“Người chính trực dù vấp phải nguy nan
cũng không đổi bản sắc;
Vàng ròng bị nung chảy
cũng không biến thành màu khác.”
(Cách ngôn Sakya)
Năm 1273 – tức năm Quý Dậu, Âm Thủy theo lịch Tạng – tức niên hiệu Hàm Thuần thứ chín, nhà Nam Tống – tức niên hiệu Chí Nguyên thứ mười, nhà Nguyên.
Bát Tư Ba ba mươi chín tuổi, Chân Kim ba mươi tuổi.
- Thưa cô, tiệm trang sức của chúng tôi nổi tiếng nhất nhì Lâm Thao này đó. – Ông chủ tiệm đon đả mời chào, câu kéo. – Thiếu nữ có nhan sắc khuynh nước khuynh thành như cô nương nên chọn cho mình món trang sức thượng hạng mới xứng, mới tôn thêm vẻ đẹp như hoa như nguyệt của cô.
Tôi dìu Bát Tư Ba đi lại ngắm nghía cửa tiệm trang sức này.
- Này, chủ quán, chúng tôi chỉ muốn mua một số phụ kiện chất lượng tốt để về tự kết hợp.
- Hàng rời, chất lượng tốt ư? – Ông chủ tiệm quả là người có đầu óc kinh doanh nhạy bén, đối đáp lượm liền. – Có chứ, có chứ. Các vị cứ khảo sát cả thành phố Lâm Thao này sẽ thấy, tiệm chúng tôi đây là tiệm trang sức có nhiều kiểu dáng mới nhất, đẹp nhất. Không biết ông lão định làm thành thứ đồ trang sức gì? Cây thoa Kim Phượng, vòng tay bằng ngọc hay là vòng cổ?
Tôi khẽ chau mày khi nghe ông ta gọi như vậy. Bát Tư Ba chẳng bận tâm, chàng đáp:
- Một chuỗi hạt đeo tay. Tôi sẽ tự nghĩ ra kiểu dáng và tự xâu kết.
- Một chuỗi? Chỉ là vòng tay thôi ư? – Ông chủ tiệm tiếp tục buôn bán nước bọt, câu kéo khách hàng. – Con gái cụ xinh như mộng thế này, phải cho cô ấy đeo vàng bạc, châu báu mới xứng với cô ấy, chỉ một chuỗi hạt thì ăn thua gì!
- Một chuỗi là đủ. Chúng tôi chỉ muốn mua một ít đá khổng tước [1], đá thanh kim [2] và hạt xà cừ [3]. Nếu ông không có, chúng tôi sẽ đi tiệm khác.
Tôi làm mặt lạnh, trách móc:
- Và này ông chủ tiệm, đây là chồng tôi.
Ông chủ tiệm không khỏi sững sờ, đưa mắt quan sát kĩ lưỡng hai vị khách ăn vận hết sức giản dị trước mặt. Có lẽ vì nhận thấy phong thái khác người của chúng tôi, ông ta mới đích thân ra tiếp đón thế này. Nhưng ông chủ tiệm cũng là người rất mau mắn, nhanh trí!
- Cô nương quả là người có con mắt tinh tường! Tướng công của cô diện mạo phi phàm, phong thái đĩnh đạc, rất đáng ngưỡng mộ!
Tôi phì cười, đúng là mồm mép tép nhảy, đưa người ta một bước lên mây xanh. Bát Tư Ba lúc này nhìn như người đã ngoài năm mươi tuổi, da mặt nhăn nheo, vóc dáng cao gầy, lom khom. Tuy gương mặt chàng vẫn toát lên sự thông tuệ, trác tuyệt nhưng chẳng thể dùng những cụm từ như “diện mạo phi phàm” để mô tả chàng được nữa. Tôi nhìn trộm Bát Tư Ba, thấy chàng không hề phật ý, cũng không để tâm những lời ông chủ tiệm vừa nói.
Tôi trừng mắt lườm ông ta một cái:
- Ông mau lấy đồ ra đi, không là chúng tôi đi luôn đây.
- Ấy chớ, đá khổng tước, đá thanh kim và hạt xà cừ thượng hạng, tiệm chúng tôi đều có cả và đều được nhập về từ Thiên Trúc, Kabul [4] xa xôi ngàn dặm, hàng thật, giá cả phải chăng. Thử hỏi cả thành Lâm Thao này, làm gì có tiệm vàng nào có được hàng thượng hạng như ở tiệm chúng tôi chứ?
Ông ta vừa quảng cáo vừa ôm một cái hộp kiểu dáng rất bắt mắt ra. Quả nhiên không ngoa, đều là trang sức thượng hạng. Bát Tư Ba từng chiêm ngưỡng và sở hữu nhiều vàng bạc, châu báu nên chàng rất rành, tự mình lựa những hạt đẹp nhất, tốt nhất.
Lúc rời khỏi tiệm trang sức, mặt trời đã ngả về tây, ánh hoàng hôn vàng ruộm đổ lên vai chúng tôi, hơi ấm mùa xuân thấm vào tận buồng tim lá phổi. Chúng tôi cùng hít hà cho căng tràn lồng ngực hương hoa đào ngan ngát trong không gian rồi nhìn nhau mỉm cười, quay về trang viên. Hai năm qua, chúng tôi sống ẩn dật ở Lâm Thao, không ai hay biết chủ nhân của trang viên rộng lớn này, ông lão cao gầy ấy chính là vị đế sư chưa đầy bốn mươi tuổi. Ngày thường, chúng tôi rất ít khi ra ngoài, nhưng cứ xuất hiện là sẽ có người chỉ trỏ, bàn tán. Chắc chắn là những lời đàm tiếu chẳng mấy hay ho về cặp đôi chồng già – vợ trẻ này.
Hôm nay, Bát Tư Ba đột nhiên cao hứng muốn làm vòng tay cho tôi. Chàng muốn tự mình đi chọn đồ, thế là chúng tôi cùng nhau ra phố. Quả không ngoài dự đoán, người ta xúm đông xúm đỏ, chỉ trỏ, bàn tán sau lưng chúng tôi, thậm chí không ít những chú chàng trẻ trai còn đánh bạo, ra rả châm chọc:
- Ôi! Bông hoa nhài cắm bãi phân trâu!
Nhưng chúng tôi chẳng để tâm đến họ, tôi cũng chẳng buồn biến phép dạy cho họ một bài học. Chúng tôi vẫn tay trong tay, thủng thẳng cất bước. Giờ đây, khi cảm giác đau đớn ngày càng giảm đi, chàng rất thích được nắm tay tôi. Một buổi chiều mùa xuân êm đềm như thế, tôi và người tôi yêu cùng nhau tận hưởng thế giới của riêng hai người. Bình yên, đầm ấm, với chúng tôi thế là đủ.
Kể từ khi dọn đến Lâm Thao, Bát Tư Ba để tôi được đường đường chính chính xuất hiện trước mặt mọi người, không cần phải giả làm người hầu như trước nữa, chỉ đề nghị tôi giấu mái tóc mà màu mắt xanh đi. Và tôi đã ở bên chàng với danh phận là Lam phu nhân. Tuy không công bố chính thức nhưng mọi người đều ngầm thừa nhận mối quan hệ giữa hai chúng tôi. Sakya vốn là giáo phái Phật giáo cho phép tăng sĩ kết hôn nên không ai thắc mắc hay nghi hoặc gì. Khi tin tức được truyền đến Trung Đô, Hốt Tất Liệt đã rất vui mừng và quyết định ban phong tước vị. Nhưng Bát Tư Ba kiên quyết từ chối, và vì thế, tôi đã không phải đội lên đầu thứ trang sức nặng trình trịch mà tước vị Cáo mệnh phu nhân mang lại.
Khi chúng tôi vừa về đến trang viên, Drakpa Odzer lập tức bẩm báo:
- Vương gia Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi dẫn theo con gái Bối Đan đến thăm pháp vương, ngài đã chờ khá lâu rồi.
Chúng tôi cùng vào phòng khách, Khởi Tất vội vã kéo cô con gái chừng mười tuổi đứng lên, vái chào chúng tôi.
Bát Tư Ba bước lại, đỡ họ dậy.
- Người anh em đừng khách sáo. Huynh vượt đường sá xa xôi đến đây thăm ta, ta vui lắm!
Khởi Tất năm nay năm mươi tuổi, hơn Bát Tư Ba mười một tuổi. Những năm qua, cậu ta đã già đi rất nhanh, bệnh tật vây khốn, cơ thể tráng kiện, vạm vỡ năm nào giờ chỉ còn da bọc xương. Khởi Tất nhìn Bát Tư Ba, lắc đầu:
- Người anh em, chỉ e đây là lần cuối cùng ta gặp được đệ. Thầy thuốc nói rằng, bệnh huyết hư của ta vô phương cứu chữa, chỉ còn chờ chết mà thôi.
Bát Tư Ba sững sờ, nỗi âu lo hiển hiện trên nét mặt:
- Sao lại như vậy? Ta sẽ lập tức xin với Bệ hạ, để ngài cử danh y tốt nhất đến thăm bệnh cho huynh. Huynh cần dùng bất cứ loại thuốc quý hiếm nào, cũng xin nói cho ta biết.
Khởi Tất nghiêng đầu ho một chặp.
- Vô ích thôi. Bao năm qua đã chữa đủ mọi cách mà vẫn không khỏi, ta hết hy vọng rồi. Ta chỉ lo cho đứa con gái bé bỏng này.
Bát Tư Ba buồn bã ngước nhìn gương mặt tiều tụy của Khởi Tất:
- Người anh em ốm đau như vậy mà vẫn cất công đến đây, chắc hẳn không phải chỉ để hàn huyên chuyện cũ. Huynh cần ta giúp điều gì, xin cứ nói, ta nhất định sẽ tận lực!
Khởi Tất đưa mắt nhìn cô con gái Bối Đan. Bát Tư Ba hiểu ý, bảo tôi đưa Bối Đan ra ngoài hóng gió. Tôi bèn dắt cô bé ra vườn chơi đùa, trò chuyện. Lúc đầu còn lạ lẫm, cô bé có vẻ khép nép, nhưng sau quen dần thì tỏ ra rất mực thân thiết. Tôi vừa chơi đùa với cô bé vừa dỏng tai nghe ngóng câu chuyện trong phòng khách.
- Quả là ta có việc muốn thỉnh cầu đế sư, mong ngài nể tình ông lão già cả này mà nhận lời cho.
Giọng nói của Khởi Tất chất chứa nỗi nghẹn ngào, xúc động.
- Xin người anh em hãy đứng lên. Huynh đang đau ốm, đừng quỳ trên nền đá lạnh như thế.
=========
[1] Là loại đá quý màu lục, dễ biến sắc tùy theo góc phản chiếu và khúc xạ ánh sáng, dùng làm đồ trang sức, mỹ nghệ. (DG)
[2] Loại đá có màu xanh biếc, còn gọi là đã Lapis lazuli. (DG)
[3] Xà cừ: tên một loại vỏ sò rất lớn, phân bố chủ yếu ở Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương.
[4] Ngày nay là Pakistan, Afghanistan, nơi chuyên sản xuất đá thanh kim.
Tôi có thể đoán ra, Khởi Tất đã quỳ dưới chân Bát Tư Ba.
- Đệ bây giờ đã là bậc đế sư, hoàng tử, công chúa trong cung gặp đệ cũng phải cung kính vái chào. Vậy mà đệ vẫn nhớ đến người anh em từ hơn hai mươi năm trước này. Đệ quả là người nặng tình nặng nghĩa!
Khởi Tất khóc lóc một hồi. Bát Tư Ba phải ra sức an ủi, động viên, Khởi Tất mới kiềm chế nỗi xúc động, nói tiếp:
- Nếu phải ra đi, ta không còn gì nuối tiếc, ta chi lo cho đứa con gái bé bỏng, tội nghiệp này. Nếu ta chết, mấy thằng anh trai lòng dạ độc ác của nó chắc chắn sẽ không tìm cho nó một người chồng tử tế đâu.
Nghe lời tâm sự của Khởi Tất, tôi mới chợt nhớ ra, trước đây từng nghe được một vài tin đồn. Hồi trẻ, Khởi Tất quá phong lưu, phóng đãng nên đã sinh ra cả một bầy con trai. Mười cậu ấm suốt ngày tranh giành, đấu đá, chỉ mải mê ăn chơi, rượu chè, cờ bạc. Nhưng đất phong của Khởi Tất đã bị Hốt Tất Liệt tước gần hết, lấy đâu ra của cải cung phụng cho đám đổ đốn vô đối ấy. Nghe nói, mấy năm gần đây, cuộc sống của Khởi Tất rất ư khốn khó, cả Vương phủ đông đúc phải sống dựa vào việc cầm cố hết tài sản này đến của cải khác. Đám con trai bất hiếu kia chỉ mong sao cha mình chết sớm để còn chia tài sản.
Bát Tư Ba an ủi Khởi Tất:
- Xin người anh em đừng quá lo lắng. Ta nhất định sẽ tìm cho Công chúa Bối Đan một gia đình tử tế làm quan trong triều.
Nhưng Khởi Tất lại nói rằng:
- Người anh em, chi bằng hai gia đình chúng ta hãy kết làm thông gia. Hãy cho con gái ta làm cháu dâu đệ, được không? Bối Đan trở thành con dâu của phái Sakya thì nó mới có thể tránh khỏi cảnh bị nhà chồng khinh rẻ vì số của hồi môn bọt bèo.
Tôi điếng người, đến nỗi Bối Đan gọi mấy tiếng “dì Lam” mà tôi cũng không nghe thấy. Thì ra, Khởi Tất lê tấm thân bệnh tật đến tận Lâm Thao là vì mục đích này. Nhưng trước đó, Bát Tư Ba đã nhận lời với Zhouma và Kunga Zangpo rồi kia mà!
- Chuyện này... – Bát Tư Ba do dự. – Mấy năm trước, ta đã chỉ định hôn sự cho Dharma, cô dâu là con gái của người em gái lớn của ta...
Khởi Tất ra sức thuyết phục:
- Không sao cả, chỉ cần con gái ta không bị thiệt thòi với phận làm thiếp là được.
Tuy Khởi Tất đã sa sút nhưng dù sao con gái cậu ta cũng là công chúa Mông Cổ nên nếu đặt địa vị của Bối Đan ngang bằng với Jumodaban, vợ chồng Kunga Zangpo cũng không thể phản đối. Căn phòng yên ắng đến lạnh người. Tôi lắng nghe hồi lâu mới thấy tiếng Bát Tư Ba trịnh trọng đáp:
- Được, người anh em, ta nhận lời với huynh. Sau khi huynh ra đi, ta sẽ thay huynh chăm sóc Công chúa Bối Đan. Ta cũng hứa sẽ không để cô bé phải chịu thiệt thòi khi về làm dâu phái Sakya.
Tôi sững sờ, ngay sau đó cảm giác buồn tủi dâng lên ngập lòng. Tôi quay sang ngắm nhìn đứa bé hồn nhiên kia, cô bé hơn Dharma bốn tuổi. Không hiểu vì sao, cô bé làm tôi nhớ đến Kháp Na và Mukaton.
Buổi tối, Bát Tư Ba cần mẫn tết chuỗi vòng đeo tay dưới ánh đèn dầu. Tôi đặt bát canh yến trước mặt chàng:
- Vì sao chàng nhận lời với Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi?
Chàng đặt chuỗi hạt xuống, chầm chậm uống bát canh yến.
- Vương gia Khoát Đoan, cha của huynh ấy có ơn với giáo phái Sakya. Ta và huynh ấy lại là anh em kết nghĩa đã hơn hai mươi năm, huynh ấy quỳ xuống cầu xin ta như vậy, làm sao ta từ chối cho được. Hơn nữa, Mukaton vì Kháp Na mà chết, trong lòng ta rất áy náy. Ta chấp nhận cuộc hôn nhân này cũng là để bù đắp cho Khởi Tất.
- Chàng không thấy Dharma và Bối Đan rất giống Kháp Na và Mukaton sao?
Con trai của Kháp Na lấy cháu gái của Mukaton, số phận thật lạ kỳ, nhưng không biết đây sẽ là mối lương duyên hay là nghiệt duyên nữa.
Chàng vuốt ve mái tóc màu lam của tôi, mỉm cười bảo:
- Ta biết em đang lo lắng chuyện gì. Ta tin rằng chúng sẽ không bất hạnh như Kháp Na và Mukaton. Chờ khi Dharma trưởng thành, tới Trung Đô, ta sẽ cho hai đứa trẻ làm quen với nhau, sau đó mới cho chúng kết hôn.
Tôi lắc đầu buồn bã. Tuy là mẹ nhưng tôi chẳng có quyền quyết định chuyện hôn sự của con trai, tất cả đều phải nghe theo Bát Tư Ba. Tôi không thấy thoải mái chút nào. Tôi luôn cổ súy cho hôn nhân một vợ một chồng, đầu bạc răng long, chứ không phải những cuộc hôn nhân chính trị, ép những đứa trẻ chẳng hề quen biết nhau phải chung sống với nhau. Nhưng tôi cũng hiểu rằng đó là tục lệ phổ biến của xã hội này. Cô dâu thường chỉ biết mặt chú rể sau khi khăn che mặt được vén lên. Nếu người con trai có địa vị, quyền thế thì có thể cưới cả đám vợ cũng không sao, Kháp Na cũng từng cưới ba người vợ đó thôi. Tôi sống với loài người chừng ấy năm, lẽ ra phải quen những phong tục tập quán này mới đúng chứ! Dharma là người thừa kế duy nhất của phái Sakya, nó sẽ giúp Sakya phát triển lớn mạnh, sẽ sinh cho nhà họ Khon thật nhiều con cái. Phái Sakya chắc chắn sẽ không đồng ý nếu nó chỉ lấy một người vợ duy nhất.
Không biết vì sao, trong lòng tôi cứ thấp thỏm lo âu. Tôi đưa mắt nhìn Bát Tư Ba. Chàng đang tập trung tinh thần, miệt mài tết dây xâu chuỗi hạt dưới ánh nến. Chốc chốc chàng lại nhắm mắt nghỉ ngơi một lát rồi mới tiếp tục công việc. Thực ra, Bát Tư Ba không phải một con người hoàn hảo. Chàng đã hình thành cho mình một thói quen, phàm việc gì cũng phải xét đến lợi ích của giáo phái trước nhất. Đó là kiểu giáo dục đã ăn sâu vào tiềm thức của chàng từ nhỏ, nhất là sau khi được chọn làm người kế thừa của giáo phái. Nhưng nếu chàng có thể trở thành một người như đại sư Ban Trí Đạt kỳ vọng, luôn đặt lợi ích của giáo phái lên trên tất thảy, gạt bỏ mọi tình cảm cá nhân thì có lẽ chàng đã không phải đau khổ như vậy. Tôi thầm nguyện cầu, ngày sau, Dharma của tôi sẽ không giống chàng.
Chiếc vòng được hoàn tất sau ba ngày vất vả. Hôm ấy, Bát Tư Ba trao cho tôi một chiếc túi gấm rất đẹp.
- Đẹp quá!
Tôi mở túi, lấy chiếc vòng ra, thốt lên kinh ngạc. Những viên đá khổng tước và đá thanh kim lóng lánh huyền hoặc. Những miếng xà cừ được gọt tỉa thành hình hoa sen và lá sen, vô cùng sống động, tài tình. Tôi háo hức xỏ luôn vào tay.
- Đi theo chàng hơn hai mươi năm mà em không biết chàng lại khéo tay như vậy.
Chàng đỏ mặt ngại ngùng:
- Mẹ ta đã hướng dẫn ta cách làm đó. Lúc nhỏ, ta thường ngồi trong lòng mẹ, xem bà bện dây xâu những chuỗi tràng hạt. Mẹ đã xâu rất nhiều chuỗi hạt với hình dáng, kiểu cách khác nhau, rất sinh động. Tiếc là nhiều năm qua ta không làm việc này nên đã quên hết các kiểu dáng độc đáo, chỉ làm được chiếc vòng tay đơn giản thế này thôi.
Tôi xoay đi xoay lại, ngắm mãi không chán.
- Em thích lắm, rất thích, rất đẹp. Em sẽ đeo chiếc vòng này suốt đời!
Bàn tay chàng dịu dàng vuốt ve mái tóc tôi, ngừng lại nơi viên ngọc Linh hồn lấp lánh ánh sáng.
- Ngày nào em cũng mang theo bên mình ngọc Linh hồn và sợi dây của Kháp Na. Ta cũng muốn tự tay làm một món quà gì đó tặng em, nghĩ mãi mới ra thứ này.
Chàng nắm tay tôi, ngắm nghía chuỗi vòng trên cổ tay tôi, giọng chàng chợt buồn:
- Em thích nó thì hãy đeo nó mỗi ngày, thấy nó cũng như thấy ta vậy.
Tôi nhận ra trong câu nói của chàng dư vị chua xót của lời giã biệt, lòng không khỏi băn khoăn:
- Chàng định đuổi em đi ư?
- Lam Kha, em đã ở bên ta hai năm. Hai năm không phải bận lòng với việc chính sự và những việc mệt mỏi khác, chỉ có em cận kề bên ta, ta vui lắm. Đây là quãng thời gian hạnh phúc nhất đời ta.
Chàng thả tay tôi xuống, chầm chậm cất bước đến bên cửa sổ, lặng nhìn cây bạch dương vừa mọc thêm những chồi non mơn mởn ngoài kìa, khẽ thở dài:
- Hai năm là đủ rồi.
Tôi bước lại gần chàng, ngước nhìn bóng dáng gầy guộc của chàng mà lòng se sắt:
- Em sẽ không đi đâu cả...
Chàng đột ngột quay lại:
- Đừng lãng phí thời gian cho một kẻ sắp chết như ta! Em đã trọn tình vẹn nghĩa với ta, em nên quay về Sakya thăm Dharma, nó sáu tuổi rồi đó. Mấy hôm trước ta nhận được thư của Kunga Zangpo, viết rằng Dharma rất tinh nghịch, đáng yêu và vô cùng thông minh, càng ngày càng giống Kháp Na. Em không muốn về thăm con sao?
- Em muốn. – Tôi bình thản nhìn vào mắt chàng. – Nhưng đối với em, người quan trọng hơn cả lúc này là chàng. Dharma còn cả chặng đường dài phía trước, nhưng chàng...
Tôi chưa nói hết câu, chàng đã sụp xuống khiến tôi hoảng hốt, vội chạy lại đỡ lấy chàng. Tôi lay gọi chàng nhưng chàng không đáp lại. Tôi dìu chàng đến bên giường, đỡ chàng nằm xuống, vuốt ve vầng trán chàng, gương mặt chàng vàng vọt, hơi thở yếu ớt, sự sống đang chầm chậm bỏ chàng mà đi.
Có lẽ vì vậy mà chàng muốn tôi ra đi, có lẽ vì vậy mà chàng gấp rút sắp xếp chuyện hôn sự của Dharma. Chàng đã dự cảm được tình trạng sức khỏe của mình nên muốn sắp xếp ổn thỏa mọi thứ?
Tôi lập tức cúi xuống, đặt môi lên miệng chàng, truyền linh khí cho chàng. Sở dĩ tôi phải nén chặt nỗi nhớ con trong lòng và không chịu rời xa chàng một bước là vì tôi biết rằng chàng có thể gục xuống bất cứ lúc nào. Tôi chầm chậm truyền linh khí cho chàng, đôi mắt chàng vẫn khép chặt, bờ môi khô lạnh, làn da tái xám. Tuy đã lấy lại hình hài con người nhưng tôi vẫn ngày đêm khổ công tu luyện, không dám trễ nải. Bởi vì tôi biết mình phải chuẩn bị một lượng linh khí thật dồi dào phòng khi cần kíp. Và vì tôi là người duy nhất có thể kéo dài sự sống cho chàng.
Tôi không dám truyền linh khí quá lâu, sợ khi chàng tỉnh lại, sự tiếp xúc da thịt giữa chúng tôi sẽ khiến chàng đau đớn. Tôi ngồi bên giường, ngắm nhìn gương mặt đang say ngủ của chàng, tử khí vây quanh chàng đã tan biến. Gương mặt chàng an nhiên, tĩnh tại. Tôi nhẹ nhàng chạm vào bờ môi, vầng trán và chiếc cổ nhăn nheo của chàng. Tình yêu thuở thiếu thời của tôi dành cho chàng đã lên một nấc mới. Không chỉ là yêu, mà với tôi, chàng là người thân yêu nhất, đáng tin cậy nhất, là người tôi thương nhớ nhất, không muốn rời xa nhất. Ánh mặt trời tràn vào căn phòng, chiếu sáng chuỗi hạt trên cổ tay tôi. Những viên đá khổng tước, đá thanh kim lấp lánh, rực rỡ, lung linh, huyền ảo.
Chàng tỉnh lại. Tôi rót nước cho chàng, cầm lá thư trên bàn, hỏi:
- Drakpa Odzer vừa đến, báo rằng có mật thư gửi từ Sakya. Chàng có muốn đọc ngay không?
Chàng gật đầu, đón lấy bức thư, mở ra đọc. Tôi thấy sắc mặt chàng càng lúc càng xấu đi, vội lao đến, hỏi:
- Thư viết gì vậy?
Chừng như rất tức giận, bàn tay cầm lá thư của chàng run lên:
- Kunga Zangpo càng ngày càng tồi tệ, thủ đoạn độc ác, chỉ vì tranh chấp lãnh thổ, dám gây ra đổ máu!
Sự việc là thế này: Vùng Ali do quý tộc Nangsababoxi cai quản, cũng là một trong mười ba vạn hộ hầu do Bát Tư Ba sắc phong. Nangsababoxi có quan hệ mật thiết với phái Phaktru nên Ali lâu nay vẫn được xem là thuộc phạm vi thế lực của phái Phaktru. Kunga Zangpo ra lệnh trao đổi các cư dân Mid ở vùng Ali của Nangsababoxi với các hộ dân thuộc vùng Magarze bên hồ thiêng Yamdrok-tso. Nagarze vốn thuộc phạm vi thế lực của phái Drikung nên động thái này của Kunga Zangpo rõ ràng là muốn tạo ra mâu thuẫn giữa hai phái Drikung và Phaktru. Tất nhiên là Nangsababoxi không đồng ý, đã ra sức chống đối. Kunga Zangpo mua chuộc người hầu cận của Nangsababoxi, một nhà sư mười tám tuổi, tên gọi Damparinqu. Tên hầu cận này đã hạ độc giết chết Nangsababoxi. Kunga Zangpo ban thưởng cho Damparinqu bằng cách cắt vùng Maizho Pakza tặng cho hắn. Nangsababoxi không có người thừa kế nên nhân lúc phái Phaktru chưa kịp can thiệp vào việc này, Kunga Zangpo đã nhanh tay chiếm đoạt toàn bộ đất đai của Nangsababoxi.
Tuy việc làm của Kunga Zangpo đã giúp phái Sakya giành được một địa bàn hết sức rộng lớn nhưng đó là đất đai có được nhờ sử dụng thủ đoạn bỉ ổi, gây tai tiếng xấu và kích động sự phẫn nộ của quần chúng. Tôi không muốn Bát Tư Ba vì tức giận mà ảnh hưởng đến sức khỏe nên đã nói đỡ cho Kunga Zangpo:
- Tuy làm vậy thật tàn bạo nhưng cũng có thể hiểu được. Cậu ấy muốn trả thù hai phái Phaktru và Drikung.
Bát Tư Ba tức giận:
- Ta cũng muốn trả thù nhưng phải hành động thật quang minh chính đại, tuyệt đối không thể dùng thủ đoạn tàn độc, đê tiện như vậy được!
Tôi thở dài:
- Kunga Zangpo giờ đã là bản khâm của giáo phái, chàng không có nhà, Dharma lại còn nhỏ nên bản khâm sẽ là người nắm trong tay quyền lực lớn nhất đất Tạng. Quyền lực trong tay, lâu dần người ta sẽ thay đổi cách nghĩ.
Kunga Zangpo là một người cơ trí, mẫn cán. Phán xét một cách công bằng thì trong vòng mấy năm kể từ khi nhậm chức bản khâm, Kunga Zangpo đã có những cống hiến to lớn cho phái Sakya, phần lãnh thổ thuộc quyền sở hữu của phái Sakya nhờ cậu ta mà nhiều lên gấp đôi. Và tất cả đất đai này đều thuộc về Sakya, Kunga Zangpo không hề có ý đồ tư lợi. Cậu ta đã giám sát xây dựng hoàn thiện gian chính điện quan trọng nhất của đền Nam Sakya, đúc thành công bức tượng Quan Âm Bồ Tát mạ vàng để tưởng niệm đại sư Ban Trí Đạt và lệnh cho thợ thủ công hoàn thành toàn bộ số bích họa dọc hành lang bên ngoài đại điện. Dưới bàn tay điều hành của Kunga Zangpo, quy mô ngôi đền Nam Sakya đã bước đầu thành hình. Tầm ảnh hưởng của cậu ta ở Sakya càng ngày càng lớn. Rất nhiều người trong giáo phái tỏ ra khâm phục và dần dà ủng hộ cậu ta hết lòng.
- Cậu ta có công với giáo phái nhưng công lao đó không thể bù đắp những tội ác mà cậu ta gây ra.
Bát Tư Ba gắng gượng ngồi dậy, bảo tôi:
- Giúp ta một tay, đỡ ta ngồi dậy. Ta phải viết thư đe nẹt, giáo huấn cậu ta mới được.
Dù rất lo lắng cho sức khỏe của chàng nhưng tôi cũng đành kéo chiếc bàn làm việc nhỏ của chàng tới sát mép giường và giúp chàng mài mực. Mấy ngày sau, bức thư khiển trách Kunga Zangpo được gửi đi từ Lâm Thao. Khi ấy, chúng tôi không hề biết rằng, mâu thuẫn giữa Kunga Zangpo và Bát Tư Ba đã bắt đầu nảy sinh và nó sẽ lớn dần, trở thành cơn cuồng phong nhuốm máu về sau.
Mùa hè năm đó, chúng tôi nhận được tin tức từ Đại Đô: Chân Kim đã được lập làm thái tử!
Các đại thần người Hán nhiều lần tấu chương, đưa ra ý kiến, các vương triều ở Trung Nguyên xưa nay đều có thông lệ, hoàng đế lập thái tử kế ngôi ngay trong thời gian tại vị. Nhập gia thì phải tùy tục, vậy nên Hốt Tất Liệt trở thành thái tử danh chính ngôn thuận đầu tiên trong lịch sử Mông Cổ.
~.~.~.~.~.~
Tôi khẽ thở dài:
- Chân Kim trở thành vị thái tử đầu tiên trong lịch sử Mông Cổ. Tin tức này làm dấy lên hai nguồn ý kiến trái chiều trong triều đình nhà Nguyên. Người Hán thì ủng hộ còn người Mông Cổ thì bất mãn.
Chàng trai trẻ ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao? Lẽ nào Chân Kim không được lòng người Mông Cổ?
- Các quý tộc Mông Cổ đã tranh cãi rất nhiều về Chân Kim. – Nhớ đến vị thái tử mà số phận rất mực lận đận, bi đát này, lòng tôi chợt buồn ảo não. – Chân Kim từ nhỏ đã được nuôi dưỡng trong môi trường Nho học của người Hán. Bên cạnh cậu ấy lúc nào cũng có hàng tá các nhà Nho tài ba vây quanh, họ đều là những nhân vật chủ chốt, đại diện cho chủ trương trị quốc bằng Nho giáo trong triều đình Hốt Tất Liệt. Đối với người Hán, việc lập Chân Kim làm thái tử là phù hợp với truyền thống của các vương triều Trung Nguyên, bởi vậy, họ đặt rất nhiều kỳ vọng ở cậu ta. Họ cho rằng, Chân Kim là người kế vị tương lai, cậu ta sẽ bắt đầu một thời đại mới của nên Nho trị, vị thế của người Hán trong triều đình nhà Nguyên chắc chắn sẽ được nâng cao.
Chàng trai trẻ lắc đầu:
- Điều này chắc chắn động chạm đến quyền lợi của người Mông Cổ.
Tôi gật đầu:
- Đúng vậy. Người Mông Cổ cho rằng Chân Kim đã bị Hán hóa, nếu cậu ta kế vị thì triều đình này sẽ trở thành thiên hạ của người Hán. Hơn nữa, người Mông Cổ không có thông lệ lập người kế vị khi Đại hãn vẫn còn sống. Mấy trăm năm qua, thông lệ của người Mông Cổ vẫn là: sau khi Đại hãn qua đời, các vương gia sẽ tổ chức hội nghị Kurultai để bầu chọn người kế nhiệm ngôi vị Hãn vương tiếp theo. Đại hội này không thông qua thì không ai có thể trở thành Đại hãn hợp pháp. Nếu đại hội không thể lập tức chọn ra Hãn vương phù hợp thì chính quyền sẽ do hoàng hậu tạm thời cai quản, cho đến khi đại hội chọn ra Hãn vương kế nhiệm.
Bởi vậy, chức vị thái tử của Chân Kim đã gây nhiều tranh cái trong nội bộ các quý tộc Mông Cổ.
cũng không đổi bản sắc;
Vàng ròng bị nung chảy
cũng không biến thành màu khác.”
(Cách ngôn Sakya)
Năm 1273 – tức năm Quý Dậu, Âm Thủy theo lịch Tạng – tức niên hiệu Hàm Thuần thứ chín, nhà Nam Tống – tức niên hiệu Chí Nguyên thứ mười, nhà Nguyên.
Bát Tư Ba ba mươi chín tuổi, Chân Kim ba mươi tuổi.
- Thưa cô, tiệm trang sức của chúng tôi nổi tiếng nhất nhì Lâm Thao này đó. – Ông chủ tiệm đon đả mời chào, câu kéo. – Thiếu nữ có nhan sắc khuynh nước khuynh thành như cô nương nên chọn cho mình món trang sức thượng hạng mới xứng, mới tôn thêm vẻ đẹp như hoa như nguyệt của cô.
Tôi dìu Bát Tư Ba đi lại ngắm nghía cửa tiệm trang sức này.
- Này, chủ quán, chúng tôi chỉ muốn mua một số phụ kiện chất lượng tốt để về tự kết hợp.
- Hàng rời, chất lượng tốt ư? – Ông chủ tiệm quả là người có đầu óc kinh doanh nhạy bén, đối đáp lượm liền. – Có chứ, có chứ. Các vị cứ khảo sát cả thành phố Lâm Thao này sẽ thấy, tiệm chúng tôi đây là tiệm trang sức có nhiều kiểu dáng mới nhất, đẹp nhất. Không biết ông lão định làm thành thứ đồ trang sức gì? Cây thoa Kim Phượng, vòng tay bằng ngọc hay là vòng cổ?
Tôi khẽ chau mày khi nghe ông ta gọi như vậy. Bát Tư Ba chẳng bận tâm, chàng đáp:
- Một chuỗi hạt đeo tay. Tôi sẽ tự nghĩ ra kiểu dáng và tự xâu kết.
- Một chuỗi? Chỉ là vòng tay thôi ư? – Ông chủ tiệm tiếp tục buôn bán nước bọt, câu kéo khách hàng. – Con gái cụ xinh như mộng thế này, phải cho cô ấy đeo vàng bạc, châu báu mới xứng với cô ấy, chỉ một chuỗi hạt thì ăn thua gì!
- Một chuỗi là đủ. Chúng tôi chỉ muốn mua một ít đá khổng tước [1], đá thanh kim [2] và hạt xà cừ [3]. Nếu ông không có, chúng tôi sẽ đi tiệm khác.
Tôi làm mặt lạnh, trách móc:
- Và này ông chủ tiệm, đây là chồng tôi.
Ông chủ tiệm không khỏi sững sờ, đưa mắt quan sát kĩ lưỡng hai vị khách ăn vận hết sức giản dị trước mặt. Có lẽ vì nhận thấy phong thái khác người của chúng tôi, ông ta mới đích thân ra tiếp đón thế này. Nhưng ông chủ tiệm cũng là người rất mau mắn, nhanh trí!
- Cô nương quả là người có con mắt tinh tường! Tướng công của cô diện mạo phi phàm, phong thái đĩnh đạc, rất đáng ngưỡng mộ!
Tôi phì cười, đúng là mồm mép tép nhảy, đưa người ta một bước lên mây xanh. Bát Tư Ba lúc này nhìn như người đã ngoài năm mươi tuổi, da mặt nhăn nheo, vóc dáng cao gầy, lom khom. Tuy gương mặt chàng vẫn toát lên sự thông tuệ, trác tuyệt nhưng chẳng thể dùng những cụm từ như “diện mạo phi phàm” để mô tả chàng được nữa. Tôi nhìn trộm Bát Tư Ba, thấy chàng không hề phật ý, cũng không để tâm những lời ông chủ tiệm vừa nói.
Tôi trừng mắt lườm ông ta một cái:
- Ông mau lấy đồ ra đi, không là chúng tôi đi luôn đây.
- Ấy chớ, đá khổng tước, đá thanh kim và hạt xà cừ thượng hạng, tiệm chúng tôi đều có cả và đều được nhập về từ Thiên Trúc, Kabul [4] xa xôi ngàn dặm, hàng thật, giá cả phải chăng. Thử hỏi cả thành Lâm Thao này, làm gì có tiệm vàng nào có được hàng thượng hạng như ở tiệm chúng tôi chứ?
Ông ta vừa quảng cáo vừa ôm một cái hộp kiểu dáng rất bắt mắt ra. Quả nhiên không ngoa, đều là trang sức thượng hạng. Bát Tư Ba từng chiêm ngưỡng và sở hữu nhiều vàng bạc, châu báu nên chàng rất rành, tự mình lựa những hạt đẹp nhất, tốt nhất.
Lúc rời khỏi tiệm trang sức, mặt trời đã ngả về tây, ánh hoàng hôn vàng ruộm đổ lên vai chúng tôi, hơi ấm mùa xuân thấm vào tận buồng tim lá phổi. Chúng tôi cùng hít hà cho căng tràn lồng ngực hương hoa đào ngan ngát trong không gian rồi nhìn nhau mỉm cười, quay về trang viên. Hai năm qua, chúng tôi sống ẩn dật ở Lâm Thao, không ai hay biết chủ nhân của trang viên rộng lớn này, ông lão cao gầy ấy chính là vị đế sư chưa đầy bốn mươi tuổi. Ngày thường, chúng tôi rất ít khi ra ngoài, nhưng cứ xuất hiện là sẽ có người chỉ trỏ, bàn tán. Chắc chắn là những lời đàm tiếu chẳng mấy hay ho về cặp đôi chồng già – vợ trẻ này.
Hôm nay, Bát Tư Ba đột nhiên cao hứng muốn làm vòng tay cho tôi. Chàng muốn tự mình đi chọn đồ, thế là chúng tôi cùng nhau ra phố. Quả không ngoài dự đoán, người ta xúm đông xúm đỏ, chỉ trỏ, bàn tán sau lưng chúng tôi, thậm chí không ít những chú chàng trẻ trai còn đánh bạo, ra rả châm chọc:
- Ôi! Bông hoa nhài cắm bãi phân trâu!
Nhưng chúng tôi chẳng để tâm đến họ, tôi cũng chẳng buồn biến phép dạy cho họ một bài học. Chúng tôi vẫn tay trong tay, thủng thẳng cất bước. Giờ đây, khi cảm giác đau đớn ngày càng giảm đi, chàng rất thích được nắm tay tôi. Một buổi chiều mùa xuân êm đềm như thế, tôi và người tôi yêu cùng nhau tận hưởng thế giới của riêng hai người. Bình yên, đầm ấm, với chúng tôi thế là đủ.
Kể từ khi dọn đến Lâm Thao, Bát Tư Ba để tôi được đường đường chính chính xuất hiện trước mặt mọi người, không cần phải giả làm người hầu như trước nữa, chỉ đề nghị tôi giấu mái tóc mà màu mắt xanh đi. Và tôi đã ở bên chàng với danh phận là Lam phu nhân. Tuy không công bố chính thức nhưng mọi người đều ngầm thừa nhận mối quan hệ giữa hai chúng tôi. Sakya vốn là giáo phái Phật giáo cho phép tăng sĩ kết hôn nên không ai thắc mắc hay nghi hoặc gì. Khi tin tức được truyền đến Trung Đô, Hốt Tất Liệt đã rất vui mừng và quyết định ban phong tước vị. Nhưng Bát Tư Ba kiên quyết từ chối, và vì thế, tôi đã không phải đội lên đầu thứ trang sức nặng trình trịch mà tước vị Cáo mệnh phu nhân mang lại.
Khi chúng tôi vừa về đến trang viên, Drakpa Odzer lập tức bẩm báo:
- Vương gia Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi dẫn theo con gái Bối Đan đến thăm pháp vương, ngài đã chờ khá lâu rồi.
Chúng tôi cùng vào phòng khách, Khởi Tất vội vã kéo cô con gái chừng mười tuổi đứng lên, vái chào chúng tôi.
Bát Tư Ba bước lại, đỡ họ dậy.
- Người anh em đừng khách sáo. Huynh vượt đường sá xa xôi đến đây thăm ta, ta vui lắm!
Khởi Tất năm nay năm mươi tuổi, hơn Bát Tư Ba mười một tuổi. Những năm qua, cậu ta đã già đi rất nhanh, bệnh tật vây khốn, cơ thể tráng kiện, vạm vỡ năm nào giờ chỉ còn da bọc xương. Khởi Tất nhìn Bát Tư Ba, lắc đầu:
- Người anh em, chỉ e đây là lần cuối cùng ta gặp được đệ. Thầy thuốc nói rằng, bệnh huyết hư của ta vô phương cứu chữa, chỉ còn chờ chết mà thôi.
Bát Tư Ba sững sờ, nỗi âu lo hiển hiện trên nét mặt:
- Sao lại như vậy? Ta sẽ lập tức xin với Bệ hạ, để ngài cử danh y tốt nhất đến thăm bệnh cho huynh. Huynh cần dùng bất cứ loại thuốc quý hiếm nào, cũng xin nói cho ta biết.
Khởi Tất nghiêng đầu ho một chặp.
- Vô ích thôi. Bao năm qua đã chữa đủ mọi cách mà vẫn không khỏi, ta hết hy vọng rồi. Ta chỉ lo cho đứa con gái bé bỏng này.
Bát Tư Ba buồn bã ngước nhìn gương mặt tiều tụy của Khởi Tất:
- Người anh em ốm đau như vậy mà vẫn cất công đến đây, chắc hẳn không phải chỉ để hàn huyên chuyện cũ. Huynh cần ta giúp điều gì, xin cứ nói, ta nhất định sẽ tận lực!
Khởi Tất đưa mắt nhìn cô con gái Bối Đan. Bát Tư Ba hiểu ý, bảo tôi đưa Bối Đan ra ngoài hóng gió. Tôi bèn dắt cô bé ra vườn chơi đùa, trò chuyện. Lúc đầu còn lạ lẫm, cô bé có vẻ khép nép, nhưng sau quen dần thì tỏ ra rất mực thân thiết. Tôi vừa chơi đùa với cô bé vừa dỏng tai nghe ngóng câu chuyện trong phòng khách.
- Quả là ta có việc muốn thỉnh cầu đế sư, mong ngài nể tình ông lão già cả này mà nhận lời cho.
Giọng nói của Khởi Tất chất chứa nỗi nghẹn ngào, xúc động.
- Xin người anh em hãy đứng lên. Huynh đang đau ốm, đừng quỳ trên nền đá lạnh như thế.
=========
[1] Là loại đá quý màu lục, dễ biến sắc tùy theo góc phản chiếu và khúc xạ ánh sáng, dùng làm đồ trang sức, mỹ nghệ. (DG)
[2] Loại đá có màu xanh biếc, còn gọi là đã Lapis lazuli. (DG)
[3] Xà cừ: tên một loại vỏ sò rất lớn, phân bố chủ yếu ở Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương.
[4] Ngày nay là Pakistan, Afghanistan, nơi chuyên sản xuất đá thanh kim.
Tôi có thể đoán ra, Khởi Tất đã quỳ dưới chân Bát Tư Ba.
- Đệ bây giờ đã là bậc đế sư, hoàng tử, công chúa trong cung gặp đệ cũng phải cung kính vái chào. Vậy mà đệ vẫn nhớ đến người anh em từ hơn hai mươi năm trước này. Đệ quả là người nặng tình nặng nghĩa!
Khởi Tất khóc lóc một hồi. Bát Tư Ba phải ra sức an ủi, động viên, Khởi Tất mới kiềm chế nỗi xúc động, nói tiếp:
- Nếu phải ra đi, ta không còn gì nuối tiếc, ta chi lo cho đứa con gái bé bỏng, tội nghiệp này. Nếu ta chết, mấy thằng anh trai lòng dạ độc ác của nó chắc chắn sẽ không tìm cho nó một người chồng tử tế đâu.
Nghe lời tâm sự của Khởi Tất, tôi mới chợt nhớ ra, trước đây từng nghe được một vài tin đồn. Hồi trẻ, Khởi Tất quá phong lưu, phóng đãng nên đã sinh ra cả một bầy con trai. Mười cậu ấm suốt ngày tranh giành, đấu đá, chỉ mải mê ăn chơi, rượu chè, cờ bạc. Nhưng đất phong của Khởi Tất đã bị Hốt Tất Liệt tước gần hết, lấy đâu ra của cải cung phụng cho đám đổ đốn vô đối ấy. Nghe nói, mấy năm gần đây, cuộc sống của Khởi Tất rất ư khốn khó, cả Vương phủ đông đúc phải sống dựa vào việc cầm cố hết tài sản này đến của cải khác. Đám con trai bất hiếu kia chỉ mong sao cha mình chết sớm để còn chia tài sản.
Bát Tư Ba an ủi Khởi Tất:
- Xin người anh em đừng quá lo lắng. Ta nhất định sẽ tìm cho Công chúa Bối Đan một gia đình tử tế làm quan trong triều.
Nhưng Khởi Tất lại nói rằng:
- Người anh em, chi bằng hai gia đình chúng ta hãy kết làm thông gia. Hãy cho con gái ta làm cháu dâu đệ, được không? Bối Đan trở thành con dâu của phái Sakya thì nó mới có thể tránh khỏi cảnh bị nhà chồng khinh rẻ vì số của hồi môn bọt bèo.
Tôi điếng người, đến nỗi Bối Đan gọi mấy tiếng “dì Lam” mà tôi cũng không nghe thấy. Thì ra, Khởi Tất lê tấm thân bệnh tật đến tận Lâm Thao là vì mục đích này. Nhưng trước đó, Bát Tư Ba đã nhận lời với Zhouma và Kunga Zangpo rồi kia mà!
- Chuyện này... – Bát Tư Ba do dự. – Mấy năm trước, ta đã chỉ định hôn sự cho Dharma, cô dâu là con gái của người em gái lớn của ta...
Khởi Tất ra sức thuyết phục:
- Không sao cả, chỉ cần con gái ta không bị thiệt thòi với phận làm thiếp là được.
Tuy Khởi Tất đã sa sút nhưng dù sao con gái cậu ta cũng là công chúa Mông Cổ nên nếu đặt địa vị của Bối Đan ngang bằng với Jumodaban, vợ chồng Kunga Zangpo cũng không thể phản đối. Căn phòng yên ắng đến lạnh người. Tôi lắng nghe hồi lâu mới thấy tiếng Bát Tư Ba trịnh trọng đáp:
- Được, người anh em, ta nhận lời với huynh. Sau khi huynh ra đi, ta sẽ thay huynh chăm sóc Công chúa Bối Đan. Ta cũng hứa sẽ không để cô bé phải chịu thiệt thòi khi về làm dâu phái Sakya.
Tôi sững sờ, ngay sau đó cảm giác buồn tủi dâng lên ngập lòng. Tôi quay sang ngắm nhìn đứa bé hồn nhiên kia, cô bé hơn Dharma bốn tuổi. Không hiểu vì sao, cô bé làm tôi nhớ đến Kháp Na và Mukaton.
Buổi tối, Bát Tư Ba cần mẫn tết chuỗi vòng đeo tay dưới ánh đèn dầu. Tôi đặt bát canh yến trước mặt chàng:
- Vì sao chàng nhận lời với Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi?
Chàng đặt chuỗi hạt xuống, chầm chậm uống bát canh yến.
- Vương gia Khoát Đoan, cha của huynh ấy có ơn với giáo phái Sakya. Ta và huynh ấy lại là anh em kết nghĩa đã hơn hai mươi năm, huynh ấy quỳ xuống cầu xin ta như vậy, làm sao ta từ chối cho được. Hơn nữa, Mukaton vì Kháp Na mà chết, trong lòng ta rất áy náy. Ta chấp nhận cuộc hôn nhân này cũng là để bù đắp cho Khởi Tất.
- Chàng không thấy Dharma và Bối Đan rất giống Kháp Na và Mukaton sao?
Con trai của Kháp Na lấy cháu gái của Mukaton, số phận thật lạ kỳ, nhưng không biết đây sẽ là mối lương duyên hay là nghiệt duyên nữa.
Chàng vuốt ve mái tóc màu lam của tôi, mỉm cười bảo:
- Ta biết em đang lo lắng chuyện gì. Ta tin rằng chúng sẽ không bất hạnh như Kháp Na và Mukaton. Chờ khi Dharma trưởng thành, tới Trung Đô, ta sẽ cho hai đứa trẻ làm quen với nhau, sau đó mới cho chúng kết hôn.
Tôi lắc đầu buồn bã. Tuy là mẹ nhưng tôi chẳng có quyền quyết định chuyện hôn sự của con trai, tất cả đều phải nghe theo Bát Tư Ba. Tôi không thấy thoải mái chút nào. Tôi luôn cổ súy cho hôn nhân một vợ một chồng, đầu bạc răng long, chứ không phải những cuộc hôn nhân chính trị, ép những đứa trẻ chẳng hề quen biết nhau phải chung sống với nhau. Nhưng tôi cũng hiểu rằng đó là tục lệ phổ biến của xã hội này. Cô dâu thường chỉ biết mặt chú rể sau khi khăn che mặt được vén lên. Nếu người con trai có địa vị, quyền thế thì có thể cưới cả đám vợ cũng không sao, Kháp Na cũng từng cưới ba người vợ đó thôi. Tôi sống với loài người chừng ấy năm, lẽ ra phải quen những phong tục tập quán này mới đúng chứ! Dharma là người thừa kế duy nhất của phái Sakya, nó sẽ giúp Sakya phát triển lớn mạnh, sẽ sinh cho nhà họ Khon thật nhiều con cái. Phái Sakya chắc chắn sẽ không đồng ý nếu nó chỉ lấy một người vợ duy nhất.
Không biết vì sao, trong lòng tôi cứ thấp thỏm lo âu. Tôi đưa mắt nhìn Bát Tư Ba. Chàng đang tập trung tinh thần, miệt mài tết dây xâu chuỗi hạt dưới ánh nến. Chốc chốc chàng lại nhắm mắt nghỉ ngơi một lát rồi mới tiếp tục công việc. Thực ra, Bát Tư Ba không phải một con người hoàn hảo. Chàng đã hình thành cho mình một thói quen, phàm việc gì cũng phải xét đến lợi ích của giáo phái trước nhất. Đó là kiểu giáo dục đã ăn sâu vào tiềm thức của chàng từ nhỏ, nhất là sau khi được chọn làm người kế thừa của giáo phái. Nhưng nếu chàng có thể trở thành một người như đại sư Ban Trí Đạt kỳ vọng, luôn đặt lợi ích của giáo phái lên trên tất thảy, gạt bỏ mọi tình cảm cá nhân thì có lẽ chàng đã không phải đau khổ như vậy. Tôi thầm nguyện cầu, ngày sau, Dharma của tôi sẽ không giống chàng.
Chiếc vòng được hoàn tất sau ba ngày vất vả. Hôm ấy, Bát Tư Ba trao cho tôi một chiếc túi gấm rất đẹp.
- Đẹp quá!
Tôi mở túi, lấy chiếc vòng ra, thốt lên kinh ngạc. Những viên đá khổng tước và đá thanh kim lóng lánh huyền hoặc. Những miếng xà cừ được gọt tỉa thành hình hoa sen và lá sen, vô cùng sống động, tài tình. Tôi háo hức xỏ luôn vào tay.
- Đi theo chàng hơn hai mươi năm mà em không biết chàng lại khéo tay như vậy.
Chàng đỏ mặt ngại ngùng:
- Mẹ ta đã hướng dẫn ta cách làm đó. Lúc nhỏ, ta thường ngồi trong lòng mẹ, xem bà bện dây xâu những chuỗi tràng hạt. Mẹ đã xâu rất nhiều chuỗi hạt với hình dáng, kiểu cách khác nhau, rất sinh động. Tiếc là nhiều năm qua ta không làm việc này nên đã quên hết các kiểu dáng độc đáo, chỉ làm được chiếc vòng tay đơn giản thế này thôi.
Tôi xoay đi xoay lại, ngắm mãi không chán.
- Em thích lắm, rất thích, rất đẹp. Em sẽ đeo chiếc vòng này suốt đời!
Bàn tay chàng dịu dàng vuốt ve mái tóc tôi, ngừng lại nơi viên ngọc Linh hồn lấp lánh ánh sáng.
- Ngày nào em cũng mang theo bên mình ngọc Linh hồn và sợi dây của Kháp Na. Ta cũng muốn tự tay làm một món quà gì đó tặng em, nghĩ mãi mới ra thứ này.
Chàng nắm tay tôi, ngắm nghía chuỗi vòng trên cổ tay tôi, giọng chàng chợt buồn:
- Em thích nó thì hãy đeo nó mỗi ngày, thấy nó cũng như thấy ta vậy.
Tôi nhận ra trong câu nói của chàng dư vị chua xót của lời giã biệt, lòng không khỏi băn khoăn:
- Chàng định đuổi em đi ư?
- Lam Kha, em đã ở bên ta hai năm. Hai năm không phải bận lòng với việc chính sự và những việc mệt mỏi khác, chỉ có em cận kề bên ta, ta vui lắm. Đây là quãng thời gian hạnh phúc nhất đời ta.
Chàng thả tay tôi xuống, chầm chậm cất bước đến bên cửa sổ, lặng nhìn cây bạch dương vừa mọc thêm những chồi non mơn mởn ngoài kìa, khẽ thở dài:
- Hai năm là đủ rồi.
Tôi bước lại gần chàng, ngước nhìn bóng dáng gầy guộc của chàng mà lòng se sắt:
- Em sẽ không đi đâu cả...
Chàng đột ngột quay lại:
- Đừng lãng phí thời gian cho một kẻ sắp chết như ta! Em đã trọn tình vẹn nghĩa với ta, em nên quay về Sakya thăm Dharma, nó sáu tuổi rồi đó. Mấy hôm trước ta nhận được thư của Kunga Zangpo, viết rằng Dharma rất tinh nghịch, đáng yêu và vô cùng thông minh, càng ngày càng giống Kháp Na. Em không muốn về thăm con sao?
- Em muốn. – Tôi bình thản nhìn vào mắt chàng. – Nhưng đối với em, người quan trọng hơn cả lúc này là chàng. Dharma còn cả chặng đường dài phía trước, nhưng chàng...
Tôi chưa nói hết câu, chàng đã sụp xuống khiến tôi hoảng hốt, vội chạy lại đỡ lấy chàng. Tôi lay gọi chàng nhưng chàng không đáp lại. Tôi dìu chàng đến bên giường, đỡ chàng nằm xuống, vuốt ve vầng trán chàng, gương mặt chàng vàng vọt, hơi thở yếu ớt, sự sống đang chầm chậm bỏ chàng mà đi.
Có lẽ vì vậy mà chàng muốn tôi ra đi, có lẽ vì vậy mà chàng gấp rút sắp xếp chuyện hôn sự của Dharma. Chàng đã dự cảm được tình trạng sức khỏe của mình nên muốn sắp xếp ổn thỏa mọi thứ?
Tôi lập tức cúi xuống, đặt môi lên miệng chàng, truyền linh khí cho chàng. Sở dĩ tôi phải nén chặt nỗi nhớ con trong lòng và không chịu rời xa chàng một bước là vì tôi biết rằng chàng có thể gục xuống bất cứ lúc nào. Tôi chầm chậm truyền linh khí cho chàng, đôi mắt chàng vẫn khép chặt, bờ môi khô lạnh, làn da tái xám. Tuy đã lấy lại hình hài con người nhưng tôi vẫn ngày đêm khổ công tu luyện, không dám trễ nải. Bởi vì tôi biết mình phải chuẩn bị một lượng linh khí thật dồi dào phòng khi cần kíp. Và vì tôi là người duy nhất có thể kéo dài sự sống cho chàng.
Tôi không dám truyền linh khí quá lâu, sợ khi chàng tỉnh lại, sự tiếp xúc da thịt giữa chúng tôi sẽ khiến chàng đau đớn. Tôi ngồi bên giường, ngắm nhìn gương mặt đang say ngủ của chàng, tử khí vây quanh chàng đã tan biến. Gương mặt chàng an nhiên, tĩnh tại. Tôi nhẹ nhàng chạm vào bờ môi, vầng trán và chiếc cổ nhăn nheo của chàng. Tình yêu thuở thiếu thời của tôi dành cho chàng đã lên một nấc mới. Không chỉ là yêu, mà với tôi, chàng là người thân yêu nhất, đáng tin cậy nhất, là người tôi thương nhớ nhất, không muốn rời xa nhất. Ánh mặt trời tràn vào căn phòng, chiếu sáng chuỗi hạt trên cổ tay tôi. Những viên đá khổng tước, đá thanh kim lấp lánh, rực rỡ, lung linh, huyền ảo.
Chàng tỉnh lại. Tôi rót nước cho chàng, cầm lá thư trên bàn, hỏi:
- Drakpa Odzer vừa đến, báo rằng có mật thư gửi từ Sakya. Chàng có muốn đọc ngay không?
Chàng gật đầu, đón lấy bức thư, mở ra đọc. Tôi thấy sắc mặt chàng càng lúc càng xấu đi, vội lao đến, hỏi:
- Thư viết gì vậy?
Chừng như rất tức giận, bàn tay cầm lá thư của chàng run lên:
- Kunga Zangpo càng ngày càng tồi tệ, thủ đoạn độc ác, chỉ vì tranh chấp lãnh thổ, dám gây ra đổ máu!
Sự việc là thế này: Vùng Ali do quý tộc Nangsababoxi cai quản, cũng là một trong mười ba vạn hộ hầu do Bát Tư Ba sắc phong. Nangsababoxi có quan hệ mật thiết với phái Phaktru nên Ali lâu nay vẫn được xem là thuộc phạm vi thế lực của phái Phaktru. Kunga Zangpo ra lệnh trao đổi các cư dân Mid ở vùng Ali của Nangsababoxi với các hộ dân thuộc vùng Magarze bên hồ thiêng Yamdrok-tso. Nagarze vốn thuộc phạm vi thế lực của phái Drikung nên động thái này của Kunga Zangpo rõ ràng là muốn tạo ra mâu thuẫn giữa hai phái Drikung và Phaktru. Tất nhiên là Nangsababoxi không đồng ý, đã ra sức chống đối. Kunga Zangpo mua chuộc người hầu cận của Nangsababoxi, một nhà sư mười tám tuổi, tên gọi Damparinqu. Tên hầu cận này đã hạ độc giết chết Nangsababoxi. Kunga Zangpo ban thưởng cho Damparinqu bằng cách cắt vùng Maizho Pakza tặng cho hắn. Nangsababoxi không có người thừa kế nên nhân lúc phái Phaktru chưa kịp can thiệp vào việc này, Kunga Zangpo đã nhanh tay chiếm đoạt toàn bộ đất đai của Nangsababoxi.
Tuy việc làm của Kunga Zangpo đã giúp phái Sakya giành được một địa bàn hết sức rộng lớn nhưng đó là đất đai có được nhờ sử dụng thủ đoạn bỉ ổi, gây tai tiếng xấu và kích động sự phẫn nộ của quần chúng. Tôi không muốn Bát Tư Ba vì tức giận mà ảnh hưởng đến sức khỏe nên đã nói đỡ cho Kunga Zangpo:
- Tuy làm vậy thật tàn bạo nhưng cũng có thể hiểu được. Cậu ấy muốn trả thù hai phái Phaktru và Drikung.
Bát Tư Ba tức giận:
- Ta cũng muốn trả thù nhưng phải hành động thật quang minh chính đại, tuyệt đối không thể dùng thủ đoạn tàn độc, đê tiện như vậy được!
Tôi thở dài:
- Kunga Zangpo giờ đã là bản khâm của giáo phái, chàng không có nhà, Dharma lại còn nhỏ nên bản khâm sẽ là người nắm trong tay quyền lực lớn nhất đất Tạng. Quyền lực trong tay, lâu dần người ta sẽ thay đổi cách nghĩ.
Kunga Zangpo là một người cơ trí, mẫn cán. Phán xét một cách công bằng thì trong vòng mấy năm kể từ khi nhậm chức bản khâm, Kunga Zangpo đã có những cống hiến to lớn cho phái Sakya, phần lãnh thổ thuộc quyền sở hữu của phái Sakya nhờ cậu ta mà nhiều lên gấp đôi. Và tất cả đất đai này đều thuộc về Sakya, Kunga Zangpo không hề có ý đồ tư lợi. Cậu ta đã giám sát xây dựng hoàn thiện gian chính điện quan trọng nhất của đền Nam Sakya, đúc thành công bức tượng Quan Âm Bồ Tát mạ vàng để tưởng niệm đại sư Ban Trí Đạt và lệnh cho thợ thủ công hoàn thành toàn bộ số bích họa dọc hành lang bên ngoài đại điện. Dưới bàn tay điều hành của Kunga Zangpo, quy mô ngôi đền Nam Sakya đã bước đầu thành hình. Tầm ảnh hưởng của cậu ta ở Sakya càng ngày càng lớn. Rất nhiều người trong giáo phái tỏ ra khâm phục và dần dà ủng hộ cậu ta hết lòng.
- Cậu ta có công với giáo phái nhưng công lao đó không thể bù đắp những tội ác mà cậu ta gây ra.
Bát Tư Ba gắng gượng ngồi dậy, bảo tôi:
- Giúp ta một tay, đỡ ta ngồi dậy. Ta phải viết thư đe nẹt, giáo huấn cậu ta mới được.
Dù rất lo lắng cho sức khỏe của chàng nhưng tôi cũng đành kéo chiếc bàn làm việc nhỏ của chàng tới sát mép giường và giúp chàng mài mực. Mấy ngày sau, bức thư khiển trách Kunga Zangpo được gửi đi từ Lâm Thao. Khi ấy, chúng tôi không hề biết rằng, mâu thuẫn giữa Kunga Zangpo và Bát Tư Ba đã bắt đầu nảy sinh và nó sẽ lớn dần, trở thành cơn cuồng phong nhuốm máu về sau.
Mùa hè năm đó, chúng tôi nhận được tin tức từ Đại Đô: Chân Kim đã được lập làm thái tử!
Các đại thần người Hán nhiều lần tấu chương, đưa ra ý kiến, các vương triều ở Trung Nguyên xưa nay đều có thông lệ, hoàng đế lập thái tử kế ngôi ngay trong thời gian tại vị. Nhập gia thì phải tùy tục, vậy nên Hốt Tất Liệt trở thành thái tử danh chính ngôn thuận đầu tiên trong lịch sử Mông Cổ.
~.~.~.~.~.~
Tôi khẽ thở dài:
- Chân Kim trở thành vị thái tử đầu tiên trong lịch sử Mông Cổ. Tin tức này làm dấy lên hai nguồn ý kiến trái chiều trong triều đình nhà Nguyên. Người Hán thì ủng hộ còn người Mông Cổ thì bất mãn.
Chàng trai trẻ ngạc nhiên hỏi:
- Vì sao? Lẽ nào Chân Kim không được lòng người Mông Cổ?
- Các quý tộc Mông Cổ đã tranh cãi rất nhiều về Chân Kim. – Nhớ đến vị thái tử mà số phận rất mực lận đận, bi đát này, lòng tôi chợt buồn ảo não. – Chân Kim từ nhỏ đã được nuôi dưỡng trong môi trường Nho học của người Hán. Bên cạnh cậu ấy lúc nào cũng có hàng tá các nhà Nho tài ba vây quanh, họ đều là những nhân vật chủ chốt, đại diện cho chủ trương trị quốc bằng Nho giáo trong triều đình Hốt Tất Liệt. Đối với người Hán, việc lập Chân Kim làm thái tử là phù hợp với truyền thống của các vương triều Trung Nguyên, bởi vậy, họ đặt rất nhiều kỳ vọng ở cậu ta. Họ cho rằng, Chân Kim là người kế vị tương lai, cậu ta sẽ bắt đầu một thời đại mới của nên Nho trị, vị thế của người Hán trong triều đình nhà Nguyên chắc chắn sẽ được nâng cao.
Chàng trai trẻ lắc đầu:
- Điều này chắc chắn động chạm đến quyền lợi của người Mông Cổ.
Tôi gật đầu:
- Đúng vậy. Người Mông Cổ cho rằng Chân Kim đã bị Hán hóa, nếu cậu ta kế vị thì triều đình này sẽ trở thành thiên hạ của người Hán. Hơn nữa, người Mông Cổ không có thông lệ lập người kế vị khi Đại hãn vẫn còn sống. Mấy trăm năm qua, thông lệ của người Mông Cổ vẫn là: sau khi Đại hãn qua đời, các vương gia sẽ tổ chức hội nghị Kurultai để bầu chọn người kế nhiệm ngôi vị Hãn vương tiếp theo. Đại hội này không thông qua thì không ai có thể trở thành Đại hãn hợp pháp. Nếu đại hội không thể lập tức chọn ra Hãn vương phù hợp thì chính quyền sẽ do hoàng hậu tạm thời cai quản, cho đến khi đại hội chọn ra Hãn vương kế nhiệm.
Bởi vậy, chức vị thái tử của Chân Kim đã gây nhiều tranh cái trong nội bộ các quý tộc Mông Cổ.
/64
|