vánh vì những trò phá bĩnh của Kangtsoban, ngay sau đó là tiệc tùng náo nhiệt. Rất nhiều người muốn đến chúc tụng Kháp Na. Cậu ấy không từ chối bất cứ ai, ly rượu mừng nào cũng uống cạn. Nhưng Bát Tư Ba không để tình trạng đó kéo dài thêm, chàng ra mặt ngăn cản:
- Bạch Lan Vương chưa khỏi hẳn, không thể uống rượu.
Ngay cả người anh vợ đến chúc rượu, Bát Tư Ba cũng không hề khách khí. Nhưng Selangqe không lấy thế làm phật ý, cậu ta cười sảng khoái:
- Vậy thì em rể mau vào động phòng đi, đừng để cô út nhà ta chờ lâu.
Kháp Na chưa kịp mở lời ứng đối thì Bát Tư Ba đã khéo léo từ chối thay em trai:
- Xin các vị thông gia chớ sốt ruột. Thầy thuốc căn dặn rằng, Bạch Lan Vương cần tĩnh dưỡng thêm. Lúc này đang là mùa đông băng giá, rất khó lành bệnh, xin hãy cho em tôi thêm thời gian, chờ khi xuân sang, ấy là lúc chú rể hoàn toàn bình phục, đệ ấy tự khắc sẽ đến tìm em dâu.
Lão cáo già Jichoi nghe thấy những lời này thì sa sầm mặt mày:
- Mong rằng quốc sư không chấp những câu nói thơ dại của con gái ta khi nãy. Tuy nó hơi ngờ nghệch nhưng vẫn đủ sức khỏe để hoàn thành trách nhiệm sinh con nối dõi cho Bạch Lan Vương.
Bát Tư Ba hiểu ý Jichoi, bèn trịnh trọng đáp rằng:
- Người thừa kế của phái Sakya nhất định phải do Vương phi của Bạch Lan Vương sinh hạ.
Lúc này Jichoi mới gật đầu yên lòng. Tuy không phản đối Kháp Na cưới thêm vợ nhưng thực ra ông ta rất lo lắng về điều này. Nếu người thừa kế của phái Sakya không phải huyết mạch dòng họ Shalu, ngày sau, khi đã trở nên hùng mạnh, rất có thể phái Sakya sẽ chẳng thèm bận tâm đến gia tộc Shalu nữa. Nhưng quốc sư Bát Tư Ba đã trịnh trọng hứa hẹn như vậy, Jichoi hoàn toàn có thể vững tâm gắn chặt sự hưng vong của gia tộc Shalu với giáo phái Sakya.
Yến tiệc vẫn tiếp diễn trong không khí ồn ào, náo nhiệt không dứt. Bát Tư Ba đề nghị Kháp Na trao tôi cho chàng, căn dặn Kunga Zangpo trông chừng Kháp Na rồi đưa tôi rời khỏi đại điện. Mọi việc diễn ra trong lễ thành hôn của Kháp Na dường như đều nằm trong sự kiểm soát tài tình của Bát Tư Ba. Nhưng, cho đến khi chàng đưa tôi trở lại Lang Như Thư Lầu, tôi vẫn không sao đoán ra chàng định làm gì.
~.~.~.~.~.~
Chàng trai trẻ hỏi tôi:
- Bản khâm của Sakya chính là đại sư trụ trì đền Sakya phải không? Bản khâm Shakya Zangpo có quan hệ huyết thống với gia tộc họ Khon của Bát Tư Ba không?
- Ăn chút điểm tâm lót dạ nào!
Tôi đẩy về phía chàng trai bát bánh nướng nóng hổi, đáp:
- Khi chưa là một giáo phái lớn mạnh, phái Sakya không có chức bản khâm này. Shakya Zangpo chỉ là trụ trì của ngôi đền Sakya mà thôi. Nhưng khi ngài Ban Trí Đạt rời quê hương đến Trung Nguyên, pháp vương không có mặt tại ngôi đền thiêng của giáo phái suốt hai mươi năm nên buộc họ phải tìm kiếm một người đức cao vọng trọng để cai quản công việc thường ngày của giáo phái. Tuy không có quan hệ huyết thống với dòng họ Khon nhưng Shakya Zangpo lại đệ tử được ngài Ban Trí Đạt tín nhiệm nhất. Đại sư đã cống hiến hết mình vì giáo phái.
Chàng trai trẻ vừa nhấm nháp bánh nướng vừa hỏi:
- Tức là chức vị này xuất hiện khi phái Sakya đã trở nên lớn mạnh và do chính Bát Tư Ba sắc phong?
- Đúng vậy. Từ bản khâm có nghĩa là “viên quan lớn”, đó là chức quan có thể thay mặt đế sư cai quản toàn bộ công việc ở Tây Tạng, do chính Bát Tư Ba đặt ra. Shakya Zangpo vốn là đại sư trụ trì đền Sakya nên ông ấy trở thành bản khâm của giáo phái này cũng là điều dễ hiểu.
- Vậy bản khâm có buộc phải xuất gia không?
- Không cần. Tuy ngài Shakya Zangpo đã chịu nhiều lễ thọ giới Tỷ khâu nơi đại sư Ban Trí Đạt, nhưng nhiều vị bản khâm đời sau này đều do những thường dân xuất thân từ danh gia vọng tộc đảm nhiệm. Sakya vốn là giáo phái cho phép nhà sư thành thân nên cũng không đặt ra quy định nghiêm khắc trong vấn đề này. Nếu các đệ tử quyết tâm xuất gia, một lòng hướng Phật thì họ có thể thọ giới trở thành tu sĩ chân chính. Nhưng nếu họ muốn kết hôn thì cũng có thể miễn thọ giới.
- Điều này khác hoàn toàn so với quan niệm của chúng ta về Phật môn.
Chàng trai trẻ đặt bánh nướng xuống, ngẩng đầu nhìn tôi.
- Khi pháp vương vắng mặt thì bản khâm là người thay quyền pháp vương cai quản mọi việc của giáo phái. Như vậy thì người này chỉ ở dưới một người mà trên muôn người.
Tôi gật đầu:
- Không sai. Trong một nhiệm kỳ, bản khâm chỉ do một người đảm nhiệm, địa vị của người này còn cao hơn các vạn hộ hầu. Bát Tư Ba từng ban cho Shakya Zangpo ấn pha lê tam lộ Quân – dân – vạn hộ [1]. Bất kể là việc lớn bé gì, bản khâm đều có quyền quyết định. Chức vị cao, quyền lực lớn, ngoài đế sư, không ai sánh bằng.
Ánh mắt chàng trai thoáng chút lo âu:
- Vậy nếu trao chức vị này vào tay kẻ xấu, hẳn là sẽ gây ra đại họa?
=========
[1] Tam lộ Quân – dân – vạn hộ: một chức quan xuất hiện vào thời nhà Nguyên, chỉ người cai quản quân đội, cư dân và các vạn hộ hầu thuộc vùng Wusi (tức Tây Tạng ngày nay). (DG)
Vẫn chăm lo cho người thân, bè bạn;
Mây mưa dẫu trôi mãi trên từng cao,
Vẫn giúp mùa màng bội thu.”
(Cách ngôn Sakya)
Hoàng hôn nhuộm đỏ cả không gian, ráng chiều len lỏi qua các ô cửa sổ cao vời vợi, đổ nắng vào căn phòng trống trải. Tôi mặc bộ y phục màu xanh nước biển, viền thêu hoa mai trắng, thắt lưng màu trắng đính kim tuyến lấp lánh, dây tóc màu lam, đứng trong phòng ngủ của Kháp Na, mân mê từng vật dụng thân thuộc của cậu ấy, lưu luyến mãi chẳng rời.
Bỗng có tiếng bước chân rộn rã ngoài hành lang, đoán định chỉ có một mình Bát Tư Ba nên tôi không làm phép ẩn mình. Cánh cửa bật mở, chàng ngó đầu vào bên trong tìm kiếm. Trông thấy tôi, chàng không khỏi kinh ngạc, vội lao đến:
- Kìa Lam Kha, sao em lại một mình trốn ở đây thế? Làm ta phải chạy khắp nơi tìm kiếm.
Tôi chậm rãi đặt gọn y phục của Kháp Na lên giướng, vuốt cho phẳng các nếp gấp rồi mới từ tốn ngẩng đầu nhìn chàng, cất giọng bình thản:
- Vì sao đêm đó không phải là chàng?
Chàng đang thở hổn hển, bỗng ngây ra như phỗng sau khi nghe câu hỏi của tôi. Tôi lại gần, đuổi theo ánh mắt của chàng, tiếp tục truy hỏi:
- Đêm đó, Khabi chỉ đưa một mình chàng đến căn nhà ấy, vậy thì vì sao sau đó lại đổi thành Kháp Na?
Thấy tôi sáp lại gần, chàng đột nhiên thức tỉnh, ánh mắt thoáng bối rối:
- Em… em… đã nghe chúng ta trò chuyện sao?
Tôi cười buồn, gật đầu:
- Tám ngày trước, sau khi từ biệt chàng, em đã tìm thấy Kháp Na trong đoàn đưa dâu, kể từ lúc ấy, em vẫn luôn ở bên cạnh Kháp Na nhưng không xuất đầu lộ diện.
Chàng cúi đầu, nói khẽ:
- Tối hôm ta và đệ ấy trò chuyện, em cũng có mặt ư?
- Em trốn trên xà ngang nên nghe được toàn bộ cuộc chuyện trò của hai người.
Tôi tập trung toàn bộ nhãn lực vào chàng để không cho phép mình bỏ sót bất cứ biểu cảm nào, dù là nhỏ nhất trên gương mặt chàng.
- Đêm hôm đó, rõ ràng chàng đã đến, nhưng vì sao lại đổi thành Kháp Na?
Chàng ngẩng đầu, lùi lại phía sau, giữ khoảng cách với tôi, lấy lại vẻ thản nhiên thường thấy, lạnh lùng đáp:
- Ba đời giáo chủ phái Sakya đều chưa từng thọ giới, chỉ có bác ta và ta là những người đầu tiên thọ giới Tỷ khâu. Em có biết, thọ giới Tỷ khâu có ý nghĩa thế nào đối với một nhà sư không? Nó có nghĩa là, người đó không còn là một thường dân coi việc tu tập Phật pháp là nhiệm vụ nữa mà phải thề nguyện tuân thủ hơn hai trăm giới luật của người tu hành. Sự trói buộc này thể hiện quyết tâm lớn lao của người theo đuổi con đường Phật đạo.
Tôi không ngăn nổi nỗi nghẹn ngào dâng trào:
- Khi phải lựa chọn giữa Phật Tổ và em, chàng đã chọn Phật Tổ.
Chàng hít một hơi thật sau, khẽ quay mặt đi:
- Vì ta đã thề nguyện trước Phật Tổ nên ta phải giữ trọn lời thề.
Nước mắt cứ thế tuôn rơi, tôi cố nén chặt nỗi run rẩy dâng lên trong từng câu nói:
- Vậy thì vì sao, trước đó chàng lại cho em hy vọng? Chàng khiến em nghĩ rằng… nghĩ rằng…
Tôi không sao nói tiếp được nữa, đành quay mặt đi, không để chàng nhìn thấy nước mắt như mưa xối trên gương mặt mình.
Rốt cuộc chàng cũng chịu nhìn thẳng vào mắt tôi, ánh mắt ẩn giấu nỗi niềm lưu luyến, cảm thương nhưng giọng nói thì kiên định, sỏi đá:
- Lam Kha, em rất đẹp, lại hiền thục, khiến cho bất cứ người đàn ông nào cũng phải rung động. Tuy ta tu tập đã lâu nhưng lòng trần còn nặng, khi phải đối diện với một thiếu nữ hoàn hảo như em, quả thật, đã có lúc ta không sao cưỡng lại nổi, trở nên u mê, thiếu sáng suốt.
Tôi khẽ rùng mình, bật cười chua chát:
- Chỉ là sự mê muội trong chốc lát thôi sao?
Trái tim tôi lạnh dần. Ánh mắt ấm áp, dịu dàng, lời nói ngọt ngào, mềm mại, những cử chỉ ân cần khiến tim tôi loạn nhịp ngày nào, thì ra chỉ là thoáng chốc u mê.
Chàng khép hờ đôi mắt, hàng mi dài khẽ rung động:
- Sắc giới vốn là thử thách lớn nhất nơi cửa Phật, ta cũng đã bị động lòng bởi những lời thuyết phục khéo léo của Kháp Na, thiếu chút nữa đã hủy hoại quyết tâm tu hành. Đêm đó, ta đã dằn vặt rất lâu nhưng xét đi xét lại, ta thấy mình không thể phá giới, càng không thể đánh đổi mười năm tuổi thọ!
Chàng càng nói càng xúc động, vội vã ngừng lại, hít thở nhiều lần để lấy lại bình tĩnh.
- Kháp Na nói rất đúng, ta phải giữ mạng sống của mình để làm nhiều việc khác. Ta phải gây dựng và phát triển Sakya trở thành giáo phái hùng mạnh nhất đất Tạng. Ta phải thực hiện di nguyện thống nhất đất Tạng của người bác. Trọng trách nặng nề trên vai buộc ta phải có lỗi với em.
Nỗi buồn ào ạt xô tới, tôi chết lặng trước bóng chiếc áo thầy tu màu đỏ sẫm trong ráng chiều nhạt nhòa ấy. Vẫn còn nguyên vẻ tuấn tú, hút hồn, phong tư tót vời ấy nhưng sao lại xa lạ đến thế? Tình cảm mà tôi đã khổ công vun đắp bao năm chỉ trong chốc lát đã đổ vỡ hoàn toàn trước Phật Tổ. Tôi chưa bao giờ thắng trong cuộc chiến tranh giành Bát Tư Ba với Người. Trong khoảnh khắc ấy, tôi bỗng thấy lòng nguội lạnh. Thì ra, hết yêu một người cũng chẳng mấy khó khăn, nhưng không hiểu sao, trước kia tôi cứ cố chấp làm vậy?
Tôi ngửa đầu cười vang, mặc cho nước mắt trào qua hốc mắt, tuôn rơi.
- Thế nên chàng đã để Kháp Na thay chàng làm chuyện đó? Nhưng lẽ nào Kháp Na hy sinh mười năm dương thọ thì không sao ư?
- Ta không có ý đó, chỉ tại đệ ấy nhất quyết muốn cứu em, không ai có thể ngăn cản.
Chàng buông một tiếng thở dài, nỗi xót xa dâng ngập trong mắt.
- Ta đã bỏ đi, phó mặc sự sống của em cho số phận. Lúc về phủ Quốc sư, ta bỗng thấy cỗ xe ngựa của Kháp Na. Đệ ấy vừa tới nơi. Nhận ra vẻ mặt khác lạ của ta, đệ ấy một mực truy hỏi. Ta không thể giấu giếm. Sau khi biết chuyện, đệ ấy đã bất chấp tất cả để chạy đến cứu em. Đệ ấy hỏi địa chỉ rồi cứ thế phi đi như bay, sáng hôm sau mới trở về.
Tôi nắm chặt bàn tay, móng tay cắm sâu vào lòng bàn tay nhưng tôi chẳng hề thấy đau đớn. Trước mắt tôi là hình ảnh gương mặt tiều tụy vì lo âu của Kháp Na. Tôi có thể tưởng tượng được, khi đó cậu ấy đã hoang mang, lo lắng nhường nào. Đây đâu phải lần đầu cậu ấy vì tôi như vậy!
Bát Tư Ba lại gần khung cửa sổ, ngước nhìn những quầng mây rực rỡ trên nền trời rộng, thở than:
- Trông thấy bộ dạng thất thểu, vô hồn của đệ ấy, ta mới hiểu, thì ra trong lòng của đệ ấy vẫn luôn có hình bóng em, nhưng đệ ấy không chịu cho ta biết, thậm chí muốn nhường em cho ta. Đệ ấy muốn giúp em biến giấc mộng xa vời thành hiện thực.
Tôi như kẻ mất hồn, đầu óc choáng váng, phải bám chặt vào ghế, mấp máy trong vô thức:
- Giấc mộng ư? Giấc mộng... xa vời ư?
Chàng quay lại nhìn tôi, ánh mắt buốt sắc cắm sâu, bới tung những phần sâu thẳm nhất trong tâm hồn tôi:
- Không phải sao? Lam Kha ơi, bao năm qua em thờ ơ với tình yêu nồng nàn của Kháp Na, chẳng qua vì muốn theo đuổi giấc mộng xa xôi đó sao? Lẽ nào em cho rằng ta tốt đẹp hơn Kháp Na? Hay vì không thể có được nên càng muốn theo đuổi, để rồi em quay lưng hờ hững với người yêu em thật lòng ở ngay bên cạnh?
Mặt đẫm lệ, tôi khóc không thành tiếng, co gập người lại vì cơn đau lan khắp cơ thể. Tôi phải tựa cả người vào ghế để giữ cho mình khỏi ngã. Gương mặt Bát Tư Ba thoáng hiện nét thương xót, chàng định lại gần, ôm lấy bờ vai tôi, nhưng khi sắp chạm vào tôi, chàng bỗng rụt tay về, giọng nói càng chua chát:
- Ta chưa từng làm được gì cho em, nhưng Kháp Na thì sao? Đệ ấy đã vì em nhiều như thế nào! Đệ ấy sẵn sàng tuyệt tự tuyệt tôn để vun đắp cho em, sẵn sàng trả giá mười năm dương thọ để cứu em. Không lẽ, những việc làm ấy chẳng thể khiến trái tim em rung động ư?
Tôi ôm đầu, gào lên thảm thiết:
- Xin đừng hỏi nữa!
Chàng đã dồn tôi đến bờ vực, tôi chẳng thể thờ ơ trước sự thật rành rành, cũng không thể tiếp tục mê man trong cơn mộng mị nhiều năm nữa. Những mảnh ký ức gắn liền với hình ảnh của Kháp Na lần lượt hiện lên, cuồn cuộn trong đầu tôi. Hình ảnh cậu ấy há hốc miệng kinh ngạc khi thấy tôi hóa phép thành người, ánh mắt nhìn tôi đắm đuối trong đêm hội Nguyên tiêu, bờ môi ngọt ngào, ấm nồng của cậu ấy lúc hôn tôi và còn rất nhiều, rất nhiều hình ảnh nữa. Ngập đầy trong tâm trí tôi lúc này là nụ cười rạng rỡ, là ánh mắt chứa chan, là nỗi phiền muộn sầu bi, là niềm vui hân hoan của cậu ấy...
- Lam Kha ơi, có câu: kẻ trong cuộc thường thiếu tỉnh táo, không hiểu tình cảm thực sự của mình.
Chàng nở nụ cười cay đắng, nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Người mà em thật lòng yêu là đệ ấy, không phải ta!
Tôi bàng hoàng ngước lên:
- Chàng... chàng nói sao?
- Vậy ta hỏi em, vì sao khi nghe tin Kháp Na tái hôn, em lại buồn đến vậy? Vì sao em vội vã từ biệt ta để đi tìm đệ ấy?
Tôi run bắn:
- Em...
Không để tôi nói thêm, chàng tiếp tục truy hỏi:
- Những ngày qua, vì sao em không chịu xuất hiện trước mặt đệ ấy mà chỉ lặng lẽ đi theo?
Tôi như người lạc vào mê cung, hồn phách tứ tán:
- Em... em cũng không biết nữa...
Những ngày qua, tôi cứ lặng lẽ đi theo Kháp Na, chỉ khi cậu ấy ngủ say mới chịu hóa thành người, ngồi bên giường, mê mẩn ngắm nhìn gương mặt cậu ấy, cho đến khi trời sáng. Con tim tôi như thể bị giày vò bởi hàng trăm vuốt sắc, nhưng tôi không sao lý giải nổi những nỗi lo lắng, chán chường, bồn chồn, phiền muộn ấy vì đâu mà có.
Bát Tư Ba tiếp tục o bế tôi:
- Em vẫn chưa chịu thừa nhận sao? Em không thấy Kháp Na đang từng ngày giày vò bản thân, bất chấp tính mạng hay sao? Lam Kha, đến bao giờ em mới chịu thức tỉnh? Lẽ nào chờ đến khi đệ ấy cận kề cái chết em mới ân hận, nuối tiếc, dằn vặt sao?
Lòng dạ tan nát, tôi lùi lại, cho đến khi lưng chạm phải bờ tường lạnh ngắt. Như thể vừa được giác ngộ! Như thể vừa bị giáng một đòn chí mạng! Tôi đã hoàn toàn thức tỉnh! Gió thổi mây tan, ánh nắng chan hòa, mọi thứ trước mắt tôi trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Lưng vươn thẳng, tôi nắm chặt trong tay sợi dây buộc tóc màu lam, cảm nhận được hơi ấm vô bờ từ đó. Đây mới là thứ tôi thật sự cần: sự ấm áp chân thực tuyệt đối!
Tôi cười với Bát Tư Ba, lúc đầu chỉ là mỉm cười, sau đó tiếng cười ngày một lớn, ngày một vang, tôi cười ha hả, bất chấp tất cả. Nút thắt bao năm đã được cởi bỏ, lòng tôi nhẹ nhõm như vừa thoát khỏi gánh nặng ngàn cân. Cấm kỵ gì chứ, giới luật gì chứ, buồn lo sợ hãi, canh cánh trong lòng gì chứ, đau khổ dằn vặt, chờ đợi mỏi mòn gì chứ? Hơn mười năm qua, tất cả chỉ là ngộ nhận, chỉ là tự mình làm khổ mình, chỉ là tự giày vò, trói buộc bản thân mình mà thôi!
Chàng không khỏi ngạc nhiên khi thấy tôi cười, chừng như có chút ân hận vì đã quá nặng lời. Nhưng tôi mặc kệ, tôi cười cho thật đã rồi mới nghiêm túc nói:
- Chàng nói đúng, em cứ mải mê kiếm tìm những điều xa xôi mà quên đi tình cảm thực sự của mình.
Tôi nhã từng chữ rõ ràng, mạch lạc:
- Khabi đã nói dối, đêm đó em không hề bị linh khí phản ngược, chỉ vì mệt quá nên mới thiếp đi. Cô ấy làm vậy để thử thách lòng dạ đàn ông mà thôi.
Đôi đồng từ của chàng dần thu nhỏ lại, ánh mắt lấp lánh, bàn tay nắm chặt ghế, những đường gân nổi lên vằn vện. Nhưng chỉ trong chốc lát, biểu hiện bất thường ấy lập tức tan biến, chàng lại trở về là một quốc sư cao quý, tôn nghiêm trong mắt hàng vạn người. Sau khi đã lấy lại sự bình tĩnh, chàng lạnh lùng nói:
- Vậy thì hẳn rằng em đã nhận ra, ai mới là người thật lòng với em.
Tôi mỉm cười:
- Đúng vậy, em đã biết. Cảm ơn chàng đã giúp em thức tỉnh, cho em biết nỗi lòng thực sự của mình..
Loài người vốn đoản thọ, tôi không thể chần chừ, do dự, thời gian đâu có chờ đợi tôi. Kháp Na đã hai mươi bảy tuổi, những người đàn ông khác ở vào độ tuổi này đã con cái đầy nhà. Còn cậu ấy, kể từ năm hai mươi tuổi, khi lần đầu tiên thấy tôi hóa thành người, đã một lòng chờ đợi tôi cho đến tận bây giờ. Tôi không thể để cậu ấy tiếp tục hành hạ bản thân như thế, không thể để cậu ấy tiếp tục rước về nhà những người vợ hữu danh vô thực nữa.
Tôi nhấc cao vạt váy, đoan trang cúi người trước Bát Tư Ba:
- Xin hãy đưa em đến nơi cử hành hôn lễ, em muốn cùng cậu ấy nên duyên vợ chồng. Đêm nay, em mới là cô dâu đích thực của Kháp Na!
Toàn thân Bát Tư Ba bỗng run lên bần bật, gương mặt tối sầm, đau khổ hướng về tôi, ánh mắt buồn vô hạn. Tôi giật mình, vội bước đến, định đỡ lấy chàng:
- Chàng sao vậy?
Nhưng chàng đã vội tránh tôi như tránh tà. Chàng đặt tay lên ngực, lưng còng xuống, khẽ nhíu mày, mồ hôi túa ra trên trán:
- Ta không sao, chỉ tại mải đi tìm em nên bỏ cả cơm trưa.
Tôi lo lắng:
- Vậy để em mang đồ ăn đến cho chàng...
Sắc mặt chàng trắng bệch, nhưng chàng xua tay, mệt mỏi nói:
- Không cần đâu, lát nữa ta sẽ tự mình lo liệu. Sắp đến giờ cử hành hôn lễ, em mau biến hình đi, rồi ta sẽ đưa em đến chỗ Kháp Na.
Tôi trở lại nguyên hình, nhảy vào lòng Bát Tư Ba. Chàng đưa tôi rời khỏi Lang Như Thư Lầu, rảo bước về phía phòng tân hôn của Kháp Na – Labrang Qulo. Tôi cảm nhận được trái tim chàng đang đập mãnh liệt, toàn thân khẽ run lên, làn da nóng hổi, mãi đến khi tới Labrang Qulo, những biểu hiện khác thường ấy mới vơi bớt đôi chút.
Labrang Qulo đèn hoa rực rỡ, cờ bay rợp trời, dưới đất là những mô gạo ngũ sắc được xếp theo hình đàn tế lễ. Kháp Na đứng chờ ngoài cửa, lòng như lửa đốt. Cậu ấy vội đưa mắt dò hỏi khi thấy Bát Tư Ba bước vào. Bát Tư Ba khẽ gật đầu, tiến lại gần em trai, trịnh trọng trao tôi cho Kháp Na.
Kháp Na tươi cười rạng rỡ đón lấy tôi, giấu vào trong lớp áo lễ phục rộng thùng thình. Cậu ấy khẽ đặt miếng ngọc thiêng liêng lên chiếc đầu nhỏ xíu của tôi. Tôi sững sờ! Đó là nghi thức không thể thiếu trong lễ cưới của người Tạng. Miếng ngọc này được gọi là ngọc Linh hồn. Chú rể đặt miếng ngọc lên đỉnh đầu của cô dâu, với ý nghĩa rằng từ nay, linh hồn của người con trai sẽ được trao cho người con gái. Miếng ngọc rung rinh trên đỉnh đầu tôi. Tôi hiểu Kháp Na muốn nói với tôi rằng, cậu ấy trao gửi linh hồn của mình cho tôi.
Đúng lúc đó, bên ngoài bỗng rền vang từng hồi khèn, hồi trống. Bát Tư Ba hắng giọng ra hiệu, Kháp Na dùng dằng mãi mới chịu nhấc miếng ngọc Linh hồn ra khỏi đầu tôi. Lúc này, cô dâu Kangtsoban trong bộ lễ phục diêm dúa, sặc sỡ được đưa vào đại điện. Hàng trăm tu sĩ của phái Sakya chấp tay tụng niệm chúc phúc. Âm thanh tụng niệm trầm bỗng vấn vít như tiếng gió reo trên hàng thông. Bản khâm của giáo phái, đại sư Shakya Zangpo đứng ngoài cửa, cầm một nhành hoàng bá đã thấm nước, khẽ vẩy lên đầu cô dâu. Cô dâu giẫm lên những hạt thanh khoa và lá trà được rải đều trên nền đất dưới sự hướng dẫn của bà mối. Nghi lễ chỉ mang tính tượng trưng nhưng Kangtsoban vốn bản tính trẻ con, tinh nghịch đã biến nó thành trò chơi lý thú. Cô nàng nhảy cẫng lên sung sướng, ra sức giẫm đạp khiến lúa mì thanh khoa và lá trà bắn tung tóe. buộc phải mạnh tay, kéo cô nàng đến trước mặt Kháp Na.
So với hai người vợ trước, phục sức của cô dâu Kangtsoban hôm nay càng thể hiện rõ mức độ giàu có, xa hoa của nhà gái. Ngọc ngà, châu báu trĩu nặng khiến Kangtsoban khó chịu không yên, cô nàng cứ muốn bứt ra khỏi đầu mình chạc ba châu, biểu tượng của người phụ nữ quyền quý người Tạng. Bà mối phải canh chừng mọi lúc mới giữ được thứ trang sức nặng nề đó trên tóc Kangtsoban.
Sau khi lắng nghe lời chúc phúc từ người làm chứng, Kháp Na hững hờ cài mũi tên bằng vải, nhiều màu sắc vào lưng áo Kangtsoban, tượng trưng rằng, từ nay cô nàng sẽ trở thành người của nhà chồng. Đến nghi thức đặt ngọc Linh hồn lên đầu cô dâu thì chuyện nực cười xảy ra. Kangtsoban vỉ mỏi cổ, kiên quyết không cho Kháp Na đặt ngọc Linh hồn lên đầu mình, Jichoi và Selangqe khuyên nhủ thế nào, cô ngốc cũng không chịu nghe. Đám đông dự lễ thành hôn bật cười khúc khích, Kháp Na thừa dịp, bỏ qua nghi lễ này. Cậu ấy đặt viên ngọc vào lòng mình, ra hiệu cho người làm lễ tiếp tục các nghi thức khác.
Kháp Na và Kangtsoban ngồi khoanh tròn trên một đài cao đặt giữa chính điện. Vạn hộ hầu Ladulo được mời làm chứng nhân, tuyên đọc hôn ước. Nội dung quan trọng nhất của bản hôn ước này chính là những trao đổi lợi ích giữa phái Sakya và Vạn hộ hầu Shalu sau hôn lễ, hai gia tộc sẽ cùng chung hoạn nạn, cùng hưởng vinh hoa, phú quý.
Những người có mặt tại đó đều hồi hộp nín thở, lắng nghe từng điều khoản về quyền và lợi ích phân chia tài sản, chỉ có Kangtsoban là tỏ ra khó chịu, bức bối. Nhân lúc bà mối sơ ý, cô nàng liền nhảy xuống, chạy về phía Kháp Na, kéo tay cậu ấy, kêu gào:
- Kháp Na, chàng ơi, chúng ta đi sinh em bé thôi!
Đám đông sững sờ, Vạn hộ hầu Ladulo ngừng đọc hôn ước. Kháp Na đỏ bừng mặt, vội vã kéo tay Kangtsoban. Nhưng cô ngốc chẳng chịu yên, tiếp tục vỗ vỗ vào bụng dưới của mình, cất giọng ngây ngô:
- Cha và anh trai nói rằng, chàng sẽ đặt em bé vào bụng ta, sau đó ta sẽ sinh em bé. Kháp Na, chàng ơi, chàng giấu em bé ở đâu thế? Vì sao phải chờ đến tối mới đặt em bé vào bụng ta? Chúng ta làm ngay bây giờ được không?
Kháp Na chỉ muốn tìm một khe hở để chui xuống, quay mặt đi, vờ như không nghe thấy. Jichoi và Selangqe muối mặt bước đến kéo Kangtsoban. Nhưng cô ngốc vẫn oang oang khiến rất nhiều người không nhịn nổi, phì cười. Dì năm ghé tai chị Zhouma của Kháp Na, thì thầm:
- Úi giời, Vương phi sốt ruột cũng phải, chú rể đẹp trai thế kia mà! Nhưng không biết cô ta có sinh ra những đứa trẻ giống mình không? Người thừa kế của giáo phái Sakya đấy!
Zhouma vội đưa tay ra hiệu bảo dì năm dừng lại:
- Dì năm!
Những lời “thầm thì” của dì năm đã lọt vào tai Bát Tư Ba. Chàng đưa mắt về phía bà ta, ánh nhìn lạnh lùng, nghiêm nghị. Dì năm sợ hãi cúi đầu, không dám nói năng xằng bậy nữa.
Buổi lễ kết thúc chóng vánh vì những trò phá bĩnh của Kangtsoban, ngay sau đó là tiệc tùng náo nhiệt. Rất nhiều người muốn đến chúc tụng Kháp Na. Cậu ấy không từ chối bất cứ ai, ly rượu mừng nào cũng uống cạn. Nhưng Bát Tư Ba không để tình trạng đó kéo dài thêm, chàng ra mặt ngăn cản:
- Bạch Lan Vương chưa khỏi hẳn, không thể uống rượu.
Ngay cả người anh vợ đến chúc rượu, Bát Tư Ba cũng không hề khách khí. Nhưng Selangqe không lấy thế làm phật ý, cậu ta cười sảng khoái:
- Vậy thì em rể mau vào động phòng đi, đừng để cô út nhà ta chờ lâu.
Kháp Na chưa kịp mở lời ứng đối thì Bát Tư Ba đã khéo léo từ chối thay em trai:
- Xin các vị thông gia chớ sốt ruột. Thầy thuốc căn dặn rằng, Bạch Lan Vương cần tĩnh dưỡng thêm. Lúc này đang là mùa đông băng giá, rất khó lành bệnh, xin hãy cho em tôi thêm thời gian, chờ khi xuân sang, ấy là lúc chú rể hoàn toàn bình phục, đệ ấy tự khắc sẽ đến tìm em dâu.
Lão cáo già Jichoi nghe thấy những lời này thì sa sầm mặt mày:
- Mong rằng quốc sư không chấp những câu nói thơ dại của con gái ta khi nãy. Tuy nó hơi ngờ nghệch nhưng vẫn đủ sức khỏe để hoàn thành trách nhiệm sinh con nối dõi cho Bạch Lan Vương.
Bát Tư Ba hiểu ý Jichoi, bèn trịnh trọng đáp rằng:
- Người thừa kế của phái Sakya nhất định phải do Vương phi của Bạch Lan Vương sinh hạ.
Lúc này Jichoi mới gật đầu yên lòng. Tuy không phản đối Kháp Na cưới thêm vợ nhưng thực ra ông ta rất lo lắng về điều này. Nếu người thừa kế của phái Sakya không phải huyết mạch dòng họ Shalu, ngày sau, khi đã trở nên hùng mạnh, rất có thể phái Sakya sẽ chẳng thèm bận tâm đến gia tộc Shalu nữa. Nhưng quốc sư Bát Tư Ba đã trịnh trọng hứa hẹn như vậy, Jichoi hoàn toàn có thể vững tâm gắn chặt sự hưng vong của gia tộc Shalu với giáo phái Sakya.
Yến tiệc vẫn tiếp diễn trong không khí ồn ào, náo nhiệt không dứt. Bát Tư Ba đề nghị Kháp Na trao tôi cho chàng, căn dặn Kunga Zangpo trông chừng Kháp Na rồi đưa tôi rời khỏi đại điện. Mọi việc diễn ra trong lễ thành hôn của Kháp Na dường như đều nằm trong sự kiểm soát tài tình của Bát Tư Ba. Nhưng, cho đến khi chàng đưa tôi trở lại Lang Như Thư Lầu, tôi vẫn không sao đoán ra chàng định làm gì.
~.~.~.~.~.~
Chàng trai trẻ hỏi tôi:
- Bản khâm của Sakya chính là đại sư trụ trì đền Sakya phải không? Bản khâm Shakya Zangpo có quan hệ huyết thống với gia tộc họ Khon của Bát Tư Ba không?
- Ăn chút điểm tâm lót dạ nào!
Tôi đẩy về phía chàng trai bát bánh nướng nóng hổi, đáp:
- Khi chưa là một giáo phái lớn mạnh, phái Sakya không có chức bản khâm này. Shakya Zangpo chỉ là trụ trì của ngôi đền Sakya mà thôi. Nhưng khi ngài Ban Trí Đạt rời quê hương đến Trung Nguyên, pháp vương không có mặt tại ngôi đền thiêng của giáo phái suốt hai mươi năm nên buộc họ phải tìm kiếm một người đức cao vọng trọng để cai quản công việc thường ngày của giáo phái. Tuy không có quan hệ huyết thống với dòng họ Khon nhưng Shakya Zangpo lại đệ tử được ngài Ban Trí Đạt tín nhiệm nhất. Đại sư đã cống hiến hết mình vì giáo phái.
Chàng trai trẻ vừa nhấm nháp bánh nướng vừa hỏi:
- Tức là chức vị này xuất hiện khi phái Sakya đã trở nên lớn mạnh và do chính Bát Tư Ba sắc phong?
- Đúng vậy. Từ bản khâm có nghĩa là “viên quan lớn”, đó là chức quan có thể thay mặt đế sư cai quản toàn bộ công việc ở Tây Tạng, do chính Bát Tư Ba đặt ra. Shakya Zangpo vốn là đại sư trụ trì đền Sakya nên ông ấy trở thành bản khâm của giáo phái này cũng là điều dễ hiểu.
- Vậy bản khâm có buộc phải xuất gia không?
- Không cần. Tuy ngài Shakya Zangpo đã chịu nhiều lễ thọ giới Tỷ khâu nơi đại sư Ban Trí Đạt, nhưng nhiều vị bản khâm đời sau này đều do những thường dân xuất thân từ danh gia vọng tộc đảm nhiệm. Sakya vốn là giáo phái cho phép nhà sư thành thân nên cũng không đặt ra quy định nghiêm khắc trong vấn đề này. Nếu các đệ tử quyết tâm xuất gia, một lòng hướng Phật thì họ có thể thọ giới trở thành tu sĩ chân chính. Nhưng nếu họ muốn kết hôn thì cũng có thể miễn thọ giới.
- Điều này khác hoàn toàn so với quan niệm của chúng ta về Phật môn.
Chàng trai trẻ đặt bánh nướng xuống, ngẩng đầu nhìn tôi.
- Khi pháp vương vắng mặt thì bản khâm là người thay quyền pháp vương cai quản mọi việc của giáo phái. Như vậy thì người này chỉ ở dưới một người mà trên muôn người.
Tôi gật đầu:
- Không sai. Trong một nhiệm kỳ, bản khâm chỉ do một người đảm nhiệm, địa vị của người này còn cao hơn các vạn hộ hầu. Bát Tư Ba từng ban cho Shakya Zangpo ấn pha lê tam lộ Quân – dân – vạn hộ [1]. Bất kể là việc lớn bé gì, bản khâm đều có quyền quyết định. Chức vị cao, quyền lực lớn, ngoài đế sư, không ai sánh bằng.
Ánh mắt chàng trai thoáng chút lo âu:
- Vậy nếu trao chức vị này vào tay kẻ xấu, hẳn là sẽ gây ra đại họa?
=========
[1] Tam lộ Quân – dân – vạn hộ: một chức quan xuất hiện vào thời nhà Nguyên, chỉ người cai quản quân đội, cư dân và các vạn hộ hầu thuộc vùng Wusi (tức Tây Tạng ngày nay). (DG)
/64
|