“Nhà vua nhân từ, bác ái,
Sẽ được dân yêu, dân theo;
Hoa sen nở giữa đầm lầy,
Chim thiên nga rủ về tụ hội.”
(Cách ngôn Sakya)
Chân Kim giam mình trong phòng suốt mấy ngày liền sau khi bị tôi cự tuyệt. Tôi cũng bày tỏ quan điểm của mình với Bát Tư Ba: ép dầu ép mỡ, chẳng ai nỡ ép duyên, tôi không yêu Chân Kim, mong chàng từ nay đừng ghép đôi giúp tôi nữa. Bát Tư Ba cũng đành thuận theo ý tôi.
Chân Kim ủ dột khi tham dự buổi lễ thượng thọ của Bát Tư Ba tròn bốn mươi tuổi. Bát Tư Ba không thích ăn đồ tanh, nhiều dầu mỡ, cũng không muốn bày vẽ om sòm nên bữa tiệc gia đình được tổ chức rất đơn giản. Một mâm cỗ nhỏ, mọi người quây quần bên nhau, chúc thọ Bát Tư Ba. Bát Tư Ba rất yếu, chàng không thể ngồi lâu, nhưng khi tôi chuẩn bị dìu chàng về phòng thì đệ tử của chàng hối hả chạy vào bẩm báo:
- Thưa pháp vương, ngoài kia có người xin gặp thầy, ông ta là pháp vương Chung Dorje của phái Drikung!
Bát Tư Ba và tôi đưa mắt nhìn nhau rồi cả hai cùng tái mặt. Kunga Zangpo tàn sát toàn bộ phái Drikung kia mà, lẽ nào Chung Dorje đã trốn thoát? Bát Tư Ba ra lệnh:
- Mau đưa ông ta vào đây.
Chung Dorje bước thấp bước cao, tấp tễnh lết vào phòng với sự trợ giúp của các đệ tử. Hắn gặp đại nạn, lại nhiều ngày phiêu bạt trên đường trốn chạy nên gương mặt tiều tụy, hốc hác, tinh thần hoảng loạn, hắn không còn là pháp vương Drikung ngạo mạn, dương dương tự đắc như trước nữa. Bát Tư Ba chẳng buồn chào hỏi, chỉ nhìn hắn bằng ánh mắt lạnh lùng.
Chung Dorje cũng không nhiều lời, hắn vào thẳng đề:
- Đế sư, ta tới đây vì mục đích duy nhất, muốn nói với ngài sự thật mà ngài cần biết.
Bát Tư Ba khẽ nhướn mày:
- Sự thật gì?
Chung Dorje cười lạnh lùng:
- Sự thật về cái chết của Bạch Lan Vương.
Tôi giật mình ngẩng lên, gằn giọng:
- Không phải do chính ngươi gây ra sao?
- Ta là kẻ chủ mưu nhưng các người thử nghĩ xem, làm thế nào mà ta có thể nắm bắt thời cơ và hành động chính xác tuyệt đối như thế?
Hắn ngửa cổ lên trời, cười như điên dại, những vết thương dọc ngang trên trán khiến cho điệu cười của hắn trở nên man rợ, đáng sợ hơn:
- Bạch Lan Vương không hề biết rằng, suốt bao năm qua cậu ta đã nuôi bên mình một con bò cạp, không những vậy, cậu ta còn hết lòng hết dạ với con bò cạp ấy. Nếu ở trên trời biết được sự thật này, chắc chắn linh hồn cậu ta cũng chẳng thể yên ổn.
Bát Tư Ba xông đến, túm lấy cổ áo Chung Dorje:
- Ý ngươi là Kunga Zangpo?
Ánh mắt Chung Dorje rực lửa căm hờn, hắn nhổ nước bọt, nghiến răng nghiến lợi chửi rủa:
- Chính hắn! Chính con bò cạp ấy đã hạ độc Bạch Lan Vương, chính hắn chủ mưu tàn sát phái Drikung. Hắn là loài súc vật độc ác!
- Ngươi nói láo! Kunga Zangpo chẳng có lý do gì để giết hại Kháp Na. Mười hai tuổi cậu ta đã theo hầu Kháp Na, chính tay Kháp Na đốt bỏ giấy bán thân của cậu ta, còn giúp cậu ta cưới được đại tiểu thư phái Sakya, từ đó thoát khỏi kiếp đời nô lệ.
Rồi Bát Tư Ba đột ngột ngừng lại, nhìn xoáy vào Chung Dorje:
- Ta hiểu rồi, ngươi căm hận cậu ta vì tàn sát phái Drikung nên muốn mượn tay ta trả thù Kunga Zangpo chứ gì?
- Ta biết đế sư sẽ không tin ta nên đã mang theo thứ này.
Chung Dorje cởi áo tăng ni, hắn giắt một chiếc ruột tượng nơi eo lưng. Hắn lôi ra một cái túi giấy dầu, lật mở từng lớp từng lớp một, mãi sau một tờ giấy màu vàng đã rách mép mới xuất hiện.
- Đây chính là chứng cứ của việc tên bò cạp tàn độc, vong ân phụ nghĩa ấy phản bội, giết hại chủ nhân. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến hắn tàn sát giáo phái Drikung!
Bát Tư Ba đón lấy tờ giấy hoen ố, nhàu nát ấy, đó là mẫu giấy bán thân thường gặp ở đất Tạng, trên đó có dấu vân tay đen đúa, họ tên, dấu xác nhận của một số người làm chứng. Bát Tư Ba tỏ ra nghi hoặc:
- Đây là…?
- Zhaxirinbo là cái tên trên giấy bán thân nhưng trên đời này chỉ mình ta biết, bây giờ hắn tên là gì. – Chung Dorje cười méo mó. – Tờ giấy bán thân mà Bạch Lan Vương đốt bỏ là giả, cho đến bây giờ, Zhaxirinbo vẫn là Dugong của phái Drikung chúng ta!
Bát Tư Ba run lên vì giận:
- Zhaxirinbo chính là Kunga Zangpo?
Chung Dorje uất hận kể lại toàn bộ sự việc. Thì ra, ngay từ thời đại của ngài Ban Trí Đạt, phái Drikung và phái Sakya đã kết mối hận thù. Khi đó, pháp vương mới nhậm chức của phái Drikung là Chung Dorje đã sai đệ tử đi khắp nơi tìm về một đứa trẻ không cha không mẹ để đưa đến Sakya. Kẻ này tự nhận là cậu của đứa trẻ, nói dối rằng, gia đình nợ nần chồng chất không đủ sức trả nợ, phải đem bán đứa bé đến Sakya. Mục đích của Chung Dorje là muốn cài cắm tai mắt của mình ở Sakya. Hắn đâu ngờ rằng, hơn hai mươi năm sau, quân tốt vô thưởng vô phạt ấy lại trở thành quân cờ quyết định sự thắng thua của cả cuộc cờ.
Kể từ lúc đổi tên thành Kunga Zangpo, hơn mười năm qua, Zhaxirinbo đã theo Kháp Na đi khắp vùng Trung Nguyên, mối liên hệ với phái Drikung mờ nhạt dần. Trên đường về Sakya, lúc ngang qua Maizho Kunggar, hai anh em Bát Tư Ba nhận lời mời của Chung Dorje, ở lại Drikung một vài ngày. Ông cậu hờ, vốn là đệ tử của phái Drikung, đã nhận ra Kunga Zangpo chính là đứa bé năm xưa, thông qua vết bớt trên cổ cậu ta.
Và thế là phái Drikung nối lại sợi dây liên hệ với Kunga Zangpo, cho cậu ta xem giấy bán thân và buộc cậu ta phải làm việc cho Drikung. Ban đầu chỉ là những tin tức mật liên quan đến phái Sakya, nhưng sau đó, mâu thuẫn giữa hai giáo phái ngày càng sâu sắc, gay gắt và cuối cùng không thể hòa giải. Đúng lúc này, Yeshe lẳng lặng mò về từ Vân Nam, tìm đến Drikung, gặp Chung Dorje. Chung Dorje muốn lấy mạng Bát Tư Ba, còn Yeshe đòi giết Kháp Na. Hắn nói, tình thân giữa Bát Tư Ba và Kháp Na không giống quan hệ của những anh em ruột thịt khác, chỉ cần một trong hai người chết đi, người còn lại sẽ sống mà như đã chết và như thế cũng đủ để hủy hoại phái Sakya.
Sau nhiều ngày ủ mưu tính kế, bọn chúng đã lập ra một kế hoạch hoàn hảo. Nhưng kế hoạch này phải do một người thân cận của Bạch Lan Vương thực hiện.
Khi ấy, Kunga Zangpo đã là chàng rể của giáo phái Sakya, sống đời vương giả, mỹ mãn, cậu ta kiên quyết từ chối. Chung Dorje đã đe dọa sẽ phơi bày sự thật về thân phận Dugong của Kunga Zangpo, và chiếu theo luật Tạng, cậu ta buộc phải trở về Drikung tiếp tục cuộc đời làm nô lệ cho giáo phái này. Kunga Zangpo kiên quyết phủ nhận mình là Zhaxirinbo, nhưng trên giấy bán thân còn nguyên dấu vân tay của người thân của Zhaxirinbo và những người làm chứng khác, họ đều còn sống, chỉ cần bọn họ khẳng định người có vết bớt hình cánh bướm trên cổ chính là Zhaxirinbo thì cậu ta sẽ hết đường chối cãi.
Bị ép đến đường cùng, Kunga Zangpo buộc phải nhận lời. Hắn đem Tuyết Sơn Nhất Chi Khao về trồng trong Lang Như Thư Lầu rồi cố ý nói với đầu bếp rằng Kháp Na rất thích ăn quả đỗ. Hắn đã tuân theo chỉ thị của Chung Dorje và Yeshe, từng bước đưa Kháp Na đến chỗ chết. Lẽ ra, với thân phận của hắn lúc ấy, hắn không cần phải thử đồ ăn cho Kháp Na nhưng hắn vẫn kiên trì đảm nhiệm công việc đó với danh nghĩa “đền đáp công ơn” của Kháp Na. Hôm ấy, hắn đã cố ý ăn một lượng nhỏ đỗ xào để mình cũng bị trúng độc, tránh được sự nghi ngờ của mọi người.
- Bây giờ ngài đã hiểu vì sao hắn phải tàn sát phái Drikung rồi chứ? – Chung Dorje đấm thùm thụp vào ngực mình, ánh mắt vằn tia đỏ. – Ngài đưa hắn lên ngôi cao, cho hắn làm bản khâm của phái Sakya, còn nhận lời để con gái hắn trở thành vợ của pháp vương tương lai. Lợi ích chất cao như núi trước mắt hắn, ở đất Tạng, quyền lực của hắn chỉ ở dưới một người mà trên muôn vạn người thì sao hắn chịu để phái Drikung nắm được điểm yếu của mình chứ? Tàn sát phái Drikung nghĩa là giết sạch những người nắm giữ bí mật của hắn. Đối với bên ngoài, hắn sẽ viện cớ làm vậy để trả thù cho Bạch Lan Vương. Hắn thật là nham hiểm, thủ đoạn!
Bát Tư Ba đứng không nổi. Chàng lảo đảo, chực đổ người về phía sau. Tôi hốt hoảng chạy lại đỡ chàng. Chung Dorje ngồi thụp xuống gào khóc, nện từng nắm đấm dữ dằn xuống mặt bàn:
- Ta hối hận muôn phần! Nếu lúc xưa phái Drikung chịu phục tùng Sakya thì cùng lắm chỉ bị mất một số đất đai và cư dân, chứ không phải chịu đại nạn thế này! Trong số hơn một nghìn mạng người của phái Drikung, kẻ thì bị giết chết, người thì bị thiêu cháy, các đệ tử đã phải liều mạng giúp ta trốn thoát, để đến đây gặp ngài.
Rồi hắn đột ngột rút ra một con dao găm từ trong tay áo. Tôi hoảng hốt, vội vàng dang tay chắn trước Bát Tư Ba. Chẳng ngờ, Chung Dorje lại kề con dao ấy vào cổ mình, nước mắt xối xả cùng máu:
- Phái Drikung gặp phải quả báo này đều do ta đã tạo nên nghiệp chướng. Ta có tội với tổ tông của giáo phái. Ta chết là đáng lắm, nhưng những tín đồ khác của giáo phái Drikung đều là những người vô tội! Ta đến gặp ngài là để đền mạng cho Bạch Lan Vương. Giờ đây, khối u nhức nhối nhất của phái Sakya chính là Kunga Zangpo, chỉ có ngài mới tiêu diệt được con bò cạp này và trả thù cho những oan hồn của phái Drikung chúng ta!
Chung Dorje đẩy con dao găm về phía trước, ngửa cổ nhắm mắt lại, sẵn sàng chịu chết. Khoảnh khắc ấy, tôi đã muốn chạy đến, giằng lấy con dao găm biết bao. Tôi đã từng trằn trọc bao đêm trắng, từng khao khát được tự tay xẻ thịt, phanh thây hắn thành hàng trăm nghìn mảnh, nhưng giờ đây, khi con dao găm đang ở ngay trước mặt, tôi lại không đủ gan góc để tiến lên và cầm lấy nó. Bát Tư Ba run lên bần bật, gương mặt tái xám, chàng trầm ngâm hồi lâu rồi thở dài mỏi mệt.
- Ngươi giết hại em trai ta, gây bao tội ác. Bao năm qua ta gắng sức chống đỡ với bệnh tật, chỉ mong chờ đến ngày báo thù. Nhưng nay, ngươi đã bị trời trừng phạt, gặp quả báo! – Chàng hít một hơi thật sâu, quay lưng lại với Chung Dorje, giọng chàng như từ cõi xa xăm vọng lại. – Chung Dorje, ta sẽ không giết ngươi, ngươi chết đi sẽ được giải thoát khỏi mọi chuyện, ngươi phải tiếp tục sống để chịu sự trừng phạt, Những ngày tháng tiếp theo, ngươi sẽ không được yên ổn, mỗi oan hồn của phái Drikung sẽ trở thành cơn ác mộng hằng đêm của người!
Chung Dorje run như cầy sấy, ánh mắt lộ vẻ khiếp hãi. Nỗi sợ hãi của hắn càng tăng thêm sau mỗi câu nói của Bát Tư Ba, cuối cùng, hắn vò đầu, thét lên thảm khốc. các đệ tử của hắn vội chạy đến giữ hắn lại, nhưng hắn ra sức giãy giụa, vùng thoát như thể vừa gặp ma vậy. Rồi hắn lao ra khỏi phòng, vừa chạy vừa gào lên:
- Xin đừng bắt ta đền mạng, ta không cố ý!
Tiếng kêu gào điên dại xa dần rồi tắt hẳn, pháp vương Chung Dorje của phái Drikung đã trở nên quẫn trí vì nỗi sợ hãi kinh hoàng và lương tâm cắn rứt. Các đệ tử đã đưa hắn trở lại đất Tạng, nhưng một thời gian ngắn sau, vào một đêm mùa đông băng giá, hắn chỉ khoác trên người một manh áo mỏng, bỏ đi lang thang rồi chết cóng dưới một gốc cây. Tuy bị tổn thất nặng nề nhưng phái Drikung không vì thế mà diệt vong. Các đệ tử của Chung Dorje đã tập hợp nhau lại, cùng tái thiết đền Drikung. Tuy sau này, phái Drikung cũng có những giai đoạn phát triển nhưng không giữ được địa vị nhất nhì ở đất Tạng như trước kia nữa.
Khi bóng dáng điên dại của Chung Dorje đã khuất xa, Bát Tư Ba chống tay lên bàn, gắng đứng vững, nhìn tôi lo lắng:
- Lam Kha, sáng sớm mai chúng ta sẽ lập tức trở về Sakya!
Tôi sững sờ:
- Chàng yếu như vậy, chịu sao nổi chặng đường gian nan ấy?
Chàng lắc đầu, ánh mắt ngập tràn nỗi đau khổ và âu lo:
- Ta nhất định phải quay về! Chung Dorje nói đúng, chính ta đã đặt Kunga Zangpo vào vị trí ấy và cũng chỉ ta mới có thể loại trừ được hắn, để ngăn mầm họa cho Dharma về sau!
Tôi lo lắng đến phát khóc:
- Thế lực của hắn ở Sakya rất mạnh, hắn lại được đông đảo tín đồ của giáo phái ủng hộ. Chàng trở về lúc này, chưa hẳn đã địch nổi hắn, huống hồ sức khỏe của chàng lại không cho phép!
Tôi đọc thấy trong mắt Bát Tư Ba nỗi bi ai vò xé, chàng nhìn tôi đăm đắm:
- Lam Kha, ta muốn được chết ở Sakya, nơi đó có Kháp Na!
Nỗi đau dâng ngập trong lòng, sống mũi cay sè, tôi thẫn thờ nhìn Bát Tư Ba. Cánh cửa phòng đột nhiên bật mở, ai đó xông vào, bóng dáng cao lớn:
- Thưa thầy, xin cho ta được hộ tống thầy trở về Sakya!
Cả tôi và Bát Tư Ba đều sững sờ vì ngạc nhiên. Những lời của Chung Dorje khiến tôi chấn động, không còn tâm trí để quan sát những gì diễn ra bên ngoài. Có lẽ Chân Kim đã nghe thấy tất cả.
Tôi dìu Bát Tư Ba ngồi xuống ghế, chàng thở dốc một hồi, lắc đầu nói với Chân Kim:
- Không được! Bệ hạ đang tiến đánh nước Tống ở phía nam, ngài còn dự định sẽ đưa quân viễn chinh đi tấn công nước Oa [1]. Hiện em trai thứ ba của Thái tử là An Tây Vương Mang Ca Lạt đang phụ trách quân vụ vùng Tứ Xuyên. Em trai thứ tư của Thái tử là Bắc Bình Vương đang trấn thủ ở phương Bắc. Đường về Sakya xa xôi ngàn dặm, Thái tử vừa được sắc phong, phải chung vai gánh vác trọng trách quân sự, không nên lãng phí cả năm trời hộ tống ta về Sakya. Làm vậy sẽ gây bất lợi cho danh tiếng của Thái tử trong triều đình!
Chân Kim đưa mắt về phía tôi, khẽ gật đầu, gương mặt thoáng nét ửng đỏ rất đáng ngờ.
- Thưa thầy, xin thầy hiểu cho lòng ta!
Tôi chợt hiểu ra, bỗng thấy bối rối, sau cậu ta vẫn chưa chịu rút lui? Bát Tư Ba liếc tôi một cái, rồi nghiêng đầu ho liền một chặp.
Chân Kim ngập ngừng rồi cắn môi, ngẩng đầu lên nhìn Bát Tư Ba:
- Dù ta có trở thành người đứng đầu thiên hạ, dù ta có thể mang lại cho cô ấy quyền lực và danh vị cao nhất mà một người phụ nữ có thể có được nhưng Tiểu Lam vẫn không hề động lòng. Cô ấy không xem trọng những thứ đó. Ta đã hứa sẽ không nạp thêm bất cứ thê thiếp nào nữa, cô ấy cũng không tin. Bởi vậy, ta chỉ còn cách chứng minh tấm lòng chân thành của ta, may ra cô ấy mới chịu đón nhận ta. Hộ tống thầy trở về Sakya, hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của thầy, đó là cách để ta chứng minh tình cảm của ta đành cho cô ấy.
Tôi bực bội, gắt lên:
- Chân Kim, cậu đừng…
Cậu ta lập tức ngắt lời tôi bằng ánh mắt rực lửa và giọng nói quyết đoán:
- Tiểu Lam, ta đã quyết rồi. Thượng sư là người ra vô cùng kính trọng nên trước khi thầy viên tịch, ta thề sẽ không hành động thất lễ. Nay thượng sư phải trở về Sakya xử lý việc nhà trong tình trạng bệnh tình trầm trọng, thầy cần ta trợ giúp trừ bỏ hậu họa. Ngoài ra, với thân phận thái tử, ta đến Sakya sẽ giúp củng cố vững chắc hơn địa vị của Thế tử Dharma. Ta tin rằng, từ đây không kẻ nào ở đất Tạng dám sinh lòng bội phản. Điều này có lợi cho tương lai của Dharma, không phải vậy sao?
Câu nói cuối cùng là nói với tôi, ánh mắt cậu ta rực sáng lấp lánh, ánh sáng của sự nhiệt thành, chân tình ấy khiến tôi không sao tìm nổi lý do để khước từ. Tôi giậm chân, tức tối:
- Cậu… cậu thật là…
Bát Tư Ba đột ngột lên tiếng, giọng chàng phẳng lặng:
- Nếu Bệ hạ không phản đối, chúng ta…
Chân Kim mừng rõ, gương mặt tươi hồng, gật đầu rối rít:
- Xin thầy yên tâm, Phụ hoàng rất mực tôn sùng thầy, chắc chắn ta sẽ thuyết phục được Người.
=========
[1] Tên gọi nước Nhật Bản của người Trung Quốc thời xưa. (DG)
Chân Kim nói không sai, lần này về Sakya, chúng tôi rất khó đối phó với một kẻ đã gây dựng được vây cánh lớn mạnh như Kunga Zangpo. Chúng tôi phải dựa vào thế lực của Chân Kim mới mong giải quyết được triệt để mọi việc. Tôi thầm thở dài, tuy trước mặt Chân Kim, tôi cứ một mực nói rằng có thể tự lo cho bản thân, nhưng khi lâm vào tình cảnh khó khăn, tôi vẫn phải cậy nhờ vào cậu ta để bảo vệ Bát Tư Ba và con trai.
Tháng 3 năm 1274, bất chấp sức khỏe lúc này đã như ngọn đèn trước gió, Bát Tư Ba vẫn quyết định lên đường trở về Sakya với sự tháp tùng của Chân Kim. Chân Kim đã cử sứ giả cấp tốc về Đại Đô trình tấu lên Hốt Tất Liệt, nhưng vì Bát Tư Ba nóng ruột không yên nên Chân Kim quyết định hộ tống Bát Tư Ba lên đường trước và lệnh cho sứ giả mang ý chỉ của Hốt Tất Liệt đuổi theo sau.
Tôi ngồi trong xe ngựa, ngoái nhìn thành phố Lâm Thao cứ xa dần, khuất dần khỏi tầm mắt, không khỏi lưu luyến, bịn rịn. Tuy chỉ lưu lại đây ba năm, nhưng đó là ba năm tôi được ở bên chàng, sống những ngày đầm ấm, thanh bình. Sẽ khó có thành phố nào mang lại cho tôi cảm giác sớm tối bên nhau, thương yêu quấn quýt, keo sơn bền chặt ấy nữa. Khi rời xa nơi này, Bát Tư Ba biết rằng, chàng sẽ chẳng còn cơ hội quay lại nên đã ban tặng toàn bộ tài sản của chàng ở Lâm Thao cho các đệ tử và những người hầu cận đã tận tình chăm sóc chàng suốt ba năm qua.
Một cánh tay ôm nhẹ bờ vai tôi, tôi quay lại, thấy chàng cũng đang hướng mắt ra bên ngoài cửa xe, vẻ mặt tư lự, dường như đang ngẫm ngợi điều gì. Tôi khẽ hỏi:
- Có đau không?
Chàng thoáng ngạc nhiên, sau đó khẽ lắc đầu, bàn tay ghì chặt bờ vai tôi thêm nữa:
- Không thấy đau nữa.
Tôi ngả vào lòng chàng, do dự một lát, rồi thận trọng luồn tay qua vòng eo gầy guộc của chàng, vùi đầu vào bờ vai chàng, giấu đi gương mặt đẫm lệ. Chàng nhẹ nhàng ôm tôi, như thể tôi là người giấy, chỉ cần siết mạnh sẽ nhàu nát. Chúng tôi đã ôm nhau trong nỗi niềm canh cánh, khắc khoải như thế, nước mắc lã chã rơi, thấm vào lần áo sẫm đỏ của chàng, loang ra thành những nụ hoa nho nhỏ, xinh xinh.
Chúng tôi đã đi rất chậm vì Bát Tư Ba không thể chịu nổi hơn bốn canh giờ mỗi ngày trên cung đường gập ghềnh, khúc khuỷu, thế nên tốc độ của đoàn chúng tôi chỉ bằng một phần ba khi xưa. Bát Tư Ba lo lắng không yên, nhiều lần yêu cầu phải tăng tốc nhưng tôi kiên quyết phản đối. Vì dù đã đi rất chậm nhưng chàng vẫn nhiều lần ngất đi, tôi phải lén truyền linh khí mới có thể giúp chàng chống đỡ với đường xa dặm thẳng.
Một đêm nọ, sau hơn bốn tháng đi đường gian khổ, khi đoàn người đã chìm sâu vào giấc ngủ, tôi chợt ngửi thấy mùi hương quen thuộc, vốn là dấu hiệu nhận biết của loài hồ ly. Tôi lồm cồm bò dậy, nhẹ nhàng lách qua người Bát Tư Ba, xuống giường, mặc áo khoác và ra ngoài.
Dưới bóng trăng dát bạc, thiếu nữ yêu kiều tha thướt đang thả hồn bên hồ nước. Tôi hớn hở reo lên:
- Khabi? Sao cô lại tới đây?
Cô ấy yểu điệu xoay người lại, thấy tôi, rầu rầu đáp:
- Ta muốn tìm hiểu xem, cơn cớ gì mà Chân Kim sẵn sàng từ bỏ cuộc sống dư dả ở Đại Đô để vượt đường xa dặm thẳng, muôn phần gian nan, cực khổ để đến vùng đất quanh năm tuyết phủ xa tít mù ấy.
Tôi đỏ mặt, ấp úng:
- Cô… cô biết cả rồi?
- Chân Kim phái người về Đại Đô cầu xin Bệ hạ cho phép nó hộ tống Bát Tư Ba về Sakya. Bệ hạ đã đồng ý, có lẽ chỉ nay mai sứ giả sẽ đuổi kịp các vị. Nhưng ta cảm thấy quyết định này của Chân Kim rất lạ lùng. Dù sao thì nó cũng không nên rời Đại Đô trong thời gian dài như vậy, khi vừa mới được sắc phong làm thái tử. Nếu không vì điều gì đó khiến nó nặng lòng, chắc chắn nó sẽ không đưa ra một quyết định kém thông minh như vậy.
Cô ấy khẽ chau hàng mày dài tuyệt đẹp, liếc xéo tôi đầy ẩn ý.
- Ta đoán định rằng, nó đã gặp cô nên hồn phách mới điên đảo mà bỏ bê mọi thứ để đi theo cô như thế, đúng không?
Tôi thở dài, kể lại đầu đuôi câu chuyện. Cô ấy vừa nghe vừa lắc đầu, lúc thì đập tay, lúc thì giậm chân:
- Thì ra là vậy, thì ra là vậy! Không ngờ nó nặng lòng với cô đến thế! Mười ba năm qua vẫn không nguôi thương nhớ cô. Ta nên vui mừng vì sinh được một đứa con si tình như vậy, hay nên phiền lòng vì sự cố chấp của nó?
Tôi ngập ngừng một lát, nhưng rồi vẫn quyết định bày tỏ lòng mình:
- Khabi, tôi rất cảm động vì những việc làm cao thượng của Chân Kim. Tôi cũng biết cậu ta vẫn đang chờ đợi nhưng tôi sẽ không yêu cậu ta. Trái tim tôi rất nhỏ bé, chỉ đủ chỗ cho Kháp Na và Bát Tư Ba thôi.
- Ta biết chứ. Người con gái nào trải qua những hạnh ngộ thăng trầm của cuộc đời như cô, có được hai người đàn ông sẵn sàng hy sinh tính mạng vì mình như thế, cũng sẽ không thể đón nhận bất cứ người đàn ông nào khác. Nhưng con trai ta đã trưởng thành, ta có khuyên can cũng chẳng ích gì. Chân Kim đã ba mươi tuổi, là cha của năm đứa trẻ, hãy để nó tự quyết định.
Cô ấy chợt ngừng lời, nhìn tôi nghiêm nghị.
- Có điều, Tiểu Lam à, nếu cô không có tình cảm với nó thì đừng tạo cho nó bất cứ ảo tưởng nào vì hy vọng càng nhiều, thất vọng sẽ càng sâu.
Tôi gật đầu nhận lời.
Mấy ngày sau, chúng tôi nhận được ý chỉ của Hốt Tất Liệt, cho phép Thái tử Chân Kim hộ tống đế sư Bát Tư Ba trở về Sakya.
~.~.~.~.~.~
- Sự kiện Chân Kim hộ tống Bát Tư Ba về Sakya chỉ được ghi chép trong các tư liệu lịch sử bằng tiếng Mông Cổ và tiếng Tạng, không có trong bất cứ tài liệu tiếng Hán nào nên đã có nhiều nghi vấn được đặt ra. Nhưng người ta không tìm thấy bất cứ tài liệu lịch sử triều Nguyên ghi chép bằng tiếng Hán nào về hoạt động của Chân Kim trong suốt năm năm kể từ năm 1274 đến năm 1279.
Chàng trai trẻ tươi cười:
- Nếu là tôi, tôi cũng sẽ nghi ngờ. Vì Chân Kim vừa được sắc phong làm thái tử, dù vua cha có yêu thương, tín nhiệm đến đâu, cậu ta cũng nên lo lắng về việc những người anh em khác đang nhòm ngó vị trí của mình. Hành trình hộ tống Bát Tư Ba trở về Sakya xa xôi vạn dặm kéo dài suốt mấy năm trời, nếu trong thời gian đó, Hốt Tất Liệt đột ngột qua đời thì làm sao cậu ta kịp quay về Đại Đô để kế vị?
Tôi gật đầu:
- Cậu nói đúng lắm, hộ tống Bát Tư Ba về Sakya là quyết định chứa đựng rất nhiều rủi ro của Chân Kim. Thế nên, sau khi đối chiếu thời gian trong các tài liệu được ghi chép bằng tiếng Mông Cổ, tiếng Tạng và tiếng Hán, không thể không thừa nhận rằng Chân Kim thực sự đã đến Sakya thì các nhà sử học vốn giữ thái độ hoài nghi đã đặt ra một câu hỏi khác: Chân Kim đến đó làm gì?
Chàng trai trẻ nhìn tôi, mỉm cười đầy ẩn ý.
Tôi phân tích tiếp:
- Giới sử học có nhiều phán đoán khác nhau. Có người cho rằng, Chân Kim muốn thiết lập nha Tuyên úy Wusi cho riêng khu vực Tây Tạng nên mới đến đây. Có người lại bảo, vì Hốt Tất Liệt muốn dọn đường qua Tây Tạng để tấn công sang Ấn Độ, hoàn thành giấc mộng thâu tóm toàn bộ đại lục Âu – Á của mình.
Cậu ta phì cười:
- Sức tưởng tượng của các vị thật phong phú. Những lập luận kiểu này hoàn toàn không có căn cứ.
Lòng tôi chợt thắt lại khi nhớ đến số mệnh bi đát của Chân Kim. Tôi buồn bã nói:
- Dù thế nào, sự thực là Chân Kim đã đến Sakya. Nếu số phận không nghiệt ngã, buộc cậu ta phải ra đi trước Hốt Tất Liệt thì cậu ta đã là vị hoàng đế ở Trung Nguyên duy nhất trong lịch sử Trung Quốc từng đặt chân đến Tây Tạng.
Sẽ được dân yêu, dân theo;
Hoa sen nở giữa đầm lầy,
Chim thiên nga rủ về tụ hội.”
(Cách ngôn Sakya)
Chân Kim giam mình trong phòng suốt mấy ngày liền sau khi bị tôi cự tuyệt. Tôi cũng bày tỏ quan điểm của mình với Bát Tư Ba: ép dầu ép mỡ, chẳng ai nỡ ép duyên, tôi không yêu Chân Kim, mong chàng từ nay đừng ghép đôi giúp tôi nữa. Bát Tư Ba cũng đành thuận theo ý tôi.
Chân Kim ủ dột khi tham dự buổi lễ thượng thọ của Bát Tư Ba tròn bốn mươi tuổi. Bát Tư Ba không thích ăn đồ tanh, nhiều dầu mỡ, cũng không muốn bày vẽ om sòm nên bữa tiệc gia đình được tổ chức rất đơn giản. Một mâm cỗ nhỏ, mọi người quây quần bên nhau, chúc thọ Bát Tư Ba. Bát Tư Ba rất yếu, chàng không thể ngồi lâu, nhưng khi tôi chuẩn bị dìu chàng về phòng thì đệ tử của chàng hối hả chạy vào bẩm báo:
- Thưa pháp vương, ngoài kia có người xin gặp thầy, ông ta là pháp vương Chung Dorje của phái Drikung!
Bát Tư Ba và tôi đưa mắt nhìn nhau rồi cả hai cùng tái mặt. Kunga Zangpo tàn sát toàn bộ phái Drikung kia mà, lẽ nào Chung Dorje đã trốn thoát? Bát Tư Ba ra lệnh:
- Mau đưa ông ta vào đây.
Chung Dorje bước thấp bước cao, tấp tễnh lết vào phòng với sự trợ giúp của các đệ tử. Hắn gặp đại nạn, lại nhiều ngày phiêu bạt trên đường trốn chạy nên gương mặt tiều tụy, hốc hác, tinh thần hoảng loạn, hắn không còn là pháp vương Drikung ngạo mạn, dương dương tự đắc như trước nữa. Bát Tư Ba chẳng buồn chào hỏi, chỉ nhìn hắn bằng ánh mắt lạnh lùng.
Chung Dorje cũng không nhiều lời, hắn vào thẳng đề:
- Đế sư, ta tới đây vì mục đích duy nhất, muốn nói với ngài sự thật mà ngài cần biết.
Bát Tư Ba khẽ nhướn mày:
- Sự thật gì?
Chung Dorje cười lạnh lùng:
- Sự thật về cái chết của Bạch Lan Vương.
Tôi giật mình ngẩng lên, gằn giọng:
- Không phải do chính ngươi gây ra sao?
- Ta là kẻ chủ mưu nhưng các người thử nghĩ xem, làm thế nào mà ta có thể nắm bắt thời cơ và hành động chính xác tuyệt đối như thế?
Hắn ngửa cổ lên trời, cười như điên dại, những vết thương dọc ngang trên trán khiến cho điệu cười của hắn trở nên man rợ, đáng sợ hơn:
- Bạch Lan Vương không hề biết rằng, suốt bao năm qua cậu ta đã nuôi bên mình một con bò cạp, không những vậy, cậu ta còn hết lòng hết dạ với con bò cạp ấy. Nếu ở trên trời biết được sự thật này, chắc chắn linh hồn cậu ta cũng chẳng thể yên ổn.
Bát Tư Ba xông đến, túm lấy cổ áo Chung Dorje:
- Ý ngươi là Kunga Zangpo?
Ánh mắt Chung Dorje rực lửa căm hờn, hắn nhổ nước bọt, nghiến răng nghiến lợi chửi rủa:
- Chính hắn! Chính con bò cạp ấy đã hạ độc Bạch Lan Vương, chính hắn chủ mưu tàn sát phái Drikung. Hắn là loài súc vật độc ác!
- Ngươi nói láo! Kunga Zangpo chẳng có lý do gì để giết hại Kháp Na. Mười hai tuổi cậu ta đã theo hầu Kháp Na, chính tay Kháp Na đốt bỏ giấy bán thân của cậu ta, còn giúp cậu ta cưới được đại tiểu thư phái Sakya, từ đó thoát khỏi kiếp đời nô lệ.
Rồi Bát Tư Ba đột ngột ngừng lại, nhìn xoáy vào Chung Dorje:
- Ta hiểu rồi, ngươi căm hận cậu ta vì tàn sát phái Drikung nên muốn mượn tay ta trả thù Kunga Zangpo chứ gì?
- Ta biết đế sư sẽ không tin ta nên đã mang theo thứ này.
Chung Dorje cởi áo tăng ni, hắn giắt một chiếc ruột tượng nơi eo lưng. Hắn lôi ra một cái túi giấy dầu, lật mở từng lớp từng lớp một, mãi sau một tờ giấy màu vàng đã rách mép mới xuất hiện.
- Đây chính là chứng cứ của việc tên bò cạp tàn độc, vong ân phụ nghĩa ấy phản bội, giết hại chủ nhân. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến hắn tàn sát giáo phái Drikung!
Bát Tư Ba đón lấy tờ giấy hoen ố, nhàu nát ấy, đó là mẫu giấy bán thân thường gặp ở đất Tạng, trên đó có dấu vân tay đen đúa, họ tên, dấu xác nhận của một số người làm chứng. Bát Tư Ba tỏ ra nghi hoặc:
- Đây là…?
- Zhaxirinbo là cái tên trên giấy bán thân nhưng trên đời này chỉ mình ta biết, bây giờ hắn tên là gì. – Chung Dorje cười méo mó. – Tờ giấy bán thân mà Bạch Lan Vương đốt bỏ là giả, cho đến bây giờ, Zhaxirinbo vẫn là Dugong của phái Drikung chúng ta!
Bát Tư Ba run lên vì giận:
- Zhaxirinbo chính là Kunga Zangpo?
Chung Dorje uất hận kể lại toàn bộ sự việc. Thì ra, ngay từ thời đại của ngài Ban Trí Đạt, phái Drikung và phái Sakya đã kết mối hận thù. Khi đó, pháp vương mới nhậm chức của phái Drikung là Chung Dorje đã sai đệ tử đi khắp nơi tìm về một đứa trẻ không cha không mẹ để đưa đến Sakya. Kẻ này tự nhận là cậu của đứa trẻ, nói dối rằng, gia đình nợ nần chồng chất không đủ sức trả nợ, phải đem bán đứa bé đến Sakya. Mục đích của Chung Dorje là muốn cài cắm tai mắt của mình ở Sakya. Hắn đâu ngờ rằng, hơn hai mươi năm sau, quân tốt vô thưởng vô phạt ấy lại trở thành quân cờ quyết định sự thắng thua của cả cuộc cờ.
Kể từ lúc đổi tên thành Kunga Zangpo, hơn mười năm qua, Zhaxirinbo đã theo Kháp Na đi khắp vùng Trung Nguyên, mối liên hệ với phái Drikung mờ nhạt dần. Trên đường về Sakya, lúc ngang qua Maizho Kunggar, hai anh em Bát Tư Ba nhận lời mời của Chung Dorje, ở lại Drikung một vài ngày. Ông cậu hờ, vốn là đệ tử của phái Drikung, đã nhận ra Kunga Zangpo chính là đứa bé năm xưa, thông qua vết bớt trên cổ cậu ta.
Và thế là phái Drikung nối lại sợi dây liên hệ với Kunga Zangpo, cho cậu ta xem giấy bán thân và buộc cậu ta phải làm việc cho Drikung. Ban đầu chỉ là những tin tức mật liên quan đến phái Sakya, nhưng sau đó, mâu thuẫn giữa hai giáo phái ngày càng sâu sắc, gay gắt và cuối cùng không thể hòa giải. Đúng lúc này, Yeshe lẳng lặng mò về từ Vân Nam, tìm đến Drikung, gặp Chung Dorje. Chung Dorje muốn lấy mạng Bát Tư Ba, còn Yeshe đòi giết Kháp Na. Hắn nói, tình thân giữa Bát Tư Ba và Kháp Na không giống quan hệ của những anh em ruột thịt khác, chỉ cần một trong hai người chết đi, người còn lại sẽ sống mà như đã chết và như thế cũng đủ để hủy hoại phái Sakya.
Sau nhiều ngày ủ mưu tính kế, bọn chúng đã lập ra một kế hoạch hoàn hảo. Nhưng kế hoạch này phải do một người thân cận của Bạch Lan Vương thực hiện.
Khi ấy, Kunga Zangpo đã là chàng rể của giáo phái Sakya, sống đời vương giả, mỹ mãn, cậu ta kiên quyết từ chối. Chung Dorje đã đe dọa sẽ phơi bày sự thật về thân phận Dugong của Kunga Zangpo, và chiếu theo luật Tạng, cậu ta buộc phải trở về Drikung tiếp tục cuộc đời làm nô lệ cho giáo phái này. Kunga Zangpo kiên quyết phủ nhận mình là Zhaxirinbo, nhưng trên giấy bán thân còn nguyên dấu vân tay của người thân của Zhaxirinbo và những người làm chứng khác, họ đều còn sống, chỉ cần bọn họ khẳng định người có vết bớt hình cánh bướm trên cổ chính là Zhaxirinbo thì cậu ta sẽ hết đường chối cãi.
Bị ép đến đường cùng, Kunga Zangpo buộc phải nhận lời. Hắn đem Tuyết Sơn Nhất Chi Khao về trồng trong Lang Như Thư Lầu rồi cố ý nói với đầu bếp rằng Kháp Na rất thích ăn quả đỗ. Hắn đã tuân theo chỉ thị của Chung Dorje và Yeshe, từng bước đưa Kháp Na đến chỗ chết. Lẽ ra, với thân phận của hắn lúc ấy, hắn không cần phải thử đồ ăn cho Kháp Na nhưng hắn vẫn kiên trì đảm nhiệm công việc đó với danh nghĩa “đền đáp công ơn” của Kháp Na. Hôm ấy, hắn đã cố ý ăn một lượng nhỏ đỗ xào để mình cũng bị trúng độc, tránh được sự nghi ngờ của mọi người.
- Bây giờ ngài đã hiểu vì sao hắn phải tàn sát phái Drikung rồi chứ? – Chung Dorje đấm thùm thụp vào ngực mình, ánh mắt vằn tia đỏ. – Ngài đưa hắn lên ngôi cao, cho hắn làm bản khâm của phái Sakya, còn nhận lời để con gái hắn trở thành vợ của pháp vương tương lai. Lợi ích chất cao như núi trước mắt hắn, ở đất Tạng, quyền lực của hắn chỉ ở dưới một người mà trên muôn vạn người thì sao hắn chịu để phái Drikung nắm được điểm yếu của mình chứ? Tàn sát phái Drikung nghĩa là giết sạch những người nắm giữ bí mật của hắn. Đối với bên ngoài, hắn sẽ viện cớ làm vậy để trả thù cho Bạch Lan Vương. Hắn thật là nham hiểm, thủ đoạn!
Bát Tư Ba đứng không nổi. Chàng lảo đảo, chực đổ người về phía sau. Tôi hốt hoảng chạy lại đỡ chàng. Chung Dorje ngồi thụp xuống gào khóc, nện từng nắm đấm dữ dằn xuống mặt bàn:
- Ta hối hận muôn phần! Nếu lúc xưa phái Drikung chịu phục tùng Sakya thì cùng lắm chỉ bị mất một số đất đai và cư dân, chứ không phải chịu đại nạn thế này! Trong số hơn một nghìn mạng người của phái Drikung, kẻ thì bị giết chết, người thì bị thiêu cháy, các đệ tử đã phải liều mạng giúp ta trốn thoát, để đến đây gặp ngài.
Rồi hắn đột ngột rút ra một con dao găm từ trong tay áo. Tôi hoảng hốt, vội vàng dang tay chắn trước Bát Tư Ba. Chẳng ngờ, Chung Dorje lại kề con dao ấy vào cổ mình, nước mắt xối xả cùng máu:
- Phái Drikung gặp phải quả báo này đều do ta đã tạo nên nghiệp chướng. Ta có tội với tổ tông của giáo phái. Ta chết là đáng lắm, nhưng những tín đồ khác của giáo phái Drikung đều là những người vô tội! Ta đến gặp ngài là để đền mạng cho Bạch Lan Vương. Giờ đây, khối u nhức nhối nhất của phái Sakya chính là Kunga Zangpo, chỉ có ngài mới tiêu diệt được con bò cạp này và trả thù cho những oan hồn của phái Drikung chúng ta!
Chung Dorje đẩy con dao găm về phía trước, ngửa cổ nhắm mắt lại, sẵn sàng chịu chết. Khoảnh khắc ấy, tôi đã muốn chạy đến, giằng lấy con dao găm biết bao. Tôi đã từng trằn trọc bao đêm trắng, từng khao khát được tự tay xẻ thịt, phanh thây hắn thành hàng trăm nghìn mảnh, nhưng giờ đây, khi con dao găm đang ở ngay trước mặt, tôi lại không đủ gan góc để tiến lên và cầm lấy nó. Bát Tư Ba run lên bần bật, gương mặt tái xám, chàng trầm ngâm hồi lâu rồi thở dài mỏi mệt.
- Ngươi giết hại em trai ta, gây bao tội ác. Bao năm qua ta gắng sức chống đỡ với bệnh tật, chỉ mong chờ đến ngày báo thù. Nhưng nay, ngươi đã bị trời trừng phạt, gặp quả báo! – Chàng hít một hơi thật sâu, quay lưng lại với Chung Dorje, giọng chàng như từ cõi xa xăm vọng lại. – Chung Dorje, ta sẽ không giết ngươi, ngươi chết đi sẽ được giải thoát khỏi mọi chuyện, ngươi phải tiếp tục sống để chịu sự trừng phạt, Những ngày tháng tiếp theo, ngươi sẽ không được yên ổn, mỗi oan hồn của phái Drikung sẽ trở thành cơn ác mộng hằng đêm của người!
Chung Dorje run như cầy sấy, ánh mắt lộ vẻ khiếp hãi. Nỗi sợ hãi của hắn càng tăng thêm sau mỗi câu nói của Bát Tư Ba, cuối cùng, hắn vò đầu, thét lên thảm khốc. các đệ tử của hắn vội chạy đến giữ hắn lại, nhưng hắn ra sức giãy giụa, vùng thoát như thể vừa gặp ma vậy. Rồi hắn lao ra khỏi phòng, vừa chạy vừa gào lên:
- Xin đừng bắt ta đền mạng, ta không cố ý!
Tiếng kêu gào điên dại xa dần rồi tắt hẳn, pháp vương Chung Dorje của phái Drikung đã trở nên quẫn trí vì nỗi sợ hãi kinh hoàng và lương tâm cắn rứt. Các đệ tử đã đưa hắn trở lại đất Tạng, nhưng một thời gian ngắn sau, vào một đêm mùa đông băng giá, hắn chỉ khoác trên người một manh áo mỏng, bỏ đi lang thang rồi chết cóng dưới một gốc cây. Tuy bị tổn thất nặng nề nhưng phái Drikung không vì thế mà diệt vong. Các đệ tử của Chung Dorje đã tập hợp nhau lại, cùng tái thiết đền Drikung. Tuy sau này, phái Drikung cũng có những giai đoạn phát triển nhưng không giữ được địa vị nhất nhì ở đất Tạng như trước kia nữa.
Khi bóng dáng điên dại của Chung Dorje đã khuất xa, Bát Tư Ba chống tay lên bàn, gắng đứng vững, nhìn tôi lo lắng:
- Lam Kha, sáng sớm mai chúng ta sẽ lập tức trở về Sakya!
Tôi sững sờ:
- Chàng yếu như vậy, chịu sao nổi chặng đường gian nan ấy?
Chàng lắc đầu, ánh mắt ngập tràn nỗi đau khổ và âu lo:
- Ta nhất định phải quay về! Chung Dorje nói đúng, chính ta đã đặt Kunga Zangpo vào vị trí ấy và cũng chỉ ta mới có thể loại trừ được hắn, để ngăn mầm họa cho Dharma về sau!
Tôi lo lắng đến phát khóc:
- Thế lực của hắn ở Sakya rất mạnh, hắn lại được đông đảo tín đồ của giáo phái ủng hộ. Chàng trở về lúc này, chưa hẳn đã địch nổi hắn, huống hồ sức khỏe của chàng lại không cho phép!
Tôi đọc thấy trong mắt Bát Tư Ba nỗi bi ai vò xé, chàng nhìn tôi đăm đắm:
- Lam Kha, ta muốn được chết ở Sakya, nơi đó có Kháp Na!
Nỗi đau dâng ngập trong lòng, sống mũi cay sè, tôi thẫn thờ nhìn Bát Tư Ba. Cánh cửa phòng đột nhiên bật mở, ai đó xông vào, bóng dáng cao lớn:
- Thưa thầy, xin cho ta được hộ tống thầy trở về Sakya!
Cả tôi và Bát Tư Ba đều sững sờ vì ngạc nhiên. Những lời của Chung Dorje khiến tôi chấn động, không còn tâm trí để quan sát những gì diễn ra bên ngoài. Có lẽ Chân Kim đã nghe thấy tất cả.
Tôi dìu Bát Tư Ba ngồi xuống ghế, chàng thở dốc một hồi, lắc đầu nói với Chân Kim:
- Không được! Bệ hạ đang tiến đánh nước Tống ở phía nam, ngài còn dự định sẽ đưa quân viễn chinh đi tấn công nước Oa [1]. Hiện em trai thứ ba của Thái tử là An Tây Vương Mang Ca Lạt đang phụ trách quân vụ vùng Tứ Xuyên. Em trai thứ tư của Thái tử là Bắc Bình Vương đang trấn thủ ở phương Bắc. Đường về Sakya xa xôi ngàn dặm, Thái tử vừa được sắc phong, phải chung vai gánh vác trọng trách quân sự, không nên lãng phí cả năm trời hộ tống ta về Sakya. Làm vậy sẽ gây bất lợi cho danh tiếng của Thái tử trong triều đình!
Chân Kim đưa mắt về phía tôi, khẽ gật đầu, gương mặt thoáng nét ửng đỏ rất đáng ngờ.
- Thưa thầy, xin thầy hiểu cho lòng ta!
Tôi chợt hiểu ra, bỗng thấy bối rối, sau cậu ta vẫn chưa chịu rút lui? Bát Tư Ba liếc tôi một cái, rồi nghiêng đầu ho liền một chặp.
Chân Kim ngập ngừng rồi cắn môi, ngẩng đầu lên nhìn Bát Tư Ba:
- Dù ta có trở thành người đứng đầu thiên hạ, dù ta có thể mang lại cho cô ấy quyền lực và danh vị cao nhất mà một người phụ nữ có thể có được nhưng Tiểu Lam vẫn không hề động lòng. Cô ấy không xem trọng những thứ đó. Ta đã hứa sẽ không nạp thêm bất cứ thê thiếp nào nữa, cô ấy cũng không tin. Bởi vậy, ta chỉ còn cách chứng minh tấm lòng chân thành của ta, may ra cô ấy mới chịu đón nhận ta. Hộ tống thầy trở về Sakya, hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của thầy, đó là cách để ta chứng minh tình cảm của ta đành cho cô ấy.
Tôi bực bội, gắt lên:
- Chân Kim, cậu đừng…
Cậu ta lập tức ngắt lời tôi bằng ánh mắt rực lửa và giọng nói quyết đoán:
- Tiểu Lam, ta đã quyết rồi. Thượng sư là người ra vô cùng kính trọng nên trước khi thầy viên tịch, ta thề sẽ không hành động thất lễ. Nay thượng sư phải trở về Sakya xử lý việc nhà trong tình trạng bệnh tình trầm trọng, thầy cần ta trợ giúp trừ bỏ hậu họa. Ngoài ra, với thân phận thái tử, ta đến Sakya sẽ giúp củng cố vững chắc hơn địa vị của Thế tử Dharma. Ta tin rằng, từ đây không kẻ nào ở đất Tạng dám sinh lòng bội phản. Điều này có lợi cho tương lai của Dharma, không phải vậy sao?
Câu nói cuối cùng là nói với tôi, ánh mắt cậu ta rực sáng lấp lánh, ánh sáng của sự nhiệt thành, chân tình ấy khiến tôi không sao tìm nổi lý do để khước từ. Tôi giậm chân, tức tối:
- Cậu… cậu thật là…
Bát Tư Ba đột ngột lên tiếng, giọng chàng phẳng lặng:
- Nếu Bệ hạ không phản đối, chúng ta…
Chân Kim mừng rõ, gương mặt tươi hồng, gật đầu rối rít:
- Xin thầy yên tâm, Phụ hoàng rất mực tôn sùng thầy, chắc chắn ta sẽ thuyết phục được Người.
=========
[1] Tên gọi nước Nhật Bản của người Trung Quốc thời xưa. (DG)
Chân Kim nói không sai, lần này về Sakya, chúng tôi rất khó đối phó với một kẻ đã gây dựng được vây cánh lớn mạnh như Kunga Zangpo. Chúng tôi phải dựa vào thế lực của Chân Kim mới mong giải quyết được triệt để mọi việc. Tôi thầm thở dài, tuy trước mặt Chân Kim, tôi cứ một mực nói rằng có thể tự lo cho bản thân, nhưng khi lâm vào tình cảnh khó khăn, tôi vẫn phải cậy nhờ vào cậu ta để bảo vệ Bát Tư Ba và con trai.
Tháng 3 năm 1274, bất chấp sức khỏe lúc này đã như ngọn đèn trước gió, Bát Tư Ba vẫn quyết định lên đường trở về Sakya với sự tháp tùng của Chân Kim. Chân Kim đã cử sứ giả cấp tốc về Đại Đô trình tấu lên Hốt Tất Liệt, nhưng vì Bát Tư Ba nóng ruột không yên nên Chân Kim quyết định hộ tống Bát Tư Ba lên đường trước và lệnh cho sứ giả mang ý chỉ của Hốt Tất Liệt đuổi theo sau.
Tôi ngồi trong xe ngựa, ngoái nhìn thành phố Lâm Thao cứ xa dần, khuất dần khỏi tầm mắt, không khỏi lưu luyến, bịn rịn. Tuy chỉ lưu lại đây ba năm, nhưng đó là ba năm tôi được ở bên chàng, sống những ngày đầm ấm, thanh bình. Sẽ khó có thành phố nào mang lại cho tôi cảm giác sớm tối bên nhau, thương yêu quấn quýt, keo sơn bền chặt ấy nữa. Khi rời xa nơi này, Bát Tư Ba biết rằng, chàng sẽ chẳng còn cơ hội quay lại nên đã ban tặng toàn bộ tài sản của chàng ở Lâm Thao cho các đệ tử và những người hầu cận đã tận tình chăm sóc chàng suốt ba năm qua.
Một cánh tay ôm nhẹ bờ vai tôi, tôi quay lại, thấy chàng cũng đang hướng mắt ra bên ngoài cửa xe, vẻ mặt tư lự, dường như đang ngẫm ngợi điều gì. Tôi khẽ hỏi:
- Có đau không?
Chàng thoáng ngạc nhiên, sau đó khẽ lắc đầu, bàn tay ghì chặt bờ vai tôi thêm nữa:
- Không thấy đau nữa.
Tôi ngả vào lòng chàng, do dự một lát, rồi thận trọng luồn tay qua vòng eo gầy guộc của chàng, vùi đầu vào bờ vai chàng, giấu đi gương mặt đẫm lệ. Chàng nhẹ nhàng ôm tôi, như thể tôi là người giấy, chỉ cần siết mạnh sẽ nhàu nát. Chúng tôi đã ôm nhau trong nỗi niềm canh cánh, khắc khoải như thế, nước mắc lã chã rơi, thấm vào lần áo sẫm đỏ của chàng, loang ra thành những nụ hoa nho nhỏ, xinh xinh.
Chúng tôi đã đi rất chậm vì Bát Tư Ba không thể chịu nổi hơn bốn canh giờ mỗi ngày trên cung đường gập ghềnh, khúc khuỷu, thế nên tốc độ của đoàn chúng tôi chỉ bằng một phần ba khi xưa. Bát Tư Ba lo lắng không yên, nhiều lần yêu cầu phải tăng tốc nhưng tôi kiên quyết phản đối. Vì dù đã đi rất chậm nhưng chàng vẫn nhiều lần ngất đi, tôi phải lén truyền linh khí mới có thể giúp chàng chống đỡ với đường xa dặm thẳng.
Một đêm nọ, sau hơn bốn tháng đi đường gian khổ, khi đoàn người đã chìm sâu vào giấc ngủ, tôi chợt ngửi thấy mùi hương quen thuộc, vốn là dấu hiệu nhận biết của loài hồ ly. Tôi lồm cồm bò dậy, nhẹ nhàng lách qua người Bát Tư Ba, xuống giường, mặc áo khoác và ra ngoài.
Dưới bóng trăng dát bạc, thiếu nữ yêu kiều tha thướt đang thả hồn bên hồ nước. Tôi hớn hở reo lên:
- Khabi? Sao cô lại tới đây?
Cô ấy yểu điệu xoay người lại, thấy tôi, rầu rầu đáp:
- Ta muốn tìm hiểu xem, cơn cớ gì mà Chân Kim sẵn sàng từ bỏ cuộc sống dư dả ở Đại Đô để vượt đường xa dặm thẳng, muôn phần gian nan, cực khổ để đến vùng đất quanh năm tuyết phủ xa tít mù ấy.
Tôi đỏ mặt, ấp úng:
- Cô… cô biết cả rồi?
- Chân Kim phái người về Đại Đô cầu xin Bệ hạ cho phép nó hộ tống Bát Tư Ba về Sakya. Bệ hạ đã đồng ý, có lẽ chỉ nay mai sứ giả sẽ đuổi kịp các vị. Nhưng ta cảm thấy quyết định này của Chân Kim rất lạ lùng. Dù sao thì nó cũng không nên rời Đại Đô trong thời gian dài như vậy, khi vừa mới được sắc phong làm thái tử. Nếu không vì điều gì đó khiến nó nặng lòng, chắc chắn nó sẽ không đưa ra một quyết định kém thông minh như vậy.
Cô ấy khẽ chau hàng mày dài tuyệt đẹp, liếc xéo tôi đầy ẩn ý.
- Ta đoán định rằng, nó đã gặp cô nên hồn phách mới điên đảo mà bỏ bê mọi thứ để đi theo cô như thế, đúng không?
Tôi thở dài, kể lại đầu đuôi câu chuyện. Cô ấy vừa nghe vừa lắc đầu, lúc thì đập tay, lúc thì giậm chân:
- Thì ra là vậy, thì ra là vậy! Không ngờ nó nặng lòng với cô đến thế! Mười ba năm qua vẫn không nguôi thương nhớ cô. Ta nên vui mừng vì sinh được một đứa con si tình như vậy, hay nên phiền lòng vì sự cố chấp của nó?
Tôi ngập ngừng một lát, nhưng rồi vẫn quyết định bày tỏ lòng mình:
- Khabi, tôi rất cảm động vì những việc làm cao thượng của Chân Kim. Tôi cũng biết cậu ta vẫn đang chờ đợi nhưng tôi sẽ không yêu cậu ta. Trái tim tôi rất nhỏ bé, chỉ đủ chỗ cho Kháp Na và Bát Tư Ba thôi.
- Ta biết chứ. Người con gái nào trải qua những hạnh ngộ thăng trầm của cuộc đời như cô, có được hai người đàn ông sẵn sàng hy sinh tính mạng vì mình như thế, cũng sẽ không thể đón nhận bất cứ người đàn ông nào khác. Nhưng con trai ta đã trưởng thành, ta có khuyên can cũng chẳng ích gì. Chân Kim đã ba mươi tuổi, là cha của năm đứa trẻ, hãy để nó tự quyết định.
Cô ấy chợt ngừng lời, nhìn tôi nghiêm nghị.
- Có điều, Tiểu Lam à, nếu cô không có tình cảm với nó thì đừng tạo cho nó bất cứ ảo tưởng nào vì hy vọng càng nhiều, thất vọng sẽ càng sâu.
Tôi gật đầu nhận lời.
Mấy ngày sau, chúng tôi nhận được ý chỉ của Hốt Tất Liệt, cho phép Thái tử Chân Kim hộ tống đế sư Bát Tư Ba trở về Sakya.
~.~.~.~.~.~
- Sự kiện Chân Kim hộ tống Bát Tư Ba về Sakya chỉ được ghi chép trong các tư liệu lịch sử bằng tiếng Mông Cổ và tiếng Tạng, không có trong bất cứ tài liệu tiếng Hán nào nên đã có nhiều nghi vấn được đặt ra. Nhưng người ta không tìm thấy bất cứ tài liệu lịch sử triều Nguyên ghi chép bằng tiếng Hán nào về hoạt động của Chân Kim trong suốt năm năm kể từ năm 1274 đến năm 1279.
Chàng trai trẻ tươi cười:
- Nếu là tôi, tôi cũng sẽ nghi ngờ. Vì Chân Kim vừa được sắc phong làm thái tử, dù vua cha có yêu thương, tín nhiệm đến đâu, cậu ta cũng nên lo lắng về việc những người anh em khác đang nhòm ngó vị trí của mình. Hành trình hộ tống Bát Tư Ba trở về Sakya xa xôi vạn dặm kéo dài suốt mấy năm trời, nếu trong thời gian đó, Hốt Tất Liệt đột ngột qua đời thì làm sao cậu ta kịp quay về Đại Đô để kế vị?
Tôi gật đầu:
- Cậu nói đúng lắm, hộ tống Bát Tư Ba về Sakya là quyết định chứa đựng rất nhiều rủi ro của Chân Kim. Thế nên, sau khi đối chiếu thời gian trong các tài liệu được ghi chép bằng tiếng Mông Cổ, tiếng Tạng và tiếng Hán, không thể không thừa nhận rằng Chân Kim thực sự đã đến Sakya thì các nhà sử học vốn giữ thái độ hoài nghi đã đặt ra một câu hỏi khác: Chân Kim đến đó làm gì?
Chàng trai trẻ nhìn tôi, mỉm cười đầy ẩn ý.
Tôi phân tích tiếp:
- Giới sử học có nhiều phán đoán khác nhau. Có người cho rằng, Chân Kim muốn thiết lập nha Tuyên úy Wusi cho riêng khu vực Tây Tạng nên mới đến đây. Có người lại bảo, vì Hốt Tất Liệt muốn dọn đường qua Tây Tạng để tấn công sang Ấn Độ, hoàn thành giấc mộng thâu tóm toàn bộ đại lục Âu – Á của mình.
Cậu ta phì cười:
- Sức tưởng tượng của các vị thật phong phú. Những lập luận kiểu này hoàn toàn không có căn cứ.
Lòng tôi chợt thắt lại khi nhớ đến số mệnh bi đát của Chân Kim. Tôi buồn bã nói:
- Dù thế nào, sự thực là Chân Kim đã đến Sakya. Nếu số phận không nghiệt ngã, buộc cậu ta phải ra đi trước Hốt Tất Liệt thì cậu ta đã là vị hoàng đế ở Trung Nguyên duy nhất trong lịch sử Trung Quốc từng đặt chân đến Tây Tạng.
/64
|