Lương Khang là cái đồ không biết điều, tự mình gây họa rồi chạy trước, để lại cục diện rối rắm cho Thiệu Trọng lo, bảo sao cứ bị Thiệu Trọng mắng suốt. Thiệu Trọng cảm thấy, có vẻ như trận vừa rồi căn bản vẫn chưa làm hắn ta biết sợ.
Nhưng dù sao bây giờ cũng không phải là lúc để tính sổ với hắn, Thiệu Trọng nghĩ, giải quyết chuyện của Đại sư huynh trước cái đã, còn không, không nói đến chuyện khác, chỉ riêng việc có nguyên cái tượng phật sống an tọa trong nhà cũng đủ để người ta hoảng loạn . Điển hình là vị Đại sư huynh băng sơn luôn tỏa ra khí lạnh của hắn, Thiệu Trọng thực không thể chịu đựng được, vẫn là tiễn huynh ấy về phủ Phúc Vương là êm nhất.
Vậy nên Thiệu Trọng hắng gọng một cái, khom người dịu giọng nói: “À….vậy là hai người vẫn chưa nói rõ ràng với nhau, mà huynh thì cứ vậy bỏ đi sao?”
La Phương phóng cái nhìn sắc lẹm, không chút lưu tình quét về phía Thiệu Trọng: “Hắn ta đã nói đến mức đó rồi, ông đây còn mặt dày mày dặn ở lại không phải là ỷ lại vào hắn hay sao?”
Nhưng vấn đề là, người ta có nói gì đâu! Thiệu Trọng đỡ trán, gân xanh trên thái dương giật “pằng pằng—” như muốn bứt ra, khó chịu vô cùng, “Phúc Vương nói ngài ấy đính hôn với thiên kim nhà ai?”
La Phương chớp mắt một cái, không trả lời.
“Chưa nói đúng không?” Thiệu Trọng xoa huyệt thái dương, uể oải góp ý: “Đại sư huynh à, không phải nói chứ, ngày thường nhìn huynh chững chạc như vậy, nhưng cứ đụng vào chuyện tình cảm thì huynh lại— xúc động quá vậy? người ta chỉ mới nói là người nhà thúc giục, chứ có phải thành thân ngay đâu. Nói thật chứ, ngài ấy là người Hoàng tộc, kéo dài đến bây giờ đã không dễ dàng gì, cứ cho là huynh không cảm kích đi, nhưng ít nhiều gì cũng phải cảm động một chút chứ!”
“Huynh hiểu chứ.” La Phương vẫn lạnh mặt như cũ, nhưng sắc mặt đã tốt hơn vừa rồi khá nhiều. “Nhưng cảm động là một chuyện, cảm tình lại là chuyện khác. Huynh có cảm động bao nhiêu đi nữa, cũng không thể trơ mắt ra nhìn hắn thành thân, mà vẫn có thể xem như không có gì mà tiếp tục bên cạnh hắn được. Như vậy chính là —không biết tự trọng!”
Ngay cả câu không biết tự trọng hắn ta cũng đã nói ra rồi, như vậy Thiệu Trọng cũng đã hiểu rõ được thái độ của La Phương. Nhìn cái vẻ như Ông Nội của hắn ta, chắc chắn ngày thường cũng là Phúc Vương dỗ hắn, còn không, sao hắn ta lại nuôi ra được cái tính tình thế này. Nghĩ đến đây, bỗng nhiên Thiệu Trọng cảm thấy có chút ê ẩm, ngay cả một ánh mắt tốt Thất Nương cũng không chịu cho y, vậy mà bây giờ y còn phải kiên nhẫn nhỏ nhẹ ngồi đây khuyên nhủ ông nội Đại sư huynh được người ta nâng trong tay thế này, ông trời thật là bất công quá mà!
Tuy trằng than thầm trong lòng như vậy, nhưng ngoài mặt Thiệu Trọng cũng không dám ho he nửa câu trước mặt La Phương, y gãi đầu, cười nói tiếp: “Vậy— không phải Phúc Vương còn chưa quyết định sao? Nói không chừng ngài ấy— chỉ là đang thăm dò huynh, hoặc cũng có thể muốn nghe huynh dỗ.”
“Loại chuyện thế này mà có thể mang ra thăm dò sao?” La Phương lập tức nghiêm mặt “Trọng ca nhi à, đệ còn nhỏ, không hiểu mấy chuyện này đâu.”
Thiệu Trọng dứt khoát không khuyên nữa, thuận tay kéo ghế ngồi bên cạnh La Phương, suy nghĩ một hồi, rồi nhỏ giọng nói: “Sư huynh, huynh muốn nghe chuyện không, là chuyện về một vị bằng hữu của đệ?”
Nói xong, y cũng không chờ La Phương trả lời, bắt đầu kể: “Rất lâu trước kia đệ có một người bạn, có nói tên huynh cũng không biết đâu. Thân thế của huynh ấy và đệ khá giống nhau. Mẫu thân mất sớm, phụ thân tục huyền (lấy vợ khác), vị kế mẫu kia của huynh ấy nhân phẩm rất tệ, vì muốn tranh giành gia sản trong nhà, nên cố tình tìm bọn đầu đường xó chợ, dụ dỗ huynh ấy bỏ học, huynh ấy tuổi nhỏ, không chịu học hành, suốt ngày chơi bời lêu lổng, sinh sự đánh nhau. Phụ thân vốn đã không thích huynh ấy, sau đó lại càng có cớ để đuổi huynh ấy ra khỏi nhà. Vị bằng hữu kia của đệ không học hành không nghề nghiệp, nên chẳng bao lâu trên người đã không còn chút bạc nào, tán gia bại sản, cuối cùng lưu lạc đến mức cả cơm cũng chẳng đủ no.
Có một ngày, huynh ấy bị đói đến không chịu nổi, đành phải làm liều trộm hai cái bánh bao, kết quả bị tiểu nhị quán phát hiện, đuổi theo đánh mắng, suýt nữa đã bị đánh chết. Ngay lúc huynh ấy tuyệt vọng nhất, bỗng nhiên xuất hiện một nữ nhân, nàng ấy không chỉ bảo hạ nhân ngăn tiểu nhị lại, mà còn cho huynh ấy một thỏi bạc, bảo huynh ấy kiếm việc làm ăn.
Huynh ấy rất cảm kích, lén lút đi theo chiếc xe ngựa chở nữ nhân kia, muốn nhìn xem nàng ấy rốt cục có hình dáng thế nào. Khó khăn lắm mới đợi được nữ nhân ấy bước xuống, huynh ấy mới đột nhiên nhận ra, thì ra huynh ấy đã biết nữ nhân ấy từ lâu. Nữ nhân này vừa đến kinh thành cách đây vài năm, huynh ấy đã từng gặp qua trong một dịp yến hội. Chẳng qua, về sau nữ nhân ấy gả cho người, sau đó trượng phu nàng ấy chết, nàng ấy trở thành quả phụ.
Không hiểu vì sao, từ ngày đó trở đi, huynh ấy bỗng nhiên thông suốt, quyết tâm không thể để mình như vậy nữa, vì vậy huynh ấy đi tìm nhà cậu của mình, cầu xin nhà cậu giúp huynh ấy đến học đường học lại. Cậu huynh ấy mềm lòng, quả nhiên đáp ứng, thậm chí còn đưa huynh ấy đến đền Bắc Sơn ở ngoại thành.
Chỉ là, ngay cả huynh ấy cũng không ngờ được, thế nhưng có thể gặp lại nữ nhân kia.”
Thiệu Trọng kể đến đây thì dừng một chút, giọng điệu nặng nề. La Phương nhíu mày một cái, không nhịn được đưa mắt nhìn y, trong đầu cảm thấy rất mơ hồ. Hắn cảm thấy có gì đó không đúng, nhưng lại không biết không đúng chỗ nào.
Thiệu Trọng tiếp tục kể:
“Nàng quả phụ kia ở trong một am ni cô trên sườn núi, sáng sớm hằng ngày sẽ lên núi Bắc Sơn đánh đàn. Người bạn kia của đệ nhận ra nàng, nhưng không dám bước đến chào hỏi, chỉ ngày ngày trốn sau tảng đá nghe nàng đánh đàn mà thôi. Thật ra cầm nghệ của nàng không được tốt lắm, luôn có chỗ đàn sai, nhưng mà người bạn kia của đệ lại thích nghe, cứ như là bị nghiện vậy. Trong hai năm, bất kể trời mưa hay nắng, huynh ấy đều ở trên núi chờ nàng. Lúc ấy, người bạn kia của đệ vẫn chưa biết rằng mình đã thích nàng quả phụ kia, về sau, huynh ấy trở lại kinh thành thi cử, sau khi thi xong, cậu huynh ấy bảo muốn tính chuyện hôn nhân cho huynh ấy, huynh ấy mới nhận ra rằng, dường như ngoài nàng quả phụ kia, ai huynh ấy cũng không thích.”
Câu chuyện rất bình thường, cứ như mặt nước trong không chút gợn sóng, giọng kể của Thiệu Trọng cũng rất thong thả, cứ như không hề mang theo chút tình cảm nào, nhưng La Phương lại không nhịn được tiếp tục truy hỏi: “Vậy sau đó thì sao?” Vị bằng hữu kia và nàng quả phụ có đến được với nhau không?
Gương mặt Thiệu Trọng hiện lên vẻ bi thương, khóe miệng nhếch lên, nặn ra một nụ cười còn khó coi hơn cả khóc:
“Cuối cùng huynh ấy cũng hiểu được lòng mình, vì vậy quyết định nhờ người đến cửa cầu hôn nữ nhân kia, tối hôm đó huynh ấy trằn trọc không ngủ được, cứ nhắm mắt lại nhìn thấy bóng hình nàng ấy, trong lòng vui sướng vô cùng. Sáng sớm hôm sau, bà mối huynh ấy mời còn chưa tới cửa, mà chính bản thân huynh ấy….đã ngoài ý muốn, qua đời….”
La Phương tuyệt nhiên không hề nghĩ rằng câu chuyện lại kết thúc đột ngột như vậy, nhất thời sửng ra, há miệng, muốn nói gì đó nhưng lại không biết phải nói điều gì. Cùng Thiệu Trọng bi thương một lúc sau, đột nhiên La Phương nhận ra, vỗ bàn rầm một cái, tức giận nói: “Tên nhóc khốn kiếp nhà cậu, cả gan bịa chuyện lừa tôi. Vị bằng hữu kia của cậu chết rồi, vậy sao cậu biết được câu chuyện này hả?”
Thiệu Trọng thản nhiên trả lời: “Đoạn cuối đúng là đệ bùa ra thật, nhưng trước đó đều là thật cả đấy. Nếu muốn bịa chuyện, sao đệ lại không bịa câu chuyện nào đó cho ra môn ra khoai, không phải tình chàng ý thiếp thì chí ít cũng phải bên nhau đầu bạc răng long, chứ mắc gì phải bịa ra câu chuyện thê lương lãng nhách như vậy chứ?”
La Phương thấy cũng có lý, nên lắc đầu thở dài: “Được rồi, sư huynh hiểu ý cậu, không phải cậu đang nhắc sư huynh rằng nên biết quí trọng sao? Chuyện này — haizzzz — ”, hắn lại thở dài một cái, vẻ mặt ưu thương.
Lúc này tâm trạng Thiệu Trọng đã vô cùng nặng nề, nên chẳng còn hơi sức đâu mà đi khuyên giải an ủi ai nữa, vậy nên y lên tiếng chào La Phương rồi trở về phòng mình nằm nghỉ. Y ảo não ngả người xuống giường, nhắm mắt lại, cố gắng thư giãn không suy nhĩ, thế nhưng, có những thứ mặc dù đã vô cũng xưa cũ, vẫn cứ luôn ghim sâu trong đầu y, khiến y không sao được an bình.
Lương Khang rón ra rón rén bước vào phòng, muốn mở miệng nói chuyện, chợt thấy hai hàng nước mắt trong suốt trượt dài trên má Thiệu Trọng, hắn sững sờ, không nói được lời nào.
Lương Khang lại quay ra ngoài tìm La Phương, tìm khắp chẳng thấy y đâu, gọi Thường An đến hỏi, mới biết là vừa rồi Phúc Vương tới, cưỡng ép La Phương mang về Vương phủ rồi. Lương Khang ngồi trên bậc thềm hành lang vò đầu rầu rĩ, hôm nay là ngày quỷ gì không biết, ngay cả Thiệu Trọng cũng khóc, còn gì để nói nữa đây?
Đến khi trời tối Bạch Đạo Nhân mới trở về, vừa bước vào cửa đã bị Lương Khang lôi vào trong, tỉ mỉ đem chuyện ban trưa nói kể lại cho ông, rồi hỏi với vẻ mặt đưa đám: “Sư phụ, con thấy Trọng ca nhi có vẻ không được ổn lắm, vẻ mặt cứ hệt như lúc xưa ngài vừa mang hắn tới ấy. Ngài nói xem, có khi nào hắn lại biến về như trước kia không?”
Khi đó Thiệu Trọng với ai cũng khách khí, nhìn có vẻ ôn hòa, nhưng thật ra trong lòng lại hời hợt cảnh giác, cứ như không tin tưởng vào bất cứ ai. So ra, Lương Khang cảm thấy, bây giờ vị tiểu sư đệ của mình mặt dày thích đùa bỡn vẫn đáng yêu hơn cả— mặc dù lúc hắn nổi điên có hơi kinh khủng một chút.
“Nói bậy gì đấy?” Bạch Đạo Nhân tức giận mắng: “Mày cho là Trọng ca nhi giống như mày chắc! Nó biết nó làm gì là được rồi. Nó cũng đã mười sáu mười bảy tuổi rồi còn đâu, mày không cho người ta có chút tâm sự riêng nữa hả. Lo chuyện của mày đi kìa, chuyện của Trọng ca nhi để nó tự lo, mày có lo cũng lo chả được.”
Lương Khang ngẫm nghĩ thấy Bạch Đạo Nhân nói cũng đúng, gãi gãi đầu, cười cười, rồi lại dặn: “Sư Phụ ngài nói lại với Trọng ca nhi, chuyện gì con không giúp được, chứ nếu như nó muốn đánh ai, bảo con một tiếng, con đảm bảo đánh thằng đó răng rơi đầy đất.”
Bạch Đạo Nhân tức giận đuổi hắn đi.
“Tam sư huynh nói gì với ngài vậy?” Bạch Đạo Nhân vào nhà, mới phát hiện Thiệu Trọng cũng đã dậy. Trong phòng thắp nến, Thiệu Trọng cầm quyển sách nằm trên sạp lật, sắc mặt như thường, không có vẻ gì là vừa mới khóc.
Bạch Đạo Nhân thở dài, ánh mắt phức tạp: “Nếu con đã thích Đại tiểu thư Lư gia đến vậy, mọi người cũng sẽ giúp con.”
Thiệu Trọng chớp mắt, để sách xuống, thở dài: “Con cũng nghe Tam sư huynh nói nhảm rồi, lúc nãy huynh ấy vào, con biết.” Chẳng qua là lúc đó, lòng y còn đang rất loạn, mới không lên tiếng mà thôi. “Bất quá, là con cưới vợ, tự nhiên tự con lo được.”
Bạch Đạo Nhân mỉm cười, vỗ đầu y, “Sư phụ biết.”
Nhưng dù sao bây giờ cũng không phải là lúc để tính sổ với hắn, Thiệu Trọng nghĩ, giải quyết chuyện của Đại sư huynh trước cái đã, còn không, không nói đến chuyện khác, chỉ riêng việc có nguyên cái tượng phật sống an tọa trong nhà cũng đủ để người ta hoảng loạn . Điển hình là vị Đại sư huynh băng sơn luôn tỏa ra khí lạnh của hắn, Thiệu Trọng thực không thể chịu đựng được, vẫn là tiễn huynh ấy về phủ Phúc Vương là êm nhất.
Vậy nên Thiệu Trọng hắng gọng một cái, khom người dịu giọng nói: “À….vậy là hai người vẫn chưa nói rõ ràng với nhau, mà huynh thì cứ vậy bỏ đi sao?”
La Phương phóng cái nhìn sắc lẹm, không chút lưu tình quét về phía Thiệu Trọng: “Hắn ta đã nói đến mức đó rồi, ông đây còn mặt dày mày dặn ở lại không phải là ỷ lại vào hắn hay sao?”
Nhưng vấn đề là, người ta có nói gì đâu! Thiệu Trọng đỡ trán, gân xanh trên thái dương giật “pằng pằng—” như muốn bứt ra, khó chịu vô cùng, “Phúc Vương nói ngài ấy đính hôn với thiên kim nhà ai?”
La Phương chớp mắt một cái, không trả lời.
“Chưa nói đúng không?” Thiệu Trọng xoa huyệt thái dương, uể oải góp ý: “Đại sư huynh à, không phải nói chứ, ngày thường nhìn huynh chững chạc như vậy, nhưng cứ đụng vào chuyện tình cảm thì huynh lại— xúc động quá vậy? người ta chỉ mới nói là người nhà thúc giục, chứ có phải thành thân ngay đâu. Nói thật chứ, ngài ấy là người Hoàng tộc, kéo dài đến bây giờ đã không dễ dàng gì, cứ cho là huynh không cảm kích đi, nhưng ít nhiều gì cũng phải cảm động một chút chứ!”
“Huynh hiểu chứ.” La Phương vẫn lạnh mặt như cũ, nhưng sắc mặt đã tốt hơn vừa rồi khá nhiều. “Nhưng cảm động là một chuyện, cảm tình lại là chuyện khác. Huynh có cảm động bao nhiêu đi nữa, cũng không thể trơ mắt ra nhìn hắn thành thân, mà vẫn có thể xem như không có gì mà tiếp tục bên cạnh hắn được. Như vậy chính là —không biết tự trọng!”
Ngay cả câu không biết tự trọng hắn ta cũng đã nói ra rồi, như vậy Thiệu Trọng cũng đã hiểu rõ được thái độ của La Phương. Nhìn cái vẻ như Ông Nội của hắn ta, chắc chắn ngày thường cũng là Phúc Vương dỗ hắn, còn không, sao hắn ta lại nuôi ra được cái tính tình thế này. Nghĩ đến đây, bỗng nhiên Thiệu Trọng cảm thấy có chút ê ẩm, ngay cả một ánh mắt tốt Thất Nương cũng không chịu cho y, vậy mà bây giờ y còn phải kiên nhẫn nhỏ nhẹ ngồi đây khuyên nhủ ông nội Đại sư huynh được người ta nâng trong tay thế này, ông trời thật là bất công quá mà!
Tuy trằng than thầm trong lòng như vậy, nhưng ngoài mặt Thiệu Trọng cũng không dám ho he nửa câu trước mặt La Phương, y gãi đầu, cười nói tiếp: “Vậy— không phải Phúc Vương còn chưa quyết định sao? Nói không chừng ngài ấy— chỉ là đang thăm dò huynh, hoặc cũng có thể muốn nghe huynh dỗ.”
“Loại chuyện thế này mà có thể mang ra thăm dò sao?” La Phương lập tức nghiêm mặt “Trọng ca nhi à, đệ còn nhỏ, không hiểu mấy chuyện này đâu.”
Thiệu Trọng dứt khoát không khuyên nữa, thuận tay kéo ghế ngồi bên cạnh La Phương, suy nghĩ một hồi, rồi nhỏ giọng nói: “Sư huynh, huynh muốn nghe chuyện không, là chuyện về một vị bằng hữu của đệ?”
Nói xong, y cũng không chờ La Phương trả lời, bắt đầu kể: “Rất lâu trước kia đệ có một người bạn, có nói tên huynh cũng không biết đâu. Thân thế của huynh ấy và đệ khá giống nhau. Mẫu thân mất sớm, phụ thân tục huyền (lấy vợ khác), vị kế mẫu kia của huynh ấy nhân phẩm rất tệ, vì muốn tranh giành gia sản trong nhà, nên cố tình tìm bọn đầu đường xó chợ, dụ dỗ huynh ấy bỏ học, huynh ấy tuổi nhỏ, không chịu học hành, suốt ngày chơi bời lêu lổng, sinh sự đánh nhau. Phụ thân vốn đã không thích huynh ấy, sau đó lại càng có cớ để đuổi huynh ấy ra khỏi nhà. Vị bằng hữu kia của đệ không học hành không nghề nghiệp, nên chẳng bao lâu trên người đã không còn chút bạc nào, tán gia bại sản, cuối cùng lưu lạc đến mức cả cơm cũng chẳng đủ no.
Có một ngày, huynh ấy bị đói đến không chịu nổi, đành phải làm liều trộm hai cái bánh bao, kết quả bị tiểu nhị quán phát hiện, đuổi theo đánh mắng, suýt nữa đã bị đánh chết. Ngay lúc huynh ấy tuyệt vọng nhất, bỗng nhiên xuất hiện một nữ nhân, nàng ấy không chỉ bảo hạ nhân ngăn tiểu nhị lại, mà còn cho huynh ấy một thỏi bạc, bảo huynh ấy kiếm việc làm ăn.
Huynh ấy rất cảm kích, lén lút đi theo chiếc xe ngựa chở nữ nhân kia, muốn nhìn xem nàng ấy rốt cục có hình dáng thế nào. Khó khăn lắm mới đợi được nữ nhân ấy bước xuống, huynh ấy mới đột nhiên nhận ra, thì ra huynh ấy đã biết nữ nhân ấy từ lâu. Nữ nhân này vừa đến kinh thành cách đây vài năm, huynh ấy đã từng gặp qua trong một dịp yến hội. Chẳng qua, về sau nữ nhân ấy gả cho người, sau đó trượng phu nàng ấy chết, nàng ấy trở thành quả phụ.
Không hiểu vì sao, từ ngày đó trở đi, huynh ấy bỗng nhiên thông suốt, quyết tâm không thể để mình như vậy nữa, vì vậy huynh ấy đi tìm nhà cậu của mình, cầu xin nhà cậu giúp huynh ấy đến học đường học lại. Cậu huynh ấy mềm lòng, quả nhiên đáp ứng, thậm chí còn đưa huynh ấy đến đền Bắc Sơn ở ngoại thành.
Chỉ là, ngay cả huynh ấy cũng không ngờ được, thế nhưng có thể gặp lại nữ nhân kia.”
Thiệu Trọng kể đến đây thì dừng một chút, giọng điệu nặng nề. La Phương nhíu mày một cái, không nhịn được đưa mắt nhìn y, trong đầu cảm thấy rất mơ hồ. Hắn cảm thấy có gì đó không đúng, nhưng lại không biết không đúng chỗ nào.
Thiệu Trọng tiếp tục kể:
“Nàng quả phụ kia ở trong một am ni cô trên sườn núi, sáng sớm hằng ngày sẽ lên núi Bắc Sơn đánh đàn. Người bạn kia của đệ nhận ra nàng, nhưng không dám bước đến chào hỏi, chỉ ngày ngày trốn sau tảng đá nghe nàng đánh đàn mà thôi. Thật ra cầm nghệ của nàng không được tốt lắm, luôn có chỗ đàn sai, nhưng mà người bạn kia của đệ lại thích nghe, cứ như là bị nghiện vậy. Trong hai năm, bất kể trời mưa hay nắng, huynh ấy đều ở trên núi chờ nàng. Lúc ấy, người bạn kia của đệ vẫn chưa biết rằng mình đã thích nàng quả phụ kia, về sau, huynh ấy trở lại kinh thành thi cử, sau khi thi xong, cậu huynh ấy bảo muốn tính chuyện hôn nhân cho huynh ấy, huynh ấy mới nhận ra rằng, dường như ngoài nàng quả phụ kia, ai huynh ấy cũng không thích.”
Câu chuyện rất bình thường, cứ như mặt nước trong không chút gợn sóng, giọng kể của Thiệu Trọng cũng rất thong thả, cứ như không hề mang theo chút tình cảm nào, nhưng La Phương lại không nhịn được tiếp tục truy hỏi: “Vậy sau đó thì sao?” Vị bằng hữu kia và nàng quả phụ có đến được với nhau không?
Gương mặt Thiệu Trọng hiện lên vẻ bi thương, khóe miệng nhếch lên, nặn ra một nụ cười còn khó coi hơn cả khóc:
“Cuối cùng huynh ấy cũng hiểu được lòng mình, vì vậy quyết định nhờ người đến cửa cầu hôn nữ nhân kia, tối hôm đó huynh ấy trằn trọc không ngủ được, cứ nhắm mắt lại nhìn thấy bóng hình nàng ấy, trong lòng vui sướng vô cùng. Sáng sớm hôm sau, bà mối huynh ấy mời còn chưa tới cửa, mà chính bản thân huynh ấy….đã ngoài ý muốn, qua đời….”
La Phương tuyệt nhiên không hề nghĩ rằng câu chuyện lại kết thúc đột ngột như vậy, nhất thời sửng ra, há miệng, muốn nói gì đó nhưng lại không biết phải nói điều gì. Cùng Thiệu Trọng bi thương một lúc sau, đột nhiên La Phương nhận ra, vỗ bàn rầm một cái, tức giận nói: “Tên nhóc khốn kiếp nhà cậu, cả gan bịa chuyện lừa tôi. Vị bằng hữu kia của cậu chết rồi, vậy sao cậu biết được câu chuyện này hả?”
Thiệu Trọng thản nhiên trả lời: “Đoạn cuối đúng là đệ bùa ra thật, nhưng trước đó đều là thật cả đấy. Nếu muốn bịa chuyện, sao đệ lại không bịa câu chuyện nào đó cho ra môn ra khoai, không phải tình chàng ý thiếp thì chí ít cũng phải bên nhau đầu bạc răng long, chứ mắc gì phải bịa ra câu chuyện thê lương lãng nhách như vậy chứ?”
La Phương thấy cũng có lý, nên lắc đầu thở dài: “Được rồi, sư huynh hiểu ý cậu, không phải cậu đang nhắc sư huynh rằng nên biết quí trọng sao? Chuyện này — haizzzz — ”, hắn lại thở dài một cái, vẻ mặt ưu thương.
Lúc này tâm trạng Thiệu Trọng đã vô cùng nặng nề, nên chẳng còn hơi sức đâu mà đi khuyên giải an ủi ai nữa, vậy nên y lên tiếng chào La Phương rồi trở về phòng mình nằm nghỉ. Y ảo não ngả người xuống giường, nhắm mắt lại, cố gắng thư giãn không suy nhĩ, thế nhưng, có những thứ mặc dù đã vô cũng xưa cũ, vẫn cứ luôn ghim sâu trong đầu y, khiến y không sao được an bình.
Lương Khang rón ra rón rén bước vào phòng, muốn mở miệng nói chuyện, chợt thấy hai hàng nước mắt trong suốt trượt dài trên má Thiệu Trọng, hắn sững sờ, không nói được lời nào.
Lương Khang lại quay ra ngoài tìm La Phương, tìm khắp chẳng thấy y đâu, gọi Thường An đến hỏi, mới biết là vừa rồi Phúc Vương tới, cưỡng ép La Phương mang về Vương phủ rồi. Lương Khang ngồi trên bậc thềm hành lang vò đầu rầu rĩ, hôm nay là ngày quỷ gì không biết, ngay cả Thiệu Trọng cũng khóc, còn gì để nói nữa đây?
Đến khi trời tối Bạch Đạo Nhân mới trở về, vừa bước vào cửa đã bị Lương Khang lôi vào trong, tỉ mỉ đem chuyện ban trưa nói kể lại cho ông, rồi hỏi với vẻ mặt đưa đám: “Sư phụ, con thấy Trọng ca nhi có vẻ không được ổn lắm, vẻ mặt cứ hệt như lúc xưa ngài vừa mang hắn tới ấy. Ngài nói xem, có khi nào hắn lại biến về như trước kia không?”
Khi đó Thiệu Trọng với ai cũng khách khí, nhìn có vẻ ôn hòa, nhưng thật ra trong lòng lại hời hợt cảnh giác, cứ như không tin tưởng vào bất cứ ai. So ra, Lương Khang cảm thấy, bây giờ vị tiểu sư đệ của mình mặt dày thích đùa bỡn vẫn đáng yêu hơn cả— mặc dù lúc hắn nổi điên có hơi kinh khủng một chút.
“Nói bậy gì đấy?” Bạch Đạo Nhân tức giận mắng: “Mày cho là Trọng ca nhi giống như mày chắc! Nó biết nó làm gì là được rồi. Nó cũng đã mười sáu mười bảy tuổi rồi còn đâu, mày không cho người ta có chút tâm sự riêng nữa hả. Lo chuyện của mày đi kìa, chuyện của Trọng ca nhi để nó tự lo, mày có lo cũng lo chả được.”
Lương Khang ngẫm nghĩ thấy Bạch Đạo Nhân nói cũng đúng, gãi gãi đầu, cười cười, rồi lại dặn: “Sư Phụ ngài nói lại với Trọng ca nhi, chuyện gì con không giúp được, chứ nếu như nó muốn đánh ai, bảo con một tiếng, con đảm bảo đánh thằng đó răng rơi đầy đất.”
Bạch Đạo Nhân tức giận đuổi hắn đi.
“Tam sư huynh nói gì với ngài vậy?” Bạch Đạo Nhân vào nhà, mới phát hiện Thiệu Trọng cũng đã dậy. Trong phòng thắp nến, Thiệu Trọng cầm quyển sách nằm trên sạp lật, sắc mặt như thường, không có vẻ gì là vừa mới khóc.
Bạch Đạo Nhân thở dài, ánh mắt phức tạp: “Nếu con đã thích Đại tiểu thư Lư gia đến vậy, mọi người cũng sẽ giúp con.”
Thiệu Trọng chớp mắt, để sách xuống, thở dài: “Con cũng nghe Tam sư huynh nói nhảm rồi, lúc nãy huynh ấy vào, con biết.” Chẳng qua là lúc đó, lòng y còn đang rất loạn, mới không lên tiếng mà thôi. “Bất quá, là con cưới vợ, tự nhiên tự con lo được.”
Bạch Đạo Nhân mỉm cười, vỗ đầu y, “Sư phụ biết.”
/36
|