Gió bấc thổi mạnh, tuyết rơi đầy trời
Trên con đường cái quan từ Hà Bắc vào đất Lỗ, một thớt ngựa khỏe đang tung vó, tuyết trắng bay theo vó ngựa.
Trên lưng ngựa là một chàng thiếu niên tuổi quá hai mươi, người mặc y phục màu xanh bó chặt, bên ngoài là lớp áo choàng lông ngỗng màu vàng. Trên vai trái lộ ra một cái chuôi kiếm có tua màu xanh lục tung bay, trông rất phấn khởi.
Chàng thiếu niên ấy anh tuấn lạ thường, mày kiếm mắt sáng, lưng hổ eo ong, mặt như quán ngọc, tuy tuyết rơi đầy trời, nhưng chàng không hề có ý sợ lạnh, trong đôi mắt vẫn ngời lên niềm vui, khóe miệng chốc chốc lại nhoẻn cười.
Chợt một con quạ bay xà xuống kêu quạc một tiếng, rồi vỗ cánh lướt về phía Tây.
Tiếng quạ kêu ấy đã khiến chàng thiếu niên bừng tỉnh bước ra khỏi hồi ức, chàng hơi nhíu mày, thò tay vào trong lòng lấy ra một món ám khí màu vàng trông giống như hình hoa sen, lớn như quả hạnh đào, chàng vung tay một cái, món ám khí phóng vút ra một tiếng nhẹ nhàng.
Rồi lại một tiếng quạ kêu nữa, một con quạ đen rơi ngay xuống trước.
Gió bấc thấu xương vẫn đang thổi mạnh, tuyết trắng vẫn không ngừng rơi, bốn bề vắng lặng vẫn như trước, ngoại trừ chàng, không có người nào biết dưới bãi tuyết mênh mông kia đã chôn vùi xác một con quạ đen.
Một dự cảm không may chợt dâng lên trong lòng, chàng bất giác rùng mình một cái rồi chợt ra roi phóng thẳng về phía trước.
Trong gió tuyết lạnh căm, từng giọt mồ hôi màu đỏ của thớt ngựa rơi xuống tuyết, thớt ngựa khỏe chạy đường dài mà chàng đã mua với giá cao cuối cùng không chịu đựng nổi mệt nhọc vì đã phóng nhanh không nghỉ trong thời gian rất dài, sau khi đã cố hết sức mình thì ngã xuống đất.
Khi thớt ngựa ngã xuống đất, chàng thiếu niên áo xanh ấy chỉ hơi nhún chân, đột nhiên phóng vút lên không, bay xa ra đến tám, chín thước, nhẹ nhàng hạ xuống tuyết, chàng quay đầu nhìn lại thớt ngựa nằm dưới tuyết, nhẹ thở dài, lẩm bẩm:
“Ngựa ơi, ngựa ơi, sống chết hãy do ngươi! Xin thứ ta không thể nào chăm sóc cho ngươi nữa!”.
Nói xong rồi quay phắt người đi, cất bước phóng về phía trước nhanh như tên bay, tốc độ không kém gì thớt ngựa lúc nãy.
Màu trời dần dần mờ hẳn, gió tuyết càng lúc càng lớn, chàng thiếu niên áo lam ấy một mặt không ngừng đưa tay lau mồ hôi trên trán, một mặt vẫn tiến nhanh về phía trước, tấm áo choàng bị gió mạnh thổi kêu lên phành phạch.
Khoảng một khắc sau, chàng đến bên một hồ nước, bên cạnh hồ nước ấy là một ngôi nhà cao lớn sừng sững nhưng trơ trọi, chẳng thấy ánh đèn, màn đêm đã bao trùm xuống, mọi vật trông rất thê lương.
Chàng phủi tuyết trên người rồi chậm rãi bước về phía căn nhà ấy.
Hai cánh cửa màu đen đang đóng chặt, chàng đưa tay gõ vào vòng cửa, một lát sau vẫn không có âm thanh gì trong nhà, chàng vội vàng đẩy mạnh vào cửa. Kẹt một tiếng, hai cánh cửa chợt bật ra. Nhìn vào trong, chỉ thấy trong sân ánh tuyết lấp lánh, các phòng đều tối đen như mực.
Chàng thiếu niên áo lam ấy hơi trầm ngâm, ưỡn ngực bước vào rồi xoay người lại đóng hai cánh cửa, chậm rãi tiến về phía trước.
Chàng băng qua sân rồi vào căn đại sảnh rộng rãi, màn đêm càng u ám, giơ bàn tay chẳng thấy được năm ngón, gió rét căm căm từ ngoài cửa thổi vào, bức tranh chữ treo trên tường kêu lên xoèn xoẹt, càng tăng thêm không khí âm u.
Chàng thiếu niên áo xanh ấy tuy thân đầy võ công nhưng trong lòng không khỏi hơi chột dạ, chàng bất giác đưa tay chạm vào chuôi kiếm.
Chàng vốn có khả năng nhìn vật trong bóng tối, chàng hơi nhắm hai mắt, vận chân khí lên rồi mở hai mắt ra, chàng lại thấy rõ mọi vật trong phòng.
Ở sát vách tương có một cái bàn bát tiên, bốn cái ghế thái sư, tất cả đều được sắp xếp rất ngay ngắn. Chàng hơi trầm tư, bước nhanh ra vườn sau, băng qua một lối nhỏ bước tới bên cạnh cửa vườn, hai cánh cửa gỗ đóng chặt, một nỗi lo lắng dâng lên trong lòng, chàng không hề suy nghĩ mà đưa tay đẩy vào hai cánh cửa gỗ ấy.
Nhưng tay chàng vừa chạm lên cánh cửa gỗ thì đột nhiên rút lại, chàng biết đó là nơi tịnh tu nội công của sư phụ, bất cứ ai cũng không được tự tiện xông vào.
Chàng ho nhẹ một tiếng, cung kính nói vọng vào bên trong:
“Đệ tử Phương Triệu Nam, đến thỉnh an sư phụ ...”.
Chàng nói rất lớn, dư âm vang vọng trong không trung, nhưng bên trong vẫn lạnh như tờ, chẳng có tiếng trả lời.
Một con gió thổi tới, cứ quật vào mặt chàng, trên mặt chàng lạnh giá, cỏ già cũng rét buốt, chàng không ngăn được mình rùng mình một cái, hai tay đẩy vào cánh cửa nhưng vẫn không hề suy chuyển, chắc là bên trong đã cài then.
Chàng lui ra sau một bước, ngầm vận chân khí vào chân, định tông cửa xông vào, nhưng nhớ lại gương mặt nghiêm nghị của sư phụ, chàng lập tức thu thế lại, hai tay vung một cái, phóng người vọt lên tường.
Chàng đưa mắt nhìn vào, hai gốc lạp mai vẫn đứng hiên ngang trong tuyết, hương hoa xộc vào mũi.
Một bóng hình nhỏ nhắn mảnh mai đột nhiên hiện lên trong đầu, chàng nhớ lại mười mấy năm trước đã từng cùng với một cô gái nhỏ xinh đẹp mỹ miều trồng hai gốc mai này.
Lúc đó chàng và nàng vẫn là hai đứa trẻ tám, chín tuổi, thanh mau trúc mã, cùng lớn lên bên nhau, cùng tập võ với nhau, cùng chơi đùa với nhau, trong chớp mắt thời gian mười mấy năm đã nhanh chóng trôi qua như dòng nước.
Khi chàng học xong võ nghệ rời khỏi sư môn, nàng đã là một cô gái đẹp như ngọc, nháy mắt đã là hai năm, lần này chàng từ ngàn dặm xa xôi trở về bên hồ Đông Bình, một là muốn thăm sư phụ, một là muốn thăm vị sư muội của mình.
Chàng ngắm nhìn hai gốc mai một lát rồi mới phóng người xuống, chậm rãi bước về phía căn tịnh thất mà sư phụ tu luyện nội công.
Trong lúc nghĩ ngợi, chàng đã đến trước cửa phòng, chàng vận chân khí rồi đưa tay đẩy một cái, hai cánh cửa bật ra.
Nhưng chỉ thấy cả căn phòng treo đầy khăn tang màu trắng, sau bức màn bằng vải trắng là hai cỗ quan tài nằm cạnh nhau.
Chàng ngẩn ra một hồi rồi kêu lớn:
“Sư phụ! ”. Chàng vọt người phóng tới, hai tay vịn vào nắp hai cỗ quan tài, nước mắt tuôn ra như suối.
Sau một hồi khóc lóc thảm thiết thì tâm trạng dần dần bình tỉnh trở lại. Chàng thầm nghĩ:
“Sư phụ có võ công tuyệt thế, danh lừng võ công, sư mẫu cũng là bậc anh thư cân quắc, món Kim liên hoa trong tay cũng nổi danh đại giang Nam Bắc, mặc dù bị cao thủ thuộc hàng đệ nhất trên võ lâm vây công cũng có thể rút lui an toàn, chắc trong hai cỗ quan tài này có lẽ không phải là sư phụ, sư mẫu”.
Nghĩ như thế, cho nên trong lòng mong muốn được biết sự thật thầm vận công lực trong hai tay, định bật nắp quan tài bên trái ra xem cho rõ, chợt nghe giọng nói lanh lảnh vang lên ở sau lưng:
“Ngừng tay!”.
Quay đầu nhìn lại, không biết từ lúc nào đã có một cô thiếu nữ mặc đồ trắng, tóc dài phủ vai đứng ở sau lưng.
Tuy cô gái ấy xinh đẹp mỹ miều, nhưng lúc này xung quanh lạnh lẽo âm u, màn tang buông rũ, lại có hai cỗ quan tài trong phòng, mà nàng đã đến không hề gây tiếng động, Phương Triệu Nam dù cho có lớn gan cũng phải giật mình một cái.
Chỉ thấy thiếu nữ áo trắng ấy môi hơi mấp máy, lạnh lùng hỏi:
“Ngươi là ai, canh khuya nửa đêm chạy đến đây khóc than cái gì?”.
Phương Triệu Nam trầm ngâm nói:
“Tại hạ là môn hạ của Châu lão anh hùng, tiện tính là Phương, thảo tự là ...”.
Cô gái áo trắng ấy cắt ngang:
“Thôi được! Ta không hỏi họ tên ngươi”.
Phương Triệu Nam nghe xong nhíu mày, nói:
“Trong hai cỗ quan tài này đặt thi thể của ai, tại hạ có thể mở ra xem thử không?”.
Thiếu nữ áo trắng ấy lạnh lùng đáp:
“Đừng xem! Một người là Châu Bội Châu anh hùng, một người là Châu phu nhân”.
Phương Triệu Nam chỉ cảm thấy máu nóng xông lên ngực, gắng giọng hỏi:
“Có thật không?”.
Cô gái áo trắng ấy vẫn thản nhiên trả lời:
“Không tin thì ngươi hãy mở nắp quan tài ra xem thử!”.
Phương Triệu Nam vận lực vào hai tay, kẹt một tiếng, đánh bật nắp của cỗ quan tài bên trái, đưa tay vào trong lòng lấy ra một mồi lửa, giữa hai cỗ quan tài là một cái bàn trà rất nhỏ, trên bàn trà có một mẩu đèn cầy. Chàng dùng mồi lửa ấy mồi ngọn đèn cầy, căn phòng có vẻ sáng sủa hơn.
Trong cỗ quan tài là một thi thể nằm ngửa che vải trắng, chỉ lộ ra một cái đầu người râu tóc bạc phơ, giọng nói mép cười của vị sư phụ đã nuôi dưỡng chàng mười mấy năm, đã trong sâu trong tâm trí của chàng, cho nên vừa nhìn xuống, chàng lập tức nhận ra thi thể nằm ngửa trong cỗ quan tài đó chính là di thể của vị ân sư mà chàng đã xa rời hai năm nay.
Chàng cảm thấy máu trong ngực nhộn nhạo, không thể kiềm được tâm trạng bi phẫn kích động, chàng quát một tiếng, phun ra một búng máu tươi, quỳ phục xuống bái trước quan tài, buông giọng khóc to.
Tất cả tình xưa chuyện cũ giờ đây đã hóa thành nỗi bi phẫn thống khổ, tiếng khóc ấy nghe quả thật đớn đau.
Không biết bao lâu, Phương Triệu Nam đã khóc đến nỗi mắt chảy ra máu, trận khóc ấy coi như đã giải tỏa được nỗi bi phẫn trong lòng chàng, tinh thần dần dần ổn định trở lại.
Định thần nhìn lại, chỉ thấy ngọn đèn cầy trên cái bàn trà chỉ còn lại một mẩu ngắn, nàng thiếu nữ áo trắng lạnh lùng như sương ấy vẫn lặng lẽ đứng một bên, thần sắc trên mặt không hề thay đổi.
Phương Triệu Nam đứng dậy, đưa mắt nhìn thẳng về phía thiếu nữ áo trắng, hỏi:
“Cô nương là ai? Thi thể của sư phụ sư mẫu tôi có phải do cô nương tẩm liệm không?”.
Thiếu nữ áo trắng ấy không thèm ngó đến Phương Triệu Nam, lạnh lùng trả lời:
“Cha mẹ tôi đã từng được Châu lão anh hùng giúp đỡ, tôi tẩm liệm thi thể của họ coi như là đã thay cha mẹ báo ơn, ngài đã khóc một canh giờ, nay đã đến lúc nên đi!”.
Nói xong thì chậm rãi xoay người, bước ra phía sau tấm màn tang.
Phương Triệu Nam vội vàng nói:
“Cô nương hãy tạm ngừng bước, tại hạ có mấy câu muốn nói”.
Thiếu nữ áo trắng ấy đã sắp bước vào bên trong, chợt nghe thế thì ngừng lại, hỏi:
“Chuyện gì hãy nói mau!”.
Phương Triệu Nam thấy cô gái đã đứng lại, nhưng không quay đầu, trong lòng không khỏi hơi tức giận, thầm nhủ:
“Thiếu nữ này thật là kiêu ngạo”.
Khi chàng đang nghĩ thế thì nàng thiếu nữ tựa như không muốn chờ nữa, người lắc một cái đã lách vào phía trong tấm màn.
Phương Triệu Nam đã đi theo sư phụ lâu ngày, thường được Châu Bội gọi vào phòng chính dạy dỗ, biết rằng sau tấm màn ấy chẳng có phòng ốc gì cả, thế rồi mới cao giọng hỏi:
“Cô nương có biết ái nữ của gia sư đang ở đâu không?”.
Chỉ nghe phía sau truyền lại giọng nói lạnh lùng của nàng ta:
“Không biết”.
Phương Triệu Nam nhíu mày, lại hỏi:
“Cô nương đến đây lúc nào, có biết chuyện gia sư bị hại không?”.
Nhưng chỉ nghe tiếng trả lời nhát gừng của cô gái:
“Tôi đến đây, họ bị giết chết đã lâu”.
Phương Triệu Nam chợt nghi ngờ, hơi trầm ngâm rồi hỏi dấn tới:
“Cô nương tại sao biết phu phụ gia sư bị hại mà đến đây tẩm liệm thi thể?”.
Ở phía sau bức màn vang lên tiếng cười lanh lảnh và lạnh lẽo của cô gái:
“Sao?
Ngài nghi ngờ tôi là hung thủ giết hại họ?” nói xong thì lại cười lớn.
Phương Triệu Nam cảm thấy trong giọng cười lanh lảnh kia có chứa sự lạnh lùng, nghe mà xương cốt nhức nhối, rùng mình liền hai cái.
Chợt ở góc màn có một bàn tay trắng như tuyết cầm một cây đèn cầy màu đỏ, vẫn giọng lạnh lùng kiêu ngạo ấy:
“Ngài muốn ở đây canh giữ thi thể của sư phụ sư mẫu ngài, cũng được, hãy mau thắp ngọn đèn cầy này lên rồi đóng nắp hòm lại”.
Phương Triệu Nam cảm thấy lời nói của thiếu nữ này cao thâm khó lường, mà hành động thì kỳ lạ vô cùng, trong một đêm gió tuyết như thế này, trong căn phòng có hai cỗ quan tài lạnh lẽo càng khiến cho người ta có cảm giác khó phân biệt là người hay ma.
Dù chàng là người có võ công nhưng cũng cảm thấy toát mồ hôi lạnh, chàng đưa tay ra theo bản năng nhận lấy cây đèn cầy.
Sau tấm màn lại vọng tới giọng nói lạnh lùng của cô thiếu nữ áo trắng:
“Cây đèn cầy này đủ đốt đến khi trời sáng, nếu ngài không sợ thì hãy ngồi một đêm trong căn phòng này!”.
Phương Triệu Nam đốt cây đèn cấy mới, đóng nắp hòm lại rồi ngồi dựa vào hòm, mắt nhìn ánh đèn cầy mà trong lòng dâng lên ngàn vạn nỗi cảm khái.
Chàng nhớ lại những chuyện khi còn học nghệ trong sư môn, tính cách nghiêm khắc của sư phụ khiến cho người ta sợ hãi, nụ cười hiền từ của sư mẫu khiến cho người ta ngưỡng mộ, nét đẹp tuyệt trần của sư muội khiến cho người ta khó quên.
Những chuyện xưa cứ hiện lên trong đầu như càng tăng thêm sự thê lương trong lòng người.
Đêm khuya canh vắng, ngọn đèn cầy lập loè, chàng đã đi đường cả ngày người đã mệt nhoài, ngồi dựa vào quan tài nghĩ ngợi một lát thì đã chìm vào giấc ngủ.
Không biết trải qua bao lâu thì chợt thấy có người đẩy vào vai trái, mở bừng mắt nhìn ra, thì ra đó là một ông già râu dài mặc áo bào màu xanh, mặt đầy vẻ bi phẫn, đứng lặng bên cỗ quan tài.
Phương Triệu Nam vừa thấy người ấy thì không biết là sợ hay mừng, đứng phắt dậy cuối lạy phía trước người ông ta, nước mắt tuôn ra như suối.
Té ra ông già ấy là bạn tri kỷ của Châu Bội, là một trong Giang Nam tứ kiếm tên Trương Nhất Bình.
Ông già ấy thở dài nhẹ một tiếng, nói:
“Ngươi đứng dậy, hãy từ từ cho ta biết mọi chuyện đã xảy ra”.
Phương Triệu Nam đưa ống tay áo lau nước mắt trên mặt, nói:
“Đêm qua vãn bối quay về, sư phụ, sư mẫu đã bị hại từ lâu ...”.
Ông già ấy hơi giật mình, nói:
“Cái gì? Chả lẽ thi thể sư phụ, sư mẫu của ngươi không phải do ngươi tẩm liệm?”.
Phương Triệu Nam chợt nhớ đến thiếu nữ áo trắng, lắc đầu:
“Không phải”.
Miệng thì trả lời, còn người thì xoay qua vén tấm màn.
Nhưng chỉ thấy sau tấm màn là một hàng đầu người xếp ngay ngắn, còn thiếu nữ áo trắng kia thì không biết đã bỏ đi từ lúc nào.
Ông già ấy mặt biến sắc, bước thẳng ra sau tấm màn, Phương Triệu Nam vội vàng bước theo ông ta.
Chỉ thấy bức tường sau tấm màn chất mười mấy cái xác không đầu, Phương Triệu Nam thầm đếm thì thấy vừa vặn với hàng đầu người xếp ở phía trước, đứng là mười lăm cái xác.
Trương Nhất Bình nghiến răng nghiền lợi, cười lặng một hồi:
“Ra tay thật độc ác, đúng là cả gà chó cũng không tha”.
Khi Phương Triệu Nam học nghệ trong sư môn, đã từng gặp vị đại hiệp khách danh lừng võ lâm này, biết ông ta là người võ công cao cường, đã đạt tới cảnh giới xuất thần nhập hóa, danh tiếng của ông ta còn hơn cả sư phụ mình.
Lúc này gặp phải vị kỳ nhân hành tung khó đoán này, trong nỗi bi khổ cực độ, chợt sinh ra tia hy vọng báo thù cho sư phụ.
Thế rồi chàng cuối người nói:
“Sư bá hiểu biết rộng rãi, có giao tình sâu sắc với gia sư, sư môn không may gặp phải thảm cảnh này, phải nhờ vào sư bá trợ lực, điều tra họ tên của kẻ thù, rửa sạch mối oan cho sư môn, vãn bối tuy biết võ công kém cỏi nhưng nguyện đem bầu máu nóng, trái tim phục thù giết địch báo oán”.
Trương Nhất Bình nhẹ thở dài:
“Ngươi không cần dùng lời nói khích ta, ta và sư phụ của ngươi giao tình sâu sắc, ba mươi năm trước sư phụ, sư mẫu ngươi đã cứu một mạng này của ta, đến nay ta vẫn ghi nhớ trong lòng, lúc nào cũng muốn báo đáp, nay ông ta gặp thảm cảnh này, trong lòng ta đau đớn vô cùng, quyết không thua kém gì ngươi, chỉ cần ta còn một hơi thở thì sẽ dốc hết lòng báo thù!”.
Nói đến đây thì không kiềm chế được nữa, hai hàng nước mắt rơi xuống.
Phương Triệu Nam quỳ sụp xuống đất:
“Vãn bối trước tiên thay cho sư phụ khấu đầu bái tạ tấm ân tình của Trương sư bá”.
Trương Nhất Bình rốt cuộc vẫn là cao nhân, sau một hồi kích động thì trong lòng đã bình tĩnh trở lại, nhìn Phương Triệu Nam từ đầu đến chân với ánh mắt sắc bén:
“Đứng dậy, ngươi hãy kể chuyện đêm qua cho ta hay”.
Phương Triệu Nam y theo lời đứng dậy, thầm để ý đến đống xác bên góc tường, không hề thấy xác của sư muội, trong lòng hơi cảm thấy an ủi, buồn bã thở dài một tiếng rồi kể hết mọi chuyện đêm qua cho Trương Nhất Bình nghe.
Trương Nhất Bình khi nghe đến hành động kỳ lạ của cô gái áo trắng, trong lòng không khỏi kinh ngạc.
Ông ta thầm nghĩ:
“Bọn thiếu nữ vốn là kẻ nhát gan, dù cho là người học võ cũng không thể có đủ gan như thế, trong đêm tuyết lạnh thê lương, ở một nơi hoang vắng không người mà giữ một đống xác như thế này ...”.
Phương Triệu Nam tựa như đã nhìn thấy vẻ nghi hoặc trên mặt Trương Nhất Bình, thế rối mới nói tiếp:
“Lời của vãn bối câu nào cũng là sự thật, hành động của thiếu nữ áo trắng ấy thật khiến cho người ta có cảm giác người mà khó đoán”.
Trương Nhất Bình cười nhạt, nói:
“Trên đời này chuyện lạ gì cũng có, nếu hiền điệt không vì quá đau khổ mà sinh ra ảo giác, thiếu nữ áo trắng ấy mới là manh mối tốt nhất”.
Phương Triệu Nam chép miệng:
“Vãn bối nếu không tận mắt chứng kiến, chỉ e cũng khó tin được, trên thiên hạ lại có chuyện kỳ lạ như thế, chả trách nào sư bá còn nghi ngờ”.
Nói xong thì chợt thấy một luồng bạch quang xé tấm màn bay tới.
Phương Triệu Nam từ nhỏ đã được sư mẫu truyền cho tuyệt kỹ phóng ám khí Kim liên hoa, tai mắt rất lanh lẹ, tay phải phất một cái tiếp lấy luồng bạch quang ấy, chỉ cảm thấy trong tay lạnh như băng, khi định thần nhìn lại thì thấy ám khí ấy là một trái cầu tuyết.
Trái cầu tuyết này tựa như đã bị người ta dùng lực vo thành một viên to như quả hạnh cứng rắn lạ thường, thủ pháp phát cầu tuyết của người này tựa như rất chính xác.
Nhưng khi Phương Triệu Nam tiếp lấy trái cầu tuyết thì không khỏi cảm thấy kình đạo mãnh liệt, lực phóng không mạnh không nhẹ này nếu không phải là người có võ công thượng thừa, khó mà nắm vững như thế, trong lòng không khỏi kinh hãi.
Trương Nhất Bình hừ lạnh một tiếng, hai chân hơi nhún một cái, thân người đã phóng ngang ra như tên bắn, thân pháp ấy thật kỳ ảo quả nhiên không hổ là thân thủ của một danh gia.
Phương Triệu Nam đưa tay vẹt màn, dùng thân pháp Yến tử xuyên vân vọt ra khỏi tịnh thất, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy Trương Nhất Bình đứng ở trên xà nhà, đưa mắt nhìn tứ phía.
Chợt thấy chân trái của ông ta lướt ra sau một cái, người không cất bước, chân không khuỵu gối thế mà thân người đã từ trên trượt thẳng xuống.
Chân vừa chạm đất thì thở dài một tiếng:
“Thôi rồi, thôi rồi, Trương Nhất Bình này hôm nay coi như đã gặp phải địch thủ! Này thằng nhỏ, hãy mau mau bóp viên cầu tuyết trên tay của ngươi xem thử”.
Phương Triệu Nam hơi bóp nhẹ một cái, viên cầu tuyết vỡ ra, quả nhiên bên trong viên cầu tuyết có một mảnh vài màu trắng.
Chỉ thấy trên mảnh vải viết rằng:
“Nơi này không phải đất lành, hãy mau rời khỏi để tránh họa sát thân”. Phía bên dưới không hề ghi tên họ, cũng chẳng có ký hiệu gì cả.
Trương Nhất Bình tuy là người hiểu biết rộng rãi nhưng trong một lúc cũng ngẩn người ra ngạc nhiên, ông ta không ngờ rằng đây là lời cảnh cáo đầy thiện ý.
Phương Triệu Nam chợt nhướng đôi mày rậm:
“Trương sư bá, chúng ta hãy ở đây đợi bọn chúng”.
Trương Nhất Bình thở dài buồn bã:
“Thằng nhỏ trẻ tuổi mà đã có lòng can đảm như thế, thật là đáng quý, không uổng cho sư phụ ngươi đã dạy ngươi, song dù ngươi có ở đây cũng chẳng ích gì”.
Phương Triệu Nam chợt rơi hai dòng nước mắt, nói:
“Vãn bối tự biết võ công khó mong trả thù cho gia sư, nhưng thù hận của sư môn không đội trời chung, nếu kiếp này Phương Triệu Nam không thể giết chết kẻ thù thì cũng như gốc cây này”.
Nói xong tay phải lật lại rút xoạc thanh trường kiếm ra, ánh hàn quang lấp lánh, chỉ nghe vút một tiếng, gốc lạp mai đã đứt ra thành hai khúc.
Trương Nhất Bình hấp háy ánh mắt, tựa như đã bị hào khí xông mây của chàng thiếu niên trước mắt gợi lại tình cố hữu.
Nhưng chỉ trong chớp mắt, ông ta đã trấn tĩnh trở lại, cười nhạt:
“Chuyện nhỏ không nhịn được tất sẽ hỏng mưu lớn, cứ theo võ công của người phóng quả cầu tuyết mà luận, kẻ địch sắp tới chắc chắn là người có võ công cao cường, đừng nói là ngươi ở lại đây vô ích, dù cho lão phu cũng e rằng không phải là địch thủ của hắn ta. Song, ta đã là cây sống lâu năm, chuyện sống chết đã từ lâu không để trong lòng, bạn cũ tình nặng, máu này ta nào tiếc, dù cho chôn thân ở nơi đây, xuống dưới suối vàng gặp lại bạn cũ cũng là chuyện vui trong đời người, nếu may mắn thoát nạn thì chắc chắn sẽ tìm cách mời võ lâm cao thủ báo thù rửa hận!”.
Nói đây chợt im bặt, chụp lấy tay phải Phương Triệu Nam phóng ra ngoài.
Chạy một mạch được năm, sáu dặm đường, Trương Nhất Bình mới buông tay Phương Triệu Nam ra, thở dài hỏi:
“Ngươi có cho rằng sư phụ, sư mẫu ngươi chết quá bất ngờ không?”.
Phương Triệu Nam bị Trương Nhất Bình đột nhiên nắm chặt lấy mạch môn, không đủ sức đề kháng nữa, bị kéo đi đến năm, sáu dặm đường, cố nén cái giận trong lòng, đang định lên tiếng trách cứ thì lại bị Trương Nhất Bình hỏi bất ngờ như thế, nỗi hoài nghi trong lòng dâng lên, ngẩn ra rồi nói:
“Sư bá nói lời này là có nghĩa gì? Chả lẽ sư phụ sư mẫu đã đoán trước mối họa này?”.
Trương Nhất Bình ngửa mặt nhìn trời, nói:
“Đúng vậy, sư phụ sư mẫu ngươi không những đã biết trước chuyện này sẽ xảy ra mà còn biết trước không thể nào thoát khỏi cho nên mới không nhờ người giúp đỡ, cũng không bỏ chạy đến nơi khác”.
Phương Triệu Nam nói:
“Sư bá nói như thế thật khó làm cho vãn bối tâm phục, đừng nói trong thiên hạ này khắp nơi đều có chốn ẩn thân, chỉ võ công của sư phụ và sư mẫu thôi, dù cho địch không lại người ta cũng có thể rút lui an toàn, không đến nỗi cả hai cùng nằm trong quan tài, nếu chẳng phải bị kẻ địch ám toán, há đã rơi vào kết cuộc thê thảm này?”.
Trương Nhất Bình hơi trầm ngâm:
“Đó cũng là chỗ ta khó hiểu, Châu hiền đệ tính tình nghiêm nghị, lúc còn sống lại kết oán không nhiều, từ lâu đã hiểu hết việc đời, ẩn cư nơi hồ Đông Bình này, cách xa chốn giang hồ, ngoại trừ lão phu và một, hai kẻ tri giao, y cũng rất ít khi giao tiếp với người võ lâm. Hai mươi năm nay vẫn sống cuộc sống đạm bạc, lấy chuyện trồng hoa dạy học làm vui, ba năm trước khi gặp lại, ta phát giác nội công của y đã tiến bộ rất nhiều, mà sư mẫu cũng có thành tựu kinh người. Khắp đại Nam giang Bắc, hiện nay kẻ có thể thắng được vợ chồng y trong hai đạo hắc bạch quả thật khó tìm ra được mấy người, nhưng ta đã điều tra kỹ càng, vợ chồng y rõ ràng đã biết trước thảm cảnh này cho nên đã sắp xếp từ lâu”.
Phương Triệu Nam nói:
“Xin sư bá hãy thứ cho vãn bối ngu muội, cuối mong sư bá không tiếc lời chỉ dạy để mở mối gút trong lòng”.
Trương Nhất Bình đưa mắt nhìn xung quanh một hồi rồi nói:
“Đó là do ta đi nhiều mà biết, nói thẳng ra cũng chẳng có gì, ngươi có thấy di thể của sư muội ngươi hay không?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Sư muội của vãn bối vốn là người lan chất huệ tâm, trên đời này có mấy người bì được, có lẽ nàng đã bị kẻ thù cướp đi, vãn bối thật không dám vì thế mà ...”.
Trương Nhất Bình bật cười:
“Thằng nhỏ giỏi lắm, thế nhưng rất tốt, ngươi không dám đồng ý với lão phu, đúng không?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Vãn bối không dám”.
Trương Nhất Bình nói:
“Không phát hiện ra thi thể của sư muội ngươi, có thể là có hai cách giải thích, bảo ả bị kẻ khác bắt sống đi cũng có thể lắm, bảo ả đã được lệnh sư ngươi đưa đi nơi khác lánh nạn, mấu chốt chính là trong đống thi thể kia”.
Phương Triệu Nam ngạc nhiên:
“Xin thứ cho vãn bối ngu muội, không thể hiểu được lời nói của sư bá, mong sư bá nói kỹ hơn”.
Trương Nhất Bình chép miệng:
“Nếu ngươi để ý vào đống thi thể phía sau bức màn, ai nấy đều mặc kình trang, dù cho sư phụ ngươi đã biết trước khó tránh được nạn, cũng không muốn bó tay chịu chết, cho nên đã sai tất cả kẻ gia bộc trong nhà chuẩn bị đối phó, liều mạng với kẻ địch. Không ngờ kẻ địch võ công cực cao, chống cự không được cho nên mới xảy ra kết cục diệt môn như thế này, trong đó có điều khiến người ta không hiểu là, đã biết trước có họa rơi xuống, tại sao không chịu lánh nạn trước, kế sách này tuy không thể trốn tránh lâu dài, nhưng có thể tạm thời tránh được tai mắt của kẻ địch, sau đó thì tìm cách đối phó cũng không muộn. Chao ôi! Trời ơi! Tại sao không để ta đến sớm ba ngày, không ngờ ta chỉ đến muộn một bước mà phải hối hận suốt đời”.
Phương Triệu Nam nhớ lại đống thi thể ở sau tấm màn, quả nhiên ai nấy đều mặc kình phục. Thế rồi mới nói:
“Sư bá thật tinh mắt, một lời đã chỉ ra bến mê cho vãn bối, sư phụ đã biết trước mối họa này sẽ rơi xuống, sao không nhờ ai giúp đỡ?”.
Trương Nhất Bình nghĩ ngợi một lúc lâu rồi nói:
“Sau khi sư phụ ngươi ẩn cư ở hồ Đông Bình, rất ít qua lại với người trong võ lâm, lại nói dù cho có ý nhờ người ta giúp đỡ cũng khó tìm được người thích hợp. Nếu ta suy đoán không sai, ở gần trang viện của sư phụ ngươi chắc chắn đang có người theo dõi, có lẽ đó là thiếu nữ áo trắng mà ngươi đã gặp. Lão phu tự tin thuật khinh công của ta không hề kém cỏi, nhưng khi nhảy vào trong sân, chẳng hề thấy giấu vết gì cả. Chuyện lần này e rằng không phải là chuyện trả thù báo hận trong võ lâm, đối phương ra tay rất độc ác, võ công lại cao cường, không thể bì với bất cứ nhân vật nào trong giang hồ, vả lại sau khi giết người thì không thèm che giấu vết tích, rõ ràng là có ý khác, còn ả thiếu nữ áo trắng canh giữ bên trong e rằng có dụng tâm”.
Ông ta hơi trầm ngâm rồi lại nói tiếp:
“Theo lão hũ thấy, lúc này có hai chuyện cần làm, thứ nhất là phải tìm cho ra tung tích sư muội của ngươi, thứ hai là phải điều tra kẻ thù là ai, ít nhất là phải tìm cho ra một số manh mối để truy tìm”.
Phương Triệu Nam nói:
“Sư bá nhìn sâu trông rộng, vãn bối phục sát đất, mong sư bá nể tình bằng hữu với sư phụ, tìm cách báo thù, vãn bối cảm kích không nguôi”.
Nói xong thì quỳ xuống đất tuyết.
Trương Nhất Bình mỉm cười buồn bã, đưa tay đỡ Phương Triệu Nam:
“Ngươi hãy đứng dậy, mối giao tình giữa ta với lệnh sư sâu tận xương cốt, nặng hơn sống chết, ngươi không cầu ta, ta cũng liều mạng già này tìm cho ra chân tướng sự việc. Lúc này chúng ta hãy chia nhau hành sự, ngươi hãy đi tìm tung tích của sư muội của ngươi, lão hũ sẽ quay trở lại căn nhà ấy, điều tra kỹ càng một phen, có lẽ anh linh cố hữu phù hộ, khiến cho ta có thể thấy được mặt kẻ thù, những mong tìm ra mưu kế rửa hận”.
Phương Triệu Nam nói:
“Vãn bối đã chịu cái ơn mười mấy năm nuôi dưỡng của sư phụ, dù cho thịt nát xương tan cũng mong báo được thù, nay sư phụ, sư mẫu gặp cảnh bi thảm như thế, vãn bối há có thể co đầu rút cổ, né nặng lấy nhẹ ...”.
Trương Nhất Bình lắc đầu, nói:
“Ta quay lại căn nhà ấy là để điều tra dấu vết của kẻ địch để lại chứ không phải liều mạng với kẻ khác, hành tung càng bí mật càng tốt, nếu ngươi đi cùng với ta, không những chẳng có ích gì mà lại khiến cho ta phải phân tâm lo lắng cho ngươi, huống chi chuyện tìm tung tích của sư muội ngươi là điểm mấu chốt lớn nhất của chuyện này, còn quan trọng hơn cả việc quay về căn nhà đó nữa”.
Phương Triệu Nam biết ông ta võ công cao cường, danh lừng đại Nam giang Bắc, các nhân vật trong chốn lục lâm nghe tên thì đã khiếp vía, mà võ công của mình so với người ta thì kém lắm, nếu cứ kiên quyết đòi đi chỉ e làm phiền ông ta mà thôi.
Chàng hơi trầm ngâm rồi lại chép miệng:
“Nếu lão tiền bối đã nói như thế, vãn bối không tiện giữ lấy ngu kiến nữa, nhưng trước đất mênh mông, hành tung sư muội của vãn bối ở đâu, vãn bối làm sao đi tìm đây?”.
Trương Nhất Bình thò tay vào trong lòng, lấy ra một đồng tiền vàng búng mặt sắt như dao nói:
“Ngươi hãy mang đồng tiền vàng này lập tức đến bãi Triều Dương ở Bão Mục Cương tại miền Nam Lỗ, tìm gặp Tụ Thủ Tiều Ẩn Sử Mưu Độn, nếu hắn ta không chịu gặp, ngươi hãy đưa ra đồng tiền này. Hắn ta nhận lấy đồng tiền vàng này chắc chắn sẽ hỏi ngươi chuyện gì cần giúp, lúc đó ngàn vạn lần đừng bảo hắn ta giúp ngươi tìm sư muội, chỉ bảo rằng chủ cũ của đồng tiền này chưa đến, vãn bối phụng lệnh đến đây trước tiên thông báo cho Sử tiền bối một tiếng. Mặc cho hắn ta mỉa mai ngươi thế nào, ngươi cũng phải ráng nhịn, không được đốp chát trở lại, nếu sau khi hắn ta trả lại đồng tiền cho ngươi thì hãy nhắc đến chuyện tìm sư muội của ngươi.
Chuyện này quan hệ lớn lao, không phải chuyện đùa, ngươi cần phải kiên nhẫn, ráng chịu đựng những lời mỉa mai của hắn ta, nếu không một khi sai lầm, không những ngươi không thể nào gặp mặt sư muội của ngươi mà còn phá vỡ kế hoạch toàn cuộc của ta”.
Phương Triệu Nam nghe mà chỉ nhíu mày, mặt ngơ ngác, nhưng thấy Trương Nhất Bình nói năng thận trọng lạ thường, chỉ đành thuận miệng đáp:
“Nếu quả thật có thể tìm được tiểu sư muội, báo thù giùm cho sư phụ, vãn bối dù có bị y đánh mắng cũng không hề trả đòn”.
Trương Nhất Bình chép miệng:
“Tụ Thủ Tiều Ẩn là kẻ kỳ quái, chỉ cần nghe hai chữ Tụ Thủ thì đã biết y là kẻ thế nào, giờ đây thời gian quý như vàng bạc, ta không rảnh giải thích với ngươi nữa, có lẽ một hai ngày nữa ta sẽ đến Bão Mục Cương ...”.
Ông ta hơi lặng lẽ một lát rồi nói tiếp:
“Nếu trong vòng ba ngày mà ta vẫn chưa tới, ngươi hãy dùng đồng tiền này yêu cầu Tụ Thủ Tiều Ẩn hãy điều tra họ tên lai lịch của hung thủ đã giết chết vợ chồng sư phụ ngươi trong vòng ba tháng ...”.
Phương Triệu Nam vốn là người cực kỳ thông minh, đã hiểu được lời của Trương Nhất Bình, ông ta muốn cho chàng biết trong vòng ba ngày nếu không thể đến gặp mình thì chắc chắn đã chết trong tay kẻ khác, chôn thân tại hồ Đông Bình.
Chàng nói mà nước mắt rơi lả chả:
“Sư bá, nghĩa xông tận trời, vãn bối cảm phục vô cùng, món nợ máu của sư môn sâu như biển khơi, Phương Triệu Nam này nếu một ngày còn sống chắc chắn sẽ báo cho được thù này, dù cho máu rơi xương nát cũng không hề nuối tiếc ...”.
Trương Nhất Bình ngửa mặt nhìn trời, hào khí ngất trời, cười khà khà rồi nói:
“Dù cho gặp được kẻ địch, hắn ta cũng chưa chắc gì giữ được Trương Nhất Bình này ở hồ Đông Bình, hiền điệt hãy cứ yên tâm mà đi! Sau khi gặp sư muội của ngươi, trước tiên đừng cho ả biết chuyện sư phụ và sư mẫu của ngươi đã gặp nạn. Tụ Thủ Tiều Ẩn tính tình lạnh lùng, chưa bao giờ qua lại với người trong chốn võ lâm, đồng tiền vàng này tuy có thể khiến cho y nghe lời, hiền điệt vốn thông minh, lúc ấy hãy cứ liệu cơm mà gắp mắm, đừng lãng phí đồng tiền vàng này. Lão phu đã hết lời, ngươi hãy mau lên đường!”.
Phương Triệu Nam hơi trầm ngâm rồi cúi người xuống bái một lạy, nói:
“Vãn bối kính nhận lời dạy của sư bá”.
Nói xong rồi đề chân khí xoay người phóng thật nhanh.
Trương Nhất Bình nhìn theo bóng dáng Phương Triệu Nam dần dần xa khuất rồi mới thở dài, chậm rãi quay về đường cũ.
Phương Triệu Nam chạy một mạch cho đến chiều thì đến một trấn nhỏ.
Chàng cảm thấy bụng đói meo, rất khó chịu, té ra chàng gấp lên đường cho nên đã một ngày một đêm không có thứ gì vào bụng. Ngẩng đầu lên nhìn thấy ở gần đó có một quán ăn. Phương Triệu Nam chậm rãi bước vào trong quán, trong quán chỉ có ba cái bàn bát tiên cũ kỹ, đã có hai người khách ngồi đối diện nhau, đây là một căn quán nhỏ cho nên chỉ có một người làm phục vụ kiêm chưởng quỷ.
Sau khi vào quán, chàng lập tức kêu cơm rượu, chàng nào ngờ kêu cả buổi vẫn không thấy ai ra tiếp đón, trong lòng hơi bực bội, cao giọng quát:
“Trong quán có người không?”.
Mảnh rèm che ở cửa lay động, một cô gái tuổi khoảng mười lăm, mươi sáu, ăn mặc rách rưới, đầu thắt hai bím, dịu dàng trả lời:
“Gia gia của tôi đi chợ vẫn chưa về, hai vị khách đến trước đã gọi hết số cơm rượu còn lại”.
Phương Triệu Nam nghe cô gái trả lời cơm rượu đều đã không còn, bất giác lửa giận xông lên, đập bàn một cái, nói:
“Cơm rượu đã bán hết, tại sao không gỡ bảng hiệu xuống ...”.
Chợt nhớ lại mình là một đấng nam tử thân dài bảy thước mà lại nổi giận vô cớ với một cô gái quê mùa chẳng hiểu việc đời.
Thế rồi mới đổi mặt nói tiếp:
“Tại hạ đang gấp lên đường, đã một ngày một đêm chưa có gì vào bụng, nay cơm rượu đã hết, tại hạ cũng không thể cưỡng ép, vậy mong cô nương hãy cứ làm giùm cho tại hạ một vài món cho đỡ đói lòng, tại hạ sẽ trả cho nhiều tiền”.
Cô gái quê ấy tuy ăn mặt rách rưới nhưng lại rất bình tĩnh, thấy Phương Triệu Nam nổi giận mà vẫn không hề e sợ, chỉ lạnh lùng đứng một bên, mở to đôi mắt tròn xoe nhìn Phương Triệu Nam.
Vẻ bình tĩnh ung dung trông giống như con nhà quyền quý ấy thật không xứng với cách ăn mặc rách rưới của nàng.
Từ lúc Phương Triệu Nam nổi giận cho đến đổi mặt làm hòa, nàng vẫn lặng lẽ đứng ở đấy, không nói một lời.
Cho đến khi Phương Triệu Nam nói xong, nàng mới mỉm cười:
“Đại gia ăn mặc đẹp đẽ, oai phong lẫm liệt, rõ ràng là con nhà quyền quý, còn chúng tôi mở một quán nhỏ bên đường ở chốn quê mùa hoang vắng này, mỗi ngày tửu khách rất ít, cơm rượu phải chuẩn bị theo lượng, nay đã bán hết thì chẳng còn tí nào cả, còn chuyện thưởng tiền, xin thứ gái quê này không nhận được”.
Nàng nói mà không chậm không nhanh, nhã nhặn khéo léo, rõ ràng là một cô gái biết sách hiểu lễ, không biết tại sao lại ở chốn quê mùa hoang vắng này.
Phương Triệu Nam giật mình, chàng bất giác ngẩng đầu lên nhìn kỹ cô gái ấy.
Chỉ thấy nàng thân người mảnh khảnh, đôi mắt như vẽ, giữa hai môi là hàng răng trắng đều, chiếc mũi ngay ngắn, khuôn mặt xinh đẹp lạ thườn, chỉ có điều da hơi đen một tí, tuy tuổi tác vẫn còn nhỏ mà trông rất cao quý, nết cười hiện hết trên khuôn mặt, khiến cho ai nhìn cũng ưa.
Thế rồi mới ôm quyền nói:
“Cô nương ăn nói không tầm thường, chắc là cao nhân ẩn sâu không lộ, xin thứ cho tại hạ lúc nãy có lời mạo phạm”. Nói xong thì bước ra khỏi quán.
Chợt nghe giọng nói lảnh lót của cô gái ấy vang lên sau lưng:
“Công tử hãy chậm một bước”.
Phương Triệu Nam quay đầu nhìn lại, cô gái quê ấy đứng bên cửa quán mỉm cười nói:
“Tiết trời lạnh lẽo thế này mà công tử phải vội vàng lên đường, lúc này đã sắp tối, khí trời sẽ càng lạnh hơn, cứ đi nữa không xa sẽ là vùng núi. Công tử tuy là người có võ công, nhưng trong lúc tuyết phủ đầy trời, chim chóc hay thú rừng cũng đã trốn hết, muốn săn chúng e rằng khó được”.
Phương Triệu Nam giật mình, nhủ thầm:
“Sao cô ta lại có thể biết chuyện mình nghĩ trong lòng, lại có thể biết mình một thân mang đầy võ công”. Chàng không khỏi ngạc nhiên.
Cô gái quê ăn mặc rách rưới ấy lại mỉm cười, nói:
“Mời công tử hãy trở lại quán nghỉ ngơi một lát, gái quê sẽ nấu cho ngài ít thức ăn!”.
Phương Triệu Nam cảm thấy nàng thiếu nữ trước mặt mình không những ăn nói nhã nhặn mà cử chỉ cũng gây bất ngờ cho người ta, trong lòng vừa kính phục vừa cảm thấy sợ hãi, tuy toan từ chối nhưng lại cảm thấy khó nén được cơn đói, chỉ hơi trầm ngâm rồi lại bước trở vào trong quán.
Chỉ thấy hai kẻ đang ngồi đối diện nhau không hề động đậy, trong lòng chàng dâng lên nỗi nghi ngờ, định thần nhìn lại thì chàng kinh hoảng đến nỗi đứng đờ ra ở đấy.
Té ra hai kẻ ấy đã bị người ta điểm huyệt, vì lúc này bụng đói cồn cào, vừa vào quán thì đã kêu rượu thịt, không hề để ý đến hai kẻ ấy, cho nên cũng thầm hổ thẹn.
Cô gái quê ăn mặc rách rưới ấy tựa như đã hiểu vì sao Phương Triệu Nam lại ngạc nhiên, nàng mỉm cười:
“Nếu công tử không ngại, chi bằng cứ lấy rượu thịt của hai vị khách này ăn trước. May mà họ vẫn chưa động đũa”.
Nói ra thì nghe rất nhẹ nhàng, vẻ mặt không hề lo lắng, điều đó càng khiến cho Phương Triệu Nam kinh hoảng hơn, chàng nhíu mày nói:
“Tấm thịnh tình của cô nương tại hạ xin lãnh nhận, rượu thịt là của người ta, tại hạ sao có thể giành được”.
Cô gái quê ấy mỉm cười, nói:
“Nếu công tử không dùng thứ của người ta, vậy hãy đợi một lát, gái quê sẽ vào trong nấu ít đồ ăn”.
Nói xong thì nhẹ nhàng giở rèm bước vào trong.
Phương Triệu Nam nhân cơ hội quan sát căn tiệm này, căn tiệm rộng không quá ba gian, ở giữa dùng một tấm ván che lại, sát vách có một cửa nhỏ, trên cửa treo rèm màu lam khó nhìn vào trong được.
Bên ngoài có ba cái bàn và mười mấy cái ghế thì không thấy thứ gì nữa, chẳng hề có chỗ nào đáng nghi.
Chàng thắc mắc trong lòng, tự nhủ:
“Ở nơi hoang vắng thế này có bao nhiêu người khách qua đường, nếu bảo trong căn tiệm này là một hắc điếm giết người cướp của, thật sự không giống, còn cô gái quê này thật khiến cho người ta cảm thấy cao thâm khó đoán ...”.
Đang lúc suy nghĩ thì cô gái ấy lại vén rèm bước ra, trong tay bưng một rổ mười mấy quả trứng gà đã chín, mỉm cười:
“Quán nhỏ nơi chốn quê mùa không có gì đãi khách, mười quả trứng gà luộc chín này mời công tử hãy dùng cho đỡ đói!”.
Phương Triệu Nam vốn muốn rời khỏi đây cho nên cũng không chối từ, hai tay nhận lấy rổ trứng gà, thò vào trong lòng lấy ra một đỉnh bạc, đặt ở trên bàn cười rằng:
“Một chút tâm ý mong cô nương hãy nhận lấy”.
Cô gái quê ăn mặc rách rưới ấy không thèm nhìn đến đỉnh bạc, đáp rằng:
“Mười quả trứng gà đâu có bao nhiêu, làm sao có thể nhận lấy món tiền lớn này của công tử”.
Phương Triệu Nam nói:
“Người ta đang lúc đói thì một bát cơm cũng không thể tính được, đỉnh bạc nhỏ này chẳng qua chỉ là một chút lòng thành”.
Vừa nói thì người đã lách ra khỏi quán. Chạy thẳng về phía trước không hề quay đầu lại.
Chạy một mạch hơn mười dặm đường thì chàng mới bước chậm lại, đưa mắt nhìn cảnh vật xung quanh.
Đã đến lúc lên đèn, chàng ngẩng đầu lên nhìn, trong bóng tối ẩn hiện núi non lô nhô, chàng đã chạy vào trong vùng rừng núi.
Phương Triệu Nam ngẩng đầu nhìn trời thở dài một hơi rồi lấy trứng ra dùng.
Trong khoảng khắc chàng đã ăn hết mười quả trứng gà, ăn xong chàng ngồi xếp bằng dưới tuyết, nhắm mắt điều hòa hơi thở, đợi đến khi cơn mệt nhọc đã qua thì mới đứng dậy, nhìn rõ phương hướng rồi leo lên núi. Đi được khoảng nửa canh giờ, thế núi bắt đầu hiểm trở, ngước mắt lên toàn là đỉnh núi nhấp nhô, nhìn xuống thì vực sâu chắn ngang, tuyết lớn bịt lối, cả một con đường nhỏ lên núi cũng chẳng tìm ra.
Phương Triệu Nam tuy là người mang đầy võ công, lúc này đã có cảm giác nửa bước khó đi, chàng rút kiếm vạch đường, mạo hiểm trèo lên, tuy đêm lạnh rét căm căm, nhưng chàng đã đổ mồ hôi đầy người, đúng là mỗi bước đều nguy hiểm.
Đi mãi cho đến canh năm trời hững sáng thì mới đến được dưới chân Bão Mục Cương, ngẩng đầu lên nhìn, núi cao trọc trời, vách dựng thẳng đứng, chàng suốt đêm đi không nghỉ cho nên người đã mệt nhoài, tự biết khó có thể tiếp tục mà leo trèo nữa, chỉ đành tìm một tảng đá chắn gió rồi ngồi xếp bằng vận khí điều tức, định đến khi trời sáng hẳn mới leo núi nữa.
Nào ngờ mệt mỏi quá độ, cho nên bất giác đã dựa vào tảng đá mà ngủ thiếp đi, đến khi tỉnh dậy thì mặt trời đã lên ba ngọn sào, chỉ cảm thấy toàn thân lạnh buốt, chân tay tê cóng.
Chàng đề tụ chân khí, vận công, để cho máu huyết chảy đều, rồi lại tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Chàng đã được Trương Nhất Bình chỉ điểm, cho biết vị trí của bãi Triều Dương, đó là một tảng nham thạch ở giữa lưng chừng núi, không những địa thế hiểm yếu mà đã được người ta đục đẽo thành một cây trụ đá.
Nếu không được Tụ Thủ Tiều Ẩn cho phép, hiếm có người nào có thể vượt qua nơi này.
Chàng cứ đi theo hướng Trương Nhất Bình đã chỉ tìm đến bãi Triều Dương.
Chàng đưa mắt nhìn ra xa, ở giữa vách núi dựng đứng có một tảng đá rộng khoảng sáu, bảy trượng, con đường nhỏ dẫn lên tảng đá ấy đã bị người ta phá hỏng, chỉ có vài cây trụ đá có thể đặt chân bước qua.
Phương Triệu Nam nhìn những cây trụ đá ấy, chúng cách nhau khoảng bảy thước đến một trượng, bên dưới là vực sâu, chỉ cần sơ ý đặt chân không chính xác, rơi xuống sẽ thịt nát xương tan.
Chàng đoán khinh công của mình có thể vượt qua được, thế rồi đề chân khí lên đan điền, cao giọng kêu lớn:
“Vãn bối Phương Triệu Nam có chuyện cầu kiến Sử lão tiền bối, mong tiền bối ban cho duyên gặp mặt”.
Nói chưa xong thì người đã phóng lên cao đến bảy, tám thước, chàng hạ eo vung tay, lướt xéo xuống, hạ chân ở trên cây trụ đá thứ nhất.
Cuối đầu nhìn xuống, chàng thấy khe sâu không đáy, bất giác đầu váng mắt hoa, chàng vội vàng nhắm hai mắt đề chân khí dặm mạnh hai chân, người lại phóng lên, rồi hạ xuống trên cây trụ đá thứ hai.
Lần này đã có kinh nghiệm, chàng không cuối đầu nhìn xuống nữa, chỉ hơi điều hòa hơi thở, lập tức phóng lên cây trụ đá thứ ba, phóng liên tục tám lần như thế, số trụ đá cũng đã hết.
Nhưng nơi chàng đứng cách tảng đá lớn ấy còn khoảng ba, bốn trượng, chàng đoán rằng khinh công của mình không thể nào vượt qua được ba trượng như thế, trong lòng không khỏi rầu rỉ.
Đang lúc ấy, chợt nghe một giọng nói lạnh như băng truyền vào trong tai:
“Sư phụ của ta không muốn gặp ai cả, hai mươi năm nay chưa từng qua lại với đồng đạo võ lâm, ngươi hãy cứ quay về đi thôi!”.
Phương Triệu Nam định thần nhìn lại, chỉ thấy một đại hán mặt đen tuổi khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu, người mặc bộ y phục vải lam, đứng trên tảng đá đối diện, hai mắt hấp háy, nhìn thẳng vào mình, mặt lạnh lùng kiêu ngạo.
Lâm vào tình thế này, Phương Triệu Nam đành phải cố nén cơn giận, ôm quyền vái một lễ, cười rằng:
“Phương Triệu Nam có chuyện hệ trọng cần gặp Sử lão tiền bối, mong huynh đài thông báo giùm, tại hạ cảm kích vô cùng! ' Đại hán ấy ngửa mặt cười lớn nói:
“Tại hạ bình sinh chưa bao giờ gặp một nam nhân lắm lời như ngươi, có điều dù ngươi có nói ra gia sư cũng không gặp, nếu ngươi không tin thì hãy đứng trên trụ đá ấy chờ tám ngày mười ngày xem thử”. Nói xong thì xoay người chậm rãi bước đi.
Phương Triệu Nam lo lắng, quát lớn một tiếng:
“Đứng lại!”.
Đại hán mặt đen ấy nghe thế thì ngừng lại, xoay người rồi giận dữ nói:
“Nam tử hán đại trượng phu cứ lắm lời như thế chẳng phải mắt thể diện lắm ư?”.
Phương Triệu Nam thò tay vào trong lòng, lấy ra đồng tiền mà Trương Nhất Bình đã tra cho, giơ cao trong tay nói:
“Huynh đài có nhận ra vật trong tay của tại hạ không?”.
Đại hán ấy nhìn kỹ thì sắc mặt đột nhiên giãn ra, cười rằng:
“Ngươi đã mang theo đồng tiền đòi ơn của sư phụ ta, tại sao không sớm lấy ra? Đến nỗi tại hạ phải buông lời đắc tội”.
Đang nói thì tay phải thò vào trong lòng rút ra một sợi dây, y buông tay một cái ném thẳng về phía Phương Triệu Nam, thủ pháp rất chính xác, sợi dây đã phóng tới trước người Phương Triệu Nam một thước.
Phương Triệu Nam đưa tay phải chụp lấy sợi dây thừng, lòng hủ thầm:
“Không biết y muốn mình vượt qua như thế nào, chả lẽ mình phải chụp đầu sợi dây thừng rồi đu qua hay sao?”.
Đại hán mặt đen ấy cười nói:
“Nếu huynh đài tin tưởng tại hạ thì hay chụp sợi dây thừng này rồi phóng người qua, nếu huynh đài không tin tưởng thì hãy cột một đầu dây thừng lên trụ đá rồi tự thi triển công phu Thảo thượng phi hành mà qua đây”.
Phương Triệu Nam cười lớn:
“Huynh đệ có thể tin tưởng huynh đài”.
Rồi chàng ngầm đề chân khí, hai tay nắm chặt sợi dây thừng tung người vọt khỏi trụ đá, treo người lơ lưng lên sợi dây lướt qua, chỉ thấy gió lạnh phả vào mặt, thế lao tới nhanh cùng cực, trong chớp mắt đã đến vách đá đối diện.
Chàng đã sớm vận khí chuẩn bị, khi người sắp lao vào vách đá, chân trái chàng vươn ra, hít chân khí lên đan điền, mũi chân điểm nhẹ vào vách đá, thân người đang lao tới bỗng ngừng lại ở nơi vách đá.
Khi Phương Triệu Nam đang đu người lơ lửng ở vách đá thì đột nhiên cảm thấy toàn thân bổng lên, trong chớp mắt đã lên tới tảng đá đối diện.
Đại hán mặt đen thu sợi dây thừng lại cười nói:
“Huynh đài đang mang đồng tiền đòi ơn của gia sư, chắc là đã biết quy củ cầu kiến gia sư”. Nói xong rồi đưa tay:
“Chắp tay lại”.
Phương Triệu Nam nghe thế thì ngẩn ra, nhưng chàng rốt cuộc cũng là người thông minh dị thường, chỉ hơi trầm ngâm thì lập tức nói:
“Đồng tiền đòi ơn này của Sử lão tiền bối là vật quý giá vô cùng trong võ lâm, huynh đệ muốn đích thân trao cho Sử lão tiền bối”.
Đại hán mặt đen ấy nhíu mày nói:
“Gia sư đang tọa tức, nếu huynh đài muốn gặp người chỉ e phải đợi đến giờ ngọ”.
Phương Triệu Nam ngẩng đầu nhìn sắc trời, lúc này chỉ mới cuối giờ thìn, còn hai canh giờ nữa mới đến giờ ngọ, trong lòng lo lắng, thở dài:
“Huynh đệ quả thực có chuyện gấp gáp, cần gặp mặt Sử lão tiền bối, mong huynh đài có thể giúp cho, huynh đệ cảm kích không nguôi”.
Nói xong thì vái dài một cái.
Đại hán mặt đen ấy trầm ngâm một hồi rồi nói:
“Thôi được! Tại hạ sẽ bẩm báo giúp cho huynh đài một tiếng, có thể gặp sớm được hay không là do sự may mắn của huynh đài”.
Nói xong thì xoay người bước vào căn nhà cỏ ở vách núi. Một lát sau đại hán mặt đen ấy chạy ra cười nói:
“Huynh đài quả thật may mắn, gia sư đã phá lệ”.
Phương Triệu Nam ôm quyền vái một lễ:
“Đa tạ huynh đài đã giúp đỡ, xin hỏi quý tính đại danh?”.
Đại hán mặt đen ấy cười:
“Tiện tính của huynh đệ là Thịnh, thảo tự là Kim Ba”.
Phương Triệu Nam nói:
“Chắc Thịnh huynh đệ đã được Sử lão tiền bối truyền cho tuyệt học, ngày sau ra chốn giang hồ chắc chắn sẽ là bậc kỳ tài trong võ lâm”.
Kim Thịnh Ba cười nói:
“Gia sư tính tình đạm bạc, không muốn tranh bá giang hồ với kẻ khác, ẩn cư tại nơi Bão Mục Cương, đóng cửa không tiếp khách. Huynh đệ tuy không thanh cao khí tiết như gia sư, nhưng cũng không có lòng cầu mong danh lợi, Phương huynh quá khen như thế, huynh đệ không dám nhận”.
Hai người đang nói chuyện thì đã đến cửa nhà cỏ, Phương Triệu Nam sửa sang quần áo, đi theo Thịnh Kim Ba, bước vào cửa tre đi thẳng đến sảnh đường.
Ở đó có một ông già gầy gò khô đét, nhưng trông hãy còn quắc thước lắm, ông ta ngồi trên một cái ghế gỗ, người mặc bộ y phục màu xanh, ở eo có sợi đai bằng cỏ, bộ mặt trông có vẻ lạnh lùng kiêu ngạo, không thèm nhìn hai người.
Phương Triệu Nam sửa sang quần áo rồi vái dài, ôm quyền quá đỉnh đầu nói:
“Vãn bối Phương Triệu Nam, khấu đầu thỉnh an Sử lão tiền bối”.
Ông ta chỉ lạnh lùng hừ một tiếng rồi nói:
“Lão phu bình sinh không nói chuyện với người không có liên quan, trước tiên hãy đưa đồng tiền đòi ơn ra để lão phu xem qua thì ngươi nói tiếp cũng chẳng muộn”.
Phương Triệu Nam hơi giật mình, nhủ thầm:
“Kẻ này thật là kiêu ngạo!” rồi thò tay vào trong lòng, lấy ra đồng tiền đặt trên hai tay.
Sử Mưu Độn chậm rãi đưa tay đặt đồng tiền, nhìn một hồi thì lắc đầu chép miệng:
“Đây là món nợ ân tình cuối cùng của lão phu, sau khi trả xong, trên đời này chẳng có chuyện lão phu phải lo nữa, ngươi hãy nói đi! Có chuyện gì cần ta giúp đỡ?”.
Phương Triệu Nam thấy ông ta đã xem xong đồng tiền, không hỏi lai lịch thì nhủ thầm:
“Cái ngoại hiệu Tụ Thủ Tiều Ẩn này quả là danh bất hư truyền, nhìn bộ dạng ông ta, có lẽ bất cứ chuyện thê thảm gì trên đời cũng không thể nào khiến ông ta động lòng trắc ẩn, hai chữ Tụ Thủ này thật sự không hổ danh”.
Lòng tuy nghĩ như thế nhưng miệng thì cung kính đáp:
“Chủ cũ của đồng tiền này vì có chút chuyện nên chưa kịp đến, vãn bối chỉ là phụng lệnh đến trước bẩm báo cho lão tiền bối một tiếng”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn sầm mặt, lạnh lùng nói:
“Ai sai ngươi đến đây? Nói mau! Lão phu vì mấy đồng tiền đòi ơn này mà đã ở bãi Triều Dương hai mươi mùa ấm lạnh, nếu hôm nay không thể nói ra chuyện cần ta giúp đỡ thì đừng hòng rời khỏi chốn này”.
Phương Triệu Nam cảm thấy kẻ này ngạo mạn, không hiểu tình lý, nhưng bề ngoài vẫn giữ bình tĩnh, cười rằng:
“Lão tiền bối danh lừng khắp chốn, trong cõi võ lâm hiện nay ai mà không kính ngưỡng ...”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn giận dữ nói:
“Đừng nói vớ vẩn, hiện nay trên giang hồ kẻ biết lão phu chỉ đếm trên đầu ngón tay, hừ! Tuổi nhỏ như thế mà đã bẻm mép”.
Phương Triệu Nam nhớ kỹ lời Trương Nhất Bình dặn dò, tuy bị trách mắng, nhưng không thèm để ý, chỉ mỉm cười nói tiếp:
“Sử lão tiền bối võ công tuyệt thế, chí hành thanh cao, không chịu qua lại với người trong giang hồ, đương nhiên những kẻ sinh sau đẻ muộn rất ít người biết đến đại danh của tiền bối”.
Sử Mưu Độn nhướng mày, ánh mắt như điện, nhìn thẳng vào Phương Triệu Nam quát:
“Lão phu bình sinh không thích người bẻm mép, nếu có chuyện cần ta giúp đỡ thì hãy mau nói ra, còn nếu như cứ chần chừ thì đừng trách lão phu trở mặt vô tình, ra tay giết người”.
Phương Triệu Nam thấy ông ta ăn nói dữ dằn, cơn giận trong lòng bốc lên, định cự cãi trở lại.
Chợt nhớ lại tình cảnh sư môn gặp thảm biến, tự trách rằng:<
Trên con đường cái quan từ Hà Bắc vào đất Lỗ, một thớt ngựa khỏe đang tung vó, tuyết trắng bay theo vó ngựa.
Trên lưng ngựa là một chàng thiếu niên tuổi quá hai mươi, người mặc y phục màu xanh bó chặt, bên ngoài là lớp áo choàng lông ngỗng màu vàng. Trên vai trái lộ ra một cái chuôi kiếm có tua màu xanh lục tung bay, trông rất phấn khởi.
Chàng thiếu niên ấy anh tuấn lạ thường, mày kiếm mắt sáng, lưng hổ eo ong, mặt như quán ngọc, tuy tuyết rơi đầy trời, nhưng chàng không hề có ý sợ lạnh, trong đôi mắt vẫn ngời lên niềm vui, khóe miệng chốc chốc lại nhoẻn cười.
Chợt một con quạ bay xà xuống kêu quạc một tiếng, rồi vỗ cánh lướt về phía Tây.
Tiếng quạ kêu ấy đã khiến chàng thiếu niên bừng tỉnh bước ra khỏi hồi ức, chàng hơi nhíu mày, thò tay vào trong lòng lấy ra một món ám khí màu vàng trông giống như hình hoa sen, lớn như quả hạnh đào, chàng vung tay một cái, món ám khí phóng vút ra một tiếng nhẹ nhàng.
Rồi lại một tiếng quạ kêu nữa, một con quạ đen rơi ngay xuống trước.
Gió bấc thấu xương vẫn đang thổi mạnh, tuyết trắng vẫn không ngừng rơi, bốn bề vắng lặng vẫn như trước, ngoại trừ chàng, không có người nào biết dưới bãi tuyết mênh mông kia đã chôn vùi xác một con quạ đen.
Một dự cảm không may chợt dâng lên trong lòng, chàng bất giác rùng mình một cái rồi chợt ra roi phóng thẳng về phía trước.
Trong gió tuyết lạnh căm, từng giọt mồ hôi màu đỏ của thớt ngựa rơi xuống tuyết, thớt ngựa khỏe chạy đường dài mà chàng đã mua với giá cao cuối cùng không chịu đựng nổi mệt nhọc vì đã phóng nhanh không nghỉ trong thời gian rất dài, sau khi đã cố hết sức mình thì ngã xuống đất.
Khi thớt ngựa ngã xuống đất, chàng thiếu niên áo xanh ấy chỉ hơi nhún chân, đột nhiên phóng vút lên không, bay xa ra đến tám, chín thước, nhẹ nhàng hạ xuống tuyết, chàng quay đầu nhìn lại thớt ngựa nằm dưới tuyết, nhẹ thở dài, lẩm bẩm:
“Ngựa ơi, ngựa ơi, sống chết hãy do ngươi! Xin thứ ta không thể nào chăm sóc cho ngươi nữa!”.
Nói xong rồi quay phắt người đi, cất bước phóng về phía trước nhanh như tên bay, tốc độ không kém gì thớt ngựa lúc nãy.
Màu trời dần dần mờ hẳn, gió tuyết càng lúc càng lớn, chàng thiếu niên áo lam ấy một mặt không ngừng đưa tay lau mồ hôi trên trán, một mặt vẫn tiến nhanh về phía trước, tấm áo choàng bị gió mạnh thổi kêu lên phành phạch.
Khoảng một khắc sau, chàng đến bên một hồ nước, bên cạnh hồ nước ấy là một ngôi nhà cao lớn sừng sững nhưng trơ trọi, chẳng thấy ánh đèn, màn đêm đã bao trùm xuống, mọi vật trông rất thê lương.
Chàng phủi tuyết trên người rồi chậm rãi bước về phía căn nhà ấy.
Hai cánh cửa màu đen đang đóng chặt, chàng đưa tay gõ vào vòng cửa, một lát sau vẫn không có âm thanh gì trong nhà, chàng vội vàng đẩy mạnh vào cửa. Kẹt một tiếng, hai cánh cửa chợt bật ra. Nhìn vào trong, chỉ thấy trong sân ánh tuyết lấp lánh, các phòng đều tối đen như mực.
Chàng thiếu niên áo lam ấy hơi trầm ngâm, ưỡn ngực bước vào rồi xoay người lại đóng hai cánh cửa, chậm rãi tiến về phía trước.
Chàng băng qua sân rồi vào căn đại sảnh rộng rãi, màn đêm càng u ám, giơ bàn tay chẳng thấy được năm ngón, gió rét căm căm từ ngoài cửa thổi vào, bức tranh chữ treo trên tường kêu lên xoèn xoẹt, càng tăng thêm không khí âm u.
Chàng thiếu niên áo xanh ấy tuy thân đầy võ công nhưng trong lòng không khỏi hơi chột dạ, chàng bất giác đưa tay chạm vào chuôi kiếm.
Chàng vốn có khả năng nhìn vật trong bóng tối, chàng hơi nhắm hai mắt, vận chân khí lên rồi mở hai mắt ra, chàng lại thấy rõ mọi vật trong phòng.
Ở sát vách tương có một cái bàn bát tiên, bốn cái ghế thái sư, tất cả đều được sắp xếp rất ngay ngắn. Chàng hơi trầm tư, bước nhanh ra vườn sau, băng qua một lối nhỏ bước tới bên cạnh cửa vườn, hai cánh cửa gỗ đóng chặt, một nỗi lo lắng dâng lên trong lòng, chàng không hề suy nghĩ mà đưa tay đẩy vào hai cánh cửa gỗ ấy.
Nhưng tay chàng vừa chạm lên cánh cửa gỗ thì đột nhiên rút lại, chàng biết đó là nơi tịnh tu nội công của sư phụ, bất cứ ai cũng không được tự tiện xông vào.
Chàng ho nhẹ một tiếng, cung kính nói vọng vào bên trong:
“Đệ tử Phương Triệu Nam, đến thỉnh an sư phụ ...”.
Chàng nói rất lớn, dư âm vang vọng trong không trung, nhưng bên trong vẫn lạnh như tờ, chẳng có tiếng trả lời.
Một con gió thổi tới, cứ quật vào mặt chàng, trên mặt chàng lạnh giá, cỏ già cũng rét buốt, chàng không ngăn được mình rùng mình một cái, hai tay đẩy vào cánh cửa nhưng vẫn không hề suy chuyển, chắc là bên trong đã cài then.
Chàng lui ra sau một bước, ngầm vận chân khí vào chân, định tông cửa xông vào, nhưng nhớ lại gương mặt nghiêm nghị của sư phụ, chàng lập tức thu thế lại, hai tay vung một cái, phóng người vọt lên tường.
Chàng đưa mắt nhìn vào, hai gốc lạp mai vẫn đứng hiên ngang trong tuyết, hương hoa xộc vào mũi.
Một bóng hình nhỏ nhắn mảnh mai đột nhiên hiện lên trong đầu, chàng nhớ lại mười mấy năm trước đã từng cùng với một cô gái nhỏ xinh đẹp mỹ miều trồng hai gốc mai này.
Lúc đó chàng và nàng vẫn là hai đứa trẻ tám, chín tuổi, thanh mau trúc mã, cùng lớn lên bên nhau, cùng tập võ với nhau, cùng chơi đùa với nhau, trong chớp mắt thời gian mười mấy năm đã nhanh chóng trôi qua như dòng nước.
Khi chàng học xong võ nghệ rời khỏi sư môn, nàng đã là một cô gái đẹp như ngọc, nháy mắt đã là hai năm, lần này chàng từ ngàn dặm xa xôi trở về bên hồ Đông Bình, một là muốn thăm sư phụ, một là muốn thăm vị sư muội của mình.
Chàng ngắm nhìn hai gốc mai một lát rồi mới phóng người xuống, chậm rãi bước về phía căn tịnh thất mà sư phụ tu luyện nội công.
Trong lúc nghĩ ngợi, chàng đã đến trước cửa phòng, chàng vận chân khí rồi đưa tay đẩy một cái, hai cánh cửa bật ra.
Nhưng chỉ thấy cả căn phòng treo đầy khăn tang màu trắng, sau bức màn bằng vải trắng là hai cỗ quan tài nằm cạnh nhau.
Chàng ngẩn ra một hồi rồi kêu lớn:
“Sư phụ! ”. Chàng vọt người phóng tới, hai tay vịn vào nắp hai cỗ quan tài, nước mắt tuôn ra như suối.
Sau một hồi khóc lóc thảm thiết thì tâm trạng dần dần bình tỉnh trở lại. Chàng thầm nghĩ:
“Sư phụ có võ công tuyệt thế, danh lừng võ công, sư mẫu cũng là bậc anh thư cân quắc, món Kim liên hoa trong tay cũng nổi danh đại giang Nam Bắc, mặc dù bị cao thủ thuộc hàng đệ nhất trên võ lâm vây công cũng có thể rút lui an toàn, chắc trong hai cỗ quan tài này có lẽ không phải là sư phụ, sư mẫu”.
Nghĩ như thế, cho nên trong lòng mong muốn được biết sự thật thầm vận công lực trong hai tay, định bật nắp quan tài bên trái ra xem cho rõ, chợt nghe giọng nói lanh lảnh vang lên ở sau lưng:
“Ngừng tay!”.
Quay đầu nhìn lại, không biết từ lúc nào đã có một cô thiếu nữ mặc đồ trắng, tóc dài phủ vai đứng ở sau lưng.
Tuy cô gái ấy xinh đẹp mỹ miều, nhưng lúc này xung quanh lạnh lẽo âm u, màn tang buông rũ, lại có hai cỗ quan tài trong phòng, mà nàng đã đến không hề gây tiếng động, Phương Triệu Nam dù cho có lớn gan cũng phải giật mình một cái.
Chỉ thấy thiếu nữ áo trắng ấy môi hơi mấp máy, lạnh lùng hỏi:
“Ngươi là ai, canh khuya nửa đêm chạy đến đây khóc than cái gì?”.
Phương Triệu Nam trầm ngâm nói:
“Tại hạ là môn hạ của Châu lão anh hùng, tiện tính là Phương, thảo tự là ...”.
Cô gái áo trắng ấy cắt ngang:
“Thôi được! Ta không hỏi họ tên ngươi”.
Phương Triệu Nam nghe xong nhíu mày, nói:
“Trong hai cỗ quan tài này đặt thi thể của ai, tại hạ có thể mở ra xem thử không?”.
Thiếu nữ áo trắng ấy lạnh lùng đáp:
“Đừng xem! Một người là Châu Bội Châu anh hùng, một người là Châu phu nhân”.
Phương Triệu Nam chỉ cảm thấy máu nóng xông lên ngực, gắng giọng hỏi:
“Có thật không?”.
Cô gái áo trắng ấy vẫn thản nhiên trả lời:
“Không tin thì ngươi hãy mở nắp quan tài ra xem thử!”.
Phương Triệu Nam vận lực vào hai tay, kẹt một tiếng, đánh bật nắp của cỗ quan tài bên trái, đưa tay vào trong lòng lấy ra một mồi lửa, giữa hai cỗ quan tài là một cái bàn trà rất nhỏ, trên bàn trà có một mẩu đèn cầy. Chàng dùng mồi lửa ấy mồi ngọn đèn cầy, căn phòng có vẻ sáng sủa hơn.
Trong cỗ quan tài là một thi thể nằm ngửa che vải trắng, chỉ lộ ra một cái đầu người râu tóc bạc phơ, giọng nói mép cười của vị sư phụ đã nuôi dưỡng chàng mười mấy năm, đã trong sâu trong tâm trí của chàng, cho nên vừa nhìn xuống, chàng lập tức nhận ra thi thể nằm ngửa trong cỗ quan tài đó chính là di thể của vị ân sư mà chàng đã xa rời hai năm nay.
Chàng cảm thấy máu trong ngực nhộn nhạo, không thể kiềm được tâm trạng bi phẫn kích động, chàng quát một tiếng, phun ra một búng máu tươi, quỳ phục xuống bái trước quan tài, buông giọng khóc to.
Tất cả tình xưa chuyện cũ giờ đây đã hóa thành nỗi bi phẫn thống khổ, tiếng khóc ấy nghe quả thật đớn đau.
Không biết bao lâu, Phương Triệu Nam đã khóc đến nỗi mắt chảy ra máu, trận khóc ấy coi như đã giải tỏa được nỗi bi phẫn trong lòng chàng, tinh thần dần dần ổn định trở lại.
Định thần nhìn lại, chỉ thấy ngọn đèn cầy trên cái bàn trà chỉ còn lại một mẩu ngắn, nàng thiếu nữ áo trắng lạnh lùng như sương ấy vẫn lặng lẽ đứng một bên, thần sắc trên mặt không hề thay đổi.
Phương Triệu Nam đứng dậy, đưa mắt nhìn thẳng về phía thiếu nữ áo trắng, hỏi:
“Cô nương là ai? Thi thể của sư phụ sư mẫu tôi có phải do cô nương tẩm liệm không?”.
Thiếu nữ áo trắng ấy không thèm ngó đến Phương Triệu Nam, lạnh lùng trả lời:
“Cha mẹ tôi đã từng được Châu lão anh hùng giúp đỡ, tôi tẩm liệm thi thể của họ coi như là đã thay cha mẹ báo ơn, ngài đã khóc một canh giờ, nay đã đến lúc nên đi!”.
Nói xong thì chậm rãi xoay người, bước ra phía sau tấm màn tang.
Phương Triệu Nam vội vàng nói:
“Cô nương hãy tạm ngừng bước, tại hạ có mấy câu muốn nói”.
Thiếu nữ áo trắng ấy đã sắp bước vào bên trong, chợt nghe thế thì ngừng lại, hỏi:
“Chuyện gì hãy nói mau!”.
Phương Triệu Nam thấy cô gái đã đứng lại, nhưng không quay đầu, trong lòng không khỏi hơi tức giận, thầm nhủ:
“Thiếu nữ này thật là kiêu ngạo”.
Khi chàng đang nghĩ thế thì nàng thiếu nữ tựa như không muốn chờ nữa, người lắc một cái đã lách vào phía trong tấm màn.
Phương Triệu Nam đã đi theo sư phụ lâu ngày, thường được Châu Bội gọi vào phòng chính dạy dỗ, biết rằng sau tấm màn ấy chẳng có phòng ốc gì cả, thế rồi mới cao giọng hỏi:
“Cô nương có biết ái nữ của gia sư đang ở đâu không?”.
Chỉ nghe phía sau truyền lại giọng nói lạnh lùng của nàng ta:
“Không biết”.
Phương Triệu Nam nhíu mày, lại hỏi:
“Cô nương đến đây lúc nào, có biết chuyện gia sư bị hại không?”.
Nhưng chỉ nghe tiếng trả lời nhát gừng của cô gái:
“Tôi đến đây, họ bị giết chết đã lâu”.
Phương Triệu Nam chợt nghi ngờ, hơi trầm ngâm rồi hỏi dấn tới:
“Cô nương tại sao biết phu phụ gia sư bị hại mà đến đây tẩm liệm thi thể?”.
Ở phía sau bức màn vang lên tiếng cười lanh lảnh và lạnh lẽo của cô gái:
“Sao?
Ngài nghi ngờ tôi là hung thủ giết hại họ?” nói xong thì lại cười lớn.
Phương Triệu Nam cảm thấy trong giọng cười lanh lảnh kia có chứa sự lạnh lùng, nghe mà xương cốt nhức nhối, rùng mình liền hai cái.
Chợt ở góc màn có một bàn tay trắng như tuyết cầm một cây đèn cầy màu đỏ, vẫn giọng lạnh lùng kiêu ngạo ấy:
“Ngài muốn ở đây canh giữ thi thể của sư phụ sư mẫu ngài, cũng được, hãy mau thắp ngọn đèn cầy này lên rồi đóng nắp hòm lại”.
Phương Triệu Nam cảm thấy lời nói của thiếu nữ này cao thâm khó lường, mà hành động thì kỳ lạ vô cùng, trong một đêm gió tuyết như thế này, trong căn phòng có hai cỗ quan tài lạnh lẽo càng khiến cho người ta có cảm giác khó phân biệt là người hay ma.
Dù chàng là người có võ công nhưng cũng cảm thấy toát mồ hôi lạnh, chàng đưa tay ra theo bản năng nhận lấy cây đèn cầy.
Sau tấm màn lại vọng tới giọng nói lạnh lùng của cô thiếu nữ áo trắng:
“Cây đèn cầy này đủ đốt đến khi trời sáng, nếu ngài không sợ thì hãy ngồi một đêm trong căn phòng này!”.
Phương Triệu Nam đốt cây đèn cấy mới, đóng nắp hòm lại rồi ngồi dựa vào hòm, mắt nhìn ánh đèn cầy mà trong lòng dâng lên ngàn vạn nỗi cảm khái.
Chàng nhớ lại những chuyện khi còn học nghệ trong sư môn, tính cách nghiêm khắc của sư phụ khiến cho người ta sợ hãi, nụ cười hiền từ của sư mẫu khiến cho người ta ngưỡng mộ, nét đẹp tuyệt trần của sư muội khiến cho người ta khó quên.
Những chuyện xưa cứ hiện lên trong đầu như càng tăng thêm sự thê lương trong lòng người.
Đêm khuya canh vắng, ngọn đèn cầy lập loè, chàng đã đi đường cả ngày người đã mệt nhoài, ngồi dựa vào quan tài nghĩ ngợi một lát thì đã chìm vào giấc ngủ.
Không biết trải qua bao lâu thì chợt thấy có người đẩy vào vai trái, mở bừng mắt nhìn ra, thì ra đó là một ông già râu dài mặc áo bào màu xanh, mặt đầy vẻ bi phẫn, đứng lặng bên cỗ quan tài.
Phương Triệu Nam vừa thấy người ấy thì không biết là sợ hay mừng, đứng phắt dậy cuối lạy phía trước người ông ta, nước mắt tuôn ra như suối.
Té ra ông già ấy là bạn tri kỷ của Châu Bội, là một trong Giang Nam tứ kiếm tên Trương Nhất Bình.
Ông già ấy thở dài nhẹ một tiếng, nói:
“Ngươi đứng dậy, hãy từ từ cho ta biết mọi chuyện đã xảy ra”.
Phương Triệu Nam đưa ống tay áo lau nước mắt trên mặt, nói:
“Đêm qua vãn bối quay về, sư phụ, sư mẫu đã bị hại từ lâu ...”.
Ông già ấy hơi giật mình, nói:
“Cái gì? Chả lẽ thi thể sư phụ, sư mẫu của ngươi không phải do ngươi tẩm liệm?”.
Phương Triệu Nam chợt nhớ đến thiếu nữ áo trắng, lắc đầu:
“Không phải”.
Miệng thì trả lời, còn người thì xoay qua vén tấm màn.
Nhưng chỉ thấy sau tấm màn là một hàng đầu người xếp ngay ngắn, còn thiếu nữ áo trắng kia thì không biết đã bỏ đi từ lúc nào.
Ông già ấy mặt biến sắc, bước thẳng ra sau tấm màn, Phương Triệu Nam vội vàng bước theo ông ta.
Chỉ thấy bức tường sau tấm màn chất mười mấy cái xác không đầu, Phương Triệu Nam thầm đếm thì thấy vừa vặn với hàng đầu người xếp ở phía trước, đứng là mười lăm cái xác.
Trương Nhất Bình nghiến răng nghiền lợi, cười lặng một hồi:
“Ra tay thật độc ác, đúng là cả gà chó cũng không tha”.
Khi Phương Triệu Nam học nghệ trong sư môn, đã từng gặp vị đại hiệp khách danh lừng võ lâm này, biết ông ta là người võ công cao cường, đã đạt tới cảnh giới xuất thần nhập hóa, danh tiếng của ông ta còn hơn cả sư phụ mình.
Lúc này gặp phải vị kỳ nhân hành tung khó đoán này, trong nỗi bi khổ cực độ, chợt sinh ra tia hy vọng báo thù cho sư phụ.
Thế rồi chàng cuối người nói:
“Sư bá hiểu biết rộng rãi, có giao tình sâu sắc với gia sư, sư môn không may gặp phải thảm cảnh này, phải nhờ vào sư bá trợ lực, điều tra họ tên của kẻ thù, rửa sạch mối oan cho sư môn, vãn bối tuy biết võ công kém cỏi nhưng nguyện đem bầu máu nóng, trái tim phục thù giết địch báo oán”.
Trương Nhất Bình nhẹ thở dài:
“Ngươi không cần dùng lời nói khích ta, ta và sư phụ của ngươi giao tình sâu sắc, ba mươi năm trước sư phụ, sư mẫu ngươi đã cứu một mạng này của ta, đến nay ta vẫn ghi nhớ trong lòng, lúc nào cũng muốn báo đáp, nay ông ta gặp thảm cảnh này, trong lòng ta đau đớn vô cùng, quyết không thua kém gì ngươi, chỉ cần ta còn một hơi thở thì sẽ dốc hết lòng báo thù!”.
Nói đến đây thì không kiềm chế được nữa, hai hàng nước mắt rơi xuống.
Phương Triệu Nam quỳ sụp xuống đất:
“Vãn bối trước tiên thay cho sư phụ khấu đầu bái tạ tấm ân tình của Trương sư bá”.
Trương Nhất Bình rốt cuộc vẫn là cao nhân, sau một hồi kích động thì trong lòng đã bình tĩnh trở lại, nhìn Phương Triệu Nam từ đầu đến chân với ánh mắt sắc bén:
“Đứng dậy, ngươi hãy kể chuyện đêm qua cho ta hay”.
Phương Triệu Nam y theo lời đứng dậy, thầm để ý đến đống xác bên góc tường, không hề thấy xác của sư muội, trong lòng hơi cảm thấy an ủi, buồn bã thở dài một tiếng rồi kể hết mọi chuyện đêm qua cho Trương Nhất Bình nghe.
Trương Nhất Bình khi nghe đến hành động kỳ lạ của cô gái áo trắng, trong lòng không khỏi kinh ngạc.
Ông ta thầm nghĩ:
“Bọn thiếu nữ vốn là kẻ nhát gan, dù cho là người học võ cũng không thể có đủ gan như thế, trong đêm tuyết lạnh thê lương, ở một nơi hoang vắng không người mà giữ một đống xác như thế này ...”.
Phương Triệu Nam tựa như đã nhìn thấy vẻ nghi hoặc trên mặt Trương Nhất Bình, thế rối mới nói tiếp:
“Lời của vãn bối câu nào cũng là sự thật, hành động của thiếu nữ áo trắng ấy thật khiến cho người ta có cảm giác người mà khó đoán”.
Trương Nhất Bình cười nhạt, nói:
“Trên đời này chuyện lạ gì cũng có, nếu hiền điệt không vì quá đau khổ mà sinh ra ảo giác, thiếu nữ áo trắng ấy mới là manh mối tốt nhất”.
Phương Triệu Nam chép miệng:
“Vãn bối nếu không tận mắt chứng kiến, chỉ e cũng khó tin được, trên thiên hạ lại có chuyện kỳ lạ như thế, chả trách nào sư bá còn nghi ngờ”.
Nói xong thì chợt thấy một luồng bạch quang xé tấm màn bay tới.
Phương Triệu Nam từ nhỏ đã được sư mẫu truyền cho tuyệt kỹ phóng ám khí Kim liên hoa, tai mắt rất lanh lẹ, tay phải phất một cái tiếp lấy luồng bạch quang ấy, chỉ cảm thấy trong tay lạnh như băng, khi định thần nhìn lại thì thấy ám khí ấy là một trái cầu tuyết.
Trái cầu tuyết này tựa như đã bị người ta dùng lực vo thành một viên to như quả hạnh cứng rắn lạ thường, thủ pháp phát cầu tuyết của người này tựa như rất chính xác.
Nhưng khi Phương Triệu Nam tiếp lấy trái cầu tuyết thì không khỏi cảm thấy kình đạo mãnh liệt, lực phóng không mạnh không nhẹ này nếu không phải là người có võ công thượng thừa, khó mà nắm vững như thế, trong lòng không khỏi kinh hãi.
Trương Nhất Bình hừ lạnh một tiếng, hai chân hơi nhún một cái, thân người đã phóng ngang ra như tên bắn, thân pháp ấy thật kỳ ảo quả nhiên không hổ là thân thủ của một danh gia.
Phương Triệu Nam đưa tay vẹt màn, dùng thân pháp Yến tử xuyên vân vọt ra khỏi tịnh thất, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy Trương Nhất Bình đứng ở trên xà nhà, đưa mắt nhìn tứ phía.
Chợt thấy chân trái của ông ta lướt ra sau một cái, người không cất bước, chân không khuỵu gối thế mà thân người đã từ trên trượt thẳng xuống.
Chân vừa chạm đất thì thở dài một tiếng:
“Thôi rồi, thôi rồi, Trương Nhất Bình này hôm nay coi như đã gặp phải địch thủ! Này thằng nhỏ, hãy mau mau bóp viên cầu tuyết trên tay của ngươi xem thử”.
Phương Triệu Nam hơi bóp nhẹ một cái, viên cầu tuyết vỡ ra, quả nhiên bên trong viên cầu tuyết có một mảnh vài màu trắng.
Chỉ thấy trên mảnh vải viết rằng:
“Nơi này không phải đất lành, hãy mau rời khỏi để tránh họa sát thân”. Phía bên dưới không hề ghi tên họ, cũng chẳng có ký hiệu gì cả.
Trương Nhất Bình tuy là người hiểu biết rộng rãi nhưng trong một lúc cũng ngẩn người ra ngạc nhiên, ông ta không ngờ rằng đây là lời cảnh cáo đầy thiện ý.
Phương Triệu Nam chợt nhướng đôi mày rậm:
“Trương sư bá, chúng ta hãy ở đây đợi bọn chúng”.
Trương Nhất Bình thở dài buồn bã:
“Thằng nhỏ trẻ tuổi mà đã có lòng can đảm như thế, thật là đáng quý, không uổng cho sư phụ ngươi đã dạy ngươi, song dù ngươi có ở đây cũng chẳng ích gì”.
Phương Triệu Nam chợt rơi hai dòng nước mắt, nói:
“Vãn bối tự biết võ công khó mong trả thù cho gia sư, nhưng thù hận của sư môn không đội trời chung, nếu kiếp này Phương Triệu Nam không thể giết chết kẻ thù thì cũng như gốc cây này”.
Nói xong tay phải lật lại rút xoạc thanh trường kiếm ra, ánh hàn quang lấp lánh, chỉ nghe vút một tiếng, gốc lạp mai đã đứt ra thành hai khúc.
Trương Nhất Bình hấp háy ánh mắt, tựa như đã bị hào khí xông mây của chàng thiếu niên trước mắt gợi lại tình cố hữu.
Nhưng chỉ trong chớp mắt, ông ta đã trấn tĩnh trở lại, cười nhạt:
“Chuyện nhỏ không nhịn được tất sẽ hỏng mưu lớn, cứ theo võ công của người phóng quả cầu tuyết mà luận, kẻ địch sắp tới chắc chắn là người có võ công cao cường, đừng nói là ngươi ở lại đây vô ích, dù cho lão phu cũng e rằng không phải là địch thủ của hắn ta. Song, ta đã là cây sống lâu năm, chuyện sống chết đã từ lâu không để trong lòng, bạn cũ tình nặng, máu này ta nào tiếc, dù cho chôn thân ở nơi đây, xuống dưới suối vàng gặp lại bạn cũ cũng là chuyện vui trong đời người, nếu may mắn thoát nạn thì chắc chắn sẽ tìm cách mời võ lâm cao thủ báo thù rửa hận!”.
Nói đây chợt im bặt, chụp lấy tay phải Phương Triệu Nam phóng ra ngoài.
Chạy một mạch được năm, sáu dặm đường, Trương Nhất Bình mới buông tay Phương Triệu Nam ra, thở dài hỏi:
“Ngươi có cho rằng sư phụ, sư mẫu ngươi chết quá bất ngờ không?”.
Phương Triệu Nam bị Trương Nhất Bình đột nhiên nắm chặt lấy mạch môn, không đủ sức đề kháng nữa, bị kéo đi đến năm, sáu dặm đường, cố nén cái giận trong lòng, đang định lên tiếng trách cứ thì lại bị Trương Nhất Bình hỏi bất ngờ như thế, nỗi hoài nghi trong lòng dâng lên, ngẩn ra rồi nói:
“Sư bá nói lời này là có nghĩa gì? Chả lẽ sư phụ sư mẫu đã đoán trước mối họa này?”.
Trương Nhất Bình ngửa mặt nhìn trời, nói:
“Đúng vậy, sư phụ sư mẫu ngươi không những đã biết trước chuyện này sẽ xảy ra mà còn biết trước không thể nào thoát khỏi cho nên mới không nhờ người giúp đỡ, cũng không bỏ chạy đến nơi khác”.
Phương Triệu Nam nói:
“Sư bá nói như thế thật khó làm cho vãn bối tâm phục, đừng nói trong thiên hạ này khắp nơi đều có chốn ẩn thân, chỉ võ công của sư phụ và sư mẫu thôi, dù cho địch không lại người ta cũng có thể rút lui an toàn, không đến nỗi cả hai cùng nằm trong quan tài, nếu chẳng phải bị kẻ địch ám toán, há đã rơi vào kết cuộc thê thảm này?”.
Trương Nhất Bình hơi trầm ngâm:
“Đó cũng là chỗ ta khó hiểu, Châu hiền đệ tính tình nghiêm nghị, lúc còn sống lại kết oán không nhiều, từ lâu đã hiểu hết việc đời, ẩn cư nơi hồ Đông Bình này, cách xa chốn giang hồ, ngoại trừ lão phu và một, hai kẻ tri giao, y cũng rất ít khi giao tiếp với người võ lâm. Hai mươi năm nay vẫn sống cuộc sống đạm bạc, lấy chuyện trồng hoa dạy học làm vui, ba năm trước khi gặp lại, ta phát giác nội công của y đã tiến bộ rất nhiều, mà sư mẫu cũng có thành tựu kinh người. Khắp đại Nam giang Bắc, hiện nay kẻ có thể thắng được vợ chồng y trong hai đạo hắc bạch quả thật khó tìm ra được mấy người, nhưng ta đã điều tra kỹ càng, vợ chồng y rõ ràng đã biết trước thảm cảnh này cho nên đã sắp xếp từ lâu”.
Phương Triệu Nam nói:
“Xin sư bá hãy thứ cho vãn bối ngu muội, cuối mong sư bá không tiếc lời chỉ dạy để mở mối gút trong lòng”.
Trương Nhất Bình đưa mắt nhìn xung quanh một hồi rồi nói:
“Đó là do ta đi nhiều mà biết, nói thẳng ra cũng chẳng có gì, ngươi có thấy di thể của sư muội ngươi hay không?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Sư muội của vãn bối vốn là người lan chất huệ tâm, trên đời này có mấy người bì được, có lẽ nàng đã bị kẻ thù cướp đi, vãn bối thật không dám vì thế mà ...”.
Trương Nhất Bình bật cười:
“Thằng nhỏ giỏi lắm, thế nhưng rất tốt, ngươi không dám đồng ý với lão phu, đúng không?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Vãn bối không dám”.
Trương Nhất Bình nói:
“Không phát hiện ra thi thể của sư muội ngươi, có thể là có hai cách giải thích, bảo ả bị kẻ khác bắt sống đi cũng có thể lắm, bảo ả đã được lệnh sư ngươi đưa đi nơi khác lánh nạn, mấu chốt chính là trong đống thi thể kia”.
Phương Triệu Nam ngạc nhiên:
“Xin thứ cho vãn bối ngu muội, không thể hiểu được lời nói của sư bá, mong sư bá nói kỹ hơn”.
Trương Nhất Bình chép miệng:
“Nếu ngươi để ý vào đống thi thể phía sau bức màn, ai nấy đều mặc kình trang, dù cho sư phụ ngươi đã biết trước khó tránh được nạn, cũng không muốn bó tay chịu chết, cho nên đã sai tất cả kẻ gia bộc trong nhà chuẩn bị đối phó, liều mạng với kẻ địch. Không ngờ kẻ địch võ công cực cao, chống cự không được cho nên mới xảy ra kết cục diệt môn như thế này, trong đó có điều khiến người ta không hiểu là, đã biết trước có họa rơi xuống, tại sao không chịu lánh nạn trước, kế sách này tuy không thể trốn tránh lâu dài, nhưng có thể tạm thời tránh được tai mắt của kẻ địch, sau đó thì tìm cách đối phó cũng không muộn. Chao ôi! Trời ơi! Tại sao không để ta đến sớm ba ngày, không ngờ ta chỉ đến muộn một bước mà phải hối hận suốt đời”.
Phương Triệu Nam nhớ lại đống thi thể ở sau tấm màn, quả nhiên ai nấy đều mặc kình phục. Thế rồi mới nói:
“Sư bá thật tinh mắt, một lời đã chỉ ra bến mê cho vãn bối, sư phụ đã biết trước mối họa này sẽ rơi xuống, sao không nhờ ai giúp đỡ?”.
Trương Nhất Bình nghĩ ngợi một lúc lâu rồi nói:
“Sau khi sư phụ ngươi ẩn cư ở hồ Đông Bình, rất ít qua lại với người trong võ lâm, lại nói dù cho có ý nhờ người ta giúp đỡ cũng khó tìm được người thích hợp. Nếu ta suy đoán không sai, ở gần trang viện của sư phụ ngươi chắc chắn đang có người theo dõi, có lẽ đó là thiếu nữ áo trắng mà ngươi đã gặp. Lão phu tự tin thuật khinh công của ta không hề kém cỏi, nhưng khi nhảy vào trong sân, chẳng hề thấy giấu vết gì cả. Chuyện lần này e rằng không phải là chuyện trả thù báo hận trong võ lâm, đối phương ra tay rất độc ác, võ công lại cao cường, không thể bì với bất cứ nhân vật nào trong giang hồ, vả lại sau khi giết người thì không thèm che giấu vết tích, rõ ràng là có ý khác, còn ả thiếu nữ áo trắng canh giữ bên trong e rằng có dụng tâm”.
Ông ta hơi trầm ngâm rồi lại nói tiếp:
“Theo lão hũ thấy, lúc này có hai chuyện cần làm, thứ nhất là phải tìm cho ra tung tích sư muội của ngươi, thứ hai là phải điều tra kẻ thù là ai, ít nhất là phải tìm cho ra một số manh mối để truy tìm”.
Phương Triệu Nam nói:
“Sư bá nhìn sâu trông rộng, vãn bối phục sát đất, mong sư bá nể tình bằng hữu với sư phụ, tìm cách báo thù, vãn bối cảm kích không nguôi”.
Nói xong thì quỳ xuống đất tuyết.
Trương Nhất Bình mỉm cười buồn bã, đưa tay đỡ Phương Triệu Nam:
“Ngươi hãy đứng dậy, mối giao tình giữa ta với lệnh sư sâu tận xương cốt, nặng hơn sống chết, ngươi không cầu ta, ta cũng liều mạng già này tìm cho ra chân tướng sự việc. Lúc này chúng ta hãy chia nhau hành sự, ngươi hãy đi tìm tung tích của sư muội của ngươi, lão hũ sẽ quay trở lại căn nhà ấy, điều tra kỹ càng một phen, có lẽ anh linh cố hữu phù hộ, khiến cho ta có thể thấy được mặt kẻ thù, những mong tìm ra mưu kế rửa hận”.
Phương Triệu Nam nói:
“Vãn bối đã chịu cái ơn mười mấy năm nuôi dưỡng của sư phụ, dù cho thịt nát xương tan cũng mong báo được thù, nay sư phụ, sư mẫu gặp cảnh bi thảm như thế, vãn bối há có thể co đầu rút cổ, né nặng lấy nhẹ ...”.
Trương Nhất Bình lắc đầu, nói:
“Ta quay lại căn nhà ấy là để điều tra dấu vết của kẻ địch để lại chứ không phải liều mạng với kẻ khác, hành tung càng bí mật càng tốt, nếu ngươi đi cùng với ta, không những chẳng có ích gì mà lại khiến cho ta phải phân tâm lo lắng cho ngươi, huống chi chuyện tìm tung tích của sư muội ngươi là điểm mấu chốt lớn nhất của chuyện này, còn quan trọng hơn cả việc quay về căn nhà đó nữa”.
Phương Triệu Nam biết ông ta võ công cao cường, danh lừng đại Nam giang Bắc, các nhân vật trong chốn lục lâm nghe tên thì đã khiếp vía, mà võ công của mình so với người ta thì kém lắm, nếu cứ kiên quyết đòi đi chỉ e làm phiền ông ta mà thôi.
Chàng hơi trầm ngâm rồi lại chép miệng:
“Nếu lão tiền bối đã nói như thế, vãn bối không tiện giữ lấy ngu kiến nữa, nhưng trước đất mênh mông, hành tung sư muội của vãn bối ở đâu, vãn bối làm sao đi tìm đây?”.
Trương Nhất Bình thò tay vào trong lòng, lấy ra một đồng tiền vàng búng mặt sắt như dao nói:
“Ngươi hãy mang đồng tiền vàng này lập tức đến bãi Triều Dương ở Bão Mục Cương tại miền Nam Lỗ, tìm gặp Tụ Thủ Tiều Ẩn Sử Mưu Độn, nếu hắn ta không chịu gặp, ngươi hãy đưa ra đồng tiền này. Hắn ta nhận lấy đồng tiền vàng này chắc chắn sẽ hỏi ngươi chuyện gì cần giúp, lúc đó ngàn vạn lần đừng bảo hắn ta giúp ngươi tìm sư muội, chỉ bảo rằng chủ cũ của đồng tiền này chưa đến, vãn bối phụng lệnh đến đây trước tiên thông báo cho Sử tiền bối một tiếng. Mặc cho hắn ta mỉa mai ngươi thế nào, ngươi cũng phải ráng nhịn, không được đốp chát trở lại, nếu sau khi hắn ta trả lại đồng tiền cho ngươi thì hãy nhắc đến chuyện tìm sư muội của ngươi.
Chuyện này quan hệ lớn lao, không phải chuyện đùa, ngươi cần phải kiên nhẫn, ráng chịu đựng những lời mỉa mai của hắn ta, nếu không một khi sai lầm, không những ngươi không thể nào gặp mặt sư muội của ngươi mà còn phá vỡ kế hoạch toàn cuộc của ta”.
Phương Triệu Nam nghe mà chỉ nhíu mày, mặt ngơ ngác, nhưng thấy Trương Nhất Bình nói năng thận trọng lạ thường, chỉ đành thuận miệng đáp:
“Nếu quả thật có thể tìm được tiểu sư muội, báo thù giùm cho sư phụ, vãn bối dù có bị y đánh mắng cũng không hề trả đòn”.
Trương Nhất Bình chép miệng:
“Tụ Thủ Tiều Ẩn là kẻ kỳ quái, chỉ cần nghe hai chữ Tụ Thủ thì đã biết y là kẻ thế nào, giờ đây thời gian quý như vàng bạc, ta không rảnh giải thích với ngươi nữa, có lẽ một hai ngày nữa ta sẽ đến Bão Mục Cương ...”.
Ông ta hơi lặng lẽ một lát rồi nói tiếp:
“Nếu trong vòng ba ngày mà ta vẫn chưa tới, ngươi hãy dùng đồng tiền này yêu cầu Tụ Thủ Tiều Ẩn hãy điều tra họ tên lai lịch của hung thủ đã giết chết vợ chồng sư phụ ngươi trong vòng ba tháng ...”.
Phương Triệu Nam vốn là người cực kỳ thông minh, đã hiểu được lời của Trương Nhất Bình, ông ta muốn cho chàng biết trong vòng ba ngày nếu không thể đến gặp mình thì chắc chắn đã chết trong tay kẻ khác, chôn thân tại hồ Đông Bình.
Chàng nói mà nước mắt rơi lả chả:
“Sư bá, nghĩa xông tận trời, vãn bối cảm phục vô cùng, món nợ máu của sư môn sâu như biển khơi, Phương Triệu Nam này nếu một ngày còn sống chắc chắn sẽ báo cho được thù này, dù cho máu rơi xương nát cũng không hề nuối tiếc ...”.
Trương Nhất Bình ngửa mặt nhìn trời, hào khí ngất trời, cười khà khà rồi nói:
“Dù cho gặp được kẻ địch, hắn ta cũng chưa chắc gì giữ được Trương Nhất Bình này ở hồ Đông Bình, hiền điệt hãy cứ yên tâm mà đi! Sau khi gặp sư muội của ngươi, trước tiên đừng cho ả biết chuyện sư phụ và sư mẫu của ngươi đã gặp nạn. Tụ Thủ Tiều Ẩn tính tình lạnh lùng, chưa bao giờ qua lại với người trong chốn võ lâm, đồng tiền vàng này tuy có thể khiến cho y nghe lời, hiền điệt vốn thông minh, lúc ấy hãy cứ liệu cơm mà gắp mắm, đừng lãng phí đồng tiền vàng này. Lão phu đã hết lời, ngươi hãy mau lên đường!”.
Phương Triệu Nam hơi trầm ngâm rồi cúi người xuống bái một lạy, nói:
“Vãn bối kính nhận lời dạy của sư bá”.
Nói xong rồi đề chân khí xoay người phóng thật nhanh.
Trương Nhất Bình nhìn theo bóng dáng Phương Triệu Nam dần dần xa khuất rồi mới thở dài, chậm rãi quay về đường cũ.
Phương Triệu Nam chạy một mạch cho đến chiều thì đến một trấn nhỏ.
Chàng cảm thấy bụng đói meo, rất khó chịu, té ra chàng gấp lên đường cho nên đã một ngày một đêm không có thứ gì vào bụng. Ngẩng đầu lên nhìn thấy ở gần đó có một quán ăn. Phương Triệu Nam chậm rãi bước vào trong quán, trong quán chỉ có ba cái bàn bát tiên cũ kỹ, đã có hai người khách ngồi đối diện nhau, đây là một căn quán nhỏ cho nên chỉ có một người làm phục vụ kiêm chưởng quỷ.
Sau khi vào quán, chàng lập tức kêu cơm rượu, chàng nào ngờ kêu cả buổi vẫn không thấy ai ra tiếp đón, trong lòng hơi bực bội, cao giọng quát:
“Trong quán có người không?”.
Mảnh rèm che ở cửa lay động, một cô gái tuổi khoảng mười lăm, mươi sáu, ăn mặc rách rưới, đầu thắt hai bím, dịu dàng trả lời:
“Gia gia của tôi đi chợ vẫn chưa về, hai vị khách đến trước đã gọi hết số cơm rượu còn lại”.
Phương Triệu Nam nghe cô gái trả lời cơm rượu đều đã không còn, bất giác lửa giận xông lên, đập bàn một cái, nói:
“Cơm rượu đã bán hết, tại sao không gỡ bảng hiệu xuống ...”.
Chợt nhớ lại mình là một đấng nam tử thân dài bảy thước mà lại nổi giận vô cớ với một cô gái quê mùa chẳng hiểu việc đời.
Thế rồi mới đổi mặt nói tiếp:
“Tại hạ đang gấp lên đường, đã một ngày một đêm chưa có gì vào bụng, nay cơm rượu đã hết, tại hạ cũng không thể cưỡng ép, vậy mong cô nương hãy cứ làm giùm cho tại hạ một vài món cho đỡ đói lòng, tại hạ sẽ trả cho nhiều tiền”.
Cô gái quê ấy tuy ăn mặt rách rưới nhưng lại rất bình tĩnh, thấy Phương Triệu Nam nổi giận mà vẫn không hề e sợ, chỉ lạnh lùng đứng một bên, mở to đôi mắt tròn xoe nhìn Phương Triệu Nam.
Vẻ bình tĩnh ung dung trông giống như con nhà quyền quý ấy thật không xứng với cách ăn mặc rách rưới của nàng.
Từ lúc Phương Triệu Nam nổi giận cho đến đổi mặt làm hòa, nàng vẫn lặng lẽ đứng ở đấy, không nói một lời.
Cho đến khi Phương Triệu Nam nói xong, nàng mới mỉm cười:
“Đại gia ăn mặc đẹp đẽ, oai phong lẫm liệt, rõ ràng là con nhà quyền quý, còn chúng tôi mở một quán nhỏ bên đường ở chốn quê mùa hoang vắng này, mỗi ngày tửu khách rất ít, cơm rượu phải chuẩn bị theo lượng, nay đã bán hết thì chẳng còn tí nào cả, còn chuyện thưởng tiền, xin thứ gái quê này không nhận được”.
Nàng nói mà không chậm không nhanh, nhã nhặn khéo léo, rõ ràng là một cô gái biết sách hiểu lễ, không biết tại sao lại ở chốn quê mùa hoang vắng này.
Phương Triệu Nam giật mình, chàng bất giác ngẩng đầu lên nhìn kỹ cô gái ấy.
Chỉ thấy nàng thân người mảnh khảnh, đôi mắt như vẽ, giữa hai môi là hàng răng trắng đều, chiếc mũi ngay ngắn, khuôn mặt xinh đẹp lạ thườn, chỉ có điều da hơi đen một tí, tuy tuổi tác vẫn còn nhỏ mà trông rất cao quý, nết cười hiện hết trên khuôn mặt, khiến cho ai nhìn cũng ưa.
Thế rồi mới ôm quyền nói:
“Cô nương ăn nói không tầm thường, chắc là cao nhân ẩn sâu không lộ, xin thứ cho tại hạ lúc nãy có lời mạo phạm”. Nói xong thì bước ra khỏi quán.
Chợt nghe giọng nói lảnh lót của cô gái ấy vang lên sau lưng:
“Công tử hãy chậm một bước”.
Phương Triệu Nam quay đầu nhìn lại, cô gái quê ấy đứng bên cửa quán mỉm cười nói:
“Tiết trời lạnh lẽo thế này mà công tử phải vội vàng lên đường, lúc này đã sắp tối, khí trời sẽ càng lạnh hơn, cứ đi nữa không xa sẽ là vùng núi. Công tử tuy là người có võ công, nhưng trong lúc tuyết phủ đầy trời, chim chóc hay thú rừng cũng đã trốn hết, muốn săn chúng e rằng khó được”.
Phương Triệu Nam giật mình, nhủ thầm:
“Sao cô ta lại có thể biết chuyện mình nghĩ trong lòng, lại có thể biết mình một thân mang đầy võ công”. Chàng không khỏi ngạc nhiên.
Cô gái quê ăn mặc rách rưới ấy lại mỉm cười, nói:
“Mời công tử hãy trở lại quán nghỉ ngơi một lát, gái quê sẽ nấu cho ngài ít thức ăn!”.
Phương Triệu Nam cảm thấy nàng thiếu nữ trước mặt mình không những ăn nói nhã nhặn mà cử chỉ cũng gây bất ngờ cho người ta, trong lòng vừa kính phục vừa cảm thấy sợ hãi, tuy toan từ chối nhưng lại cảm thấy khó nén được cơn đói, chỉ hơi trầm ngâm rồi lại bước trở vào trong quán.
Chỉ thấy hai kẻ đang ngồi đối diện nhau không hề động đậy, trong lòng chàng dâng lên nỗi nghi ngờ, định thần nhìn lại thì chàng kinh hoảng đến nỗi đứng đờ ra ở đấy.
Té ra hai kẻ ấy đã bị người ta điểm huyệt, vì lúc này bụng đói cồn cào, vừa vào quán thì đã kêu rượu thịt, không hề để ý đến hai kẻ ấy, cho nên cũng thầm hổ thẹn.
Cô gái quê ăn mặc rách rưới ấy tựa như đã hiểu vì sao Phương Triệu Nam lại ngạc nhiên, nàng mỉm cười:
“Nếu công tử không ngại, chi bằng cứ lấy rượu thịt của hai vị khách này ăn trước. May mà họ vẫn chưa động đũa”.
Nói ra thì nghe rất nhẹ nhàng, vẻ mặt không hề lo lắng, điều đó càng khiến cho Phương Triệu Nam kinh hoảng hơn, chàng nhíu mày nói:
“Tấm thịnh tình của cô nương tại hạ xin lãnh nhận, rượu thịt là của người ta, tại hạ sao có thể giành được”.
Cô gái quê ấy mỉm cười, nói:
“Nếu công tử không dùng thứ của người ta, vậy hãy đợi một lát, gái quê sẽ vào trong nấu ít đồ ăn”.
Nói xong thì nhẹ nhàng giở rèm bước vào trong.
Phương Triệu Nam nhân cơ hội quan sát căn tiệm này, căn tiệm rộng không quá ba gian, ở giữa dùng một tấm ván che lại, sát vách có một cửa nhỏ, trên cửa treo rèm màu lam khó nhìn vào trong được.
Bên ngoài có ba cái bàn và mười mấy cái ghế thì không thấy thứ gì nữa, chẳng hề có chỗ nào đáng nghi.
Chàng thắc mắc trong lòng, tự nhủ:
“Ở nơi hoang vắng thế này có bao nhiêu người khách qua đường, nếu bảo trong căn tiệm này là một hắc điếm giết người cướp của, thật sự không giống, còn cô gái quê này thật khiến cho người ta cảm thấy cao thâm khó đoán ...”.
Đang lúc suy nghĩ thì cô gái ấy lại vén rèm bước ra, trong tay bưng một rổ mười mấy quả trứng gà đã chín, mỉm cười:
“Quán nhỏ nơi chốn quê mùa không có gì đãi khách, mười quả trứng gà luộc chín này mời công tử hãy dùng cho đỡ đói!”.
Phương Triệu Nam vốn muốn rời khỏi đây cho nên cũng không chối từ, hai tay nhận lấy rổ trứng gà, thò vào trong lòng lấy ra một đỉnh bạc, đặt ở trên bàn cười rằng:
“Một chút tâm ý mong cô nương hãy nhận lấy”.
Cô gái quê ăn mặc rách rưới ấy không thèm nhìn đến đỉnh bạc, đáp rằng:
“Mười quả trứng gà đâu có bao nhiêu, làm sao có thể nhận lấy món tiền lớn này của công tử”.
Phương Triệu Nam nói:
“Người ta đang lúc đói thì một bát cơm cũng không thể tính được, đỉnh bạc nhỏ này chẳng qua chỉ là một chút lòng thành”.
Vừa nói thì người đã lách ra khỏi quán. Chạy thẳng về phía trước không hề quay đầu lại.
Chạy một mạch hơn mười dặm đường thì chàng mới bước chậm lại, đưa mắt nhìn cảnh vật xung quanh.
Đã đến lúc lên đèn, chàng ngẩng đầu lên nhìn, trong bóng tối ẩn hiện núi non lô nhô, chàng đã chạy vào trong vùng rừng núi.
Phương Triệu Nam ngẩng đầu nhìn trời thở dài một hơi rồi lấy trứng ra dùng.
Trong khoảng khắc chàng đã ăn hết mười quả trứng gà, ăn xong chàng ngồi xếp bằng dưới tuyết, nhắm mắt điều hòa hơi thở, đợi đến khi cơn mệt nhọc đã qua thì mới đứng dậy, nhìn rõ phương hướng rồi leo lên núi. Đi được khoảng nửa canh giờ, thế núi bắt đầu hiểm trở, ngước mắt lên toàn là đỉnh núi nhấp nhô, nhìn xuống thì vực sâu chắn ngang, tuyết lớn bịt lối, cả một con đường nhỏ lên núi cũng chẳng tìm ra.
Phương Triệu Nam tuy là người mang đầy võ công, lúc này đã có cảm giác nửa bước khó đi, chàng rút kiếm vạch đường, mạo hiểm trèo lên, tuy đêm lạnh rét căm căm, nhưng chàng đã đổ mồ hôi đầy người, đúng là mỗi bước đều nguy hiểm.
Đi mãi cho đến canh năm trời hững sáng thì mới đến được dưới chân Bão Mục Cương, ngẩng đầu lên nhìn, núi cao trọc trời, vách dựng thẳng đứng, chàng suốt đêm đi không nghỉ cho nên người đã mệt nhoài, tự biết khó có thể tiếp tục mà leo trèo nữa, chỉ đành tìm một tảng đá chắn gió rồi ngồi xếp bằng vận khí điều tức, định đến khi trời sáng hẳn mới leo núi nữa.
Nào ngờ mệt mỏi quá độ, cho nên bất giác đã dựa vào tảng đá mà ngủ thiếp đi, đến khi tỉnh dậy thì mặt trời đã lên ba ngọn sào, chỉ cảm thấy toàn thân lạnh buốt, chân tay tê cóng.
Chàng đề tụ chân khí, vận công, để cho máu huyết chảy đều, rồi lại tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Chàng đã được Trương Nhất Bình chỉ điểm, cho biết vị trí của bãi Triều Dương, đó là một tảng nham thạch ở giữa lưng chừng núi, không những địa thế hiểm yếu mà đã được người ta đục đẽo thành một cây trụ đá.
Nếu không được Tụ Thủ Tiều Ẩn cho phép, hiếm có người nào có thể vượt qua nơi này.
Chàng cứ đi theo hướng Trương Nhất Bình đã chỉ tìm đến bãi Triều Dương.
Chàng đưa mắt nhìn ra xa, ở giữa vách núi dựng đứng có một tảng đá rộng khoảng sáu, bảy trượng, con đường nhỏ dẫn lên tảng đá ấy đã bị người ta phá hỏng, chỉ có vài cây trụ đá có thể đặt chân bước qua.
Phương Triệu Nam nhìn những cây trụ đá ấy, chúng cách nhau khoảng bảy thước đến một trượng, bên dưới là vực sâu, chỉ cần sơ ý đặt chân không chính xác, rơi xuống sẽ thịt nát xương tan.
Chàng đoán khinh công của mình có thể vượt qua được, thế rồi đề chân khí lên đan điền, cao giọng kêu lớn:
“Vãn bối Phương Triệu Nam có chuyện cầu kiến Sử lão tiền bối, mong tiền bối ban cho duyên gặp mặt”.
Nói chưa xong thì người đã phóng lên cao đến bảy, tám thước, chàng hạ eo vung tay, lướt xéo xuống, hạ chân ở trên cây trụ đá thứ nhất.
Cuối đầu nhìn xuống, chàng thấy khe sâu không đáy, bất giác đầu váng mắt hoa, chàng vội vàng nhắm hai mắt đề chân khí dặm mạnh hai chân, người lại phóng lên, rồi hạ xuống trên cây trụ đá thứ hai.
Lần này đã có kinh nghiệm, chàng không cuối đầu nhìn xuống nữa, chỉ hơi điều hòa hơi thở, lập tức phóng lên cây trụ đá thứ ba, phóng liên tục tám lần như thế, số trụ đá cũng đã hết.
Nhưng nơi chàng đứng cách tảng đá lớn ấy còn khoảng ba, bốn trượng, chàng đoán rằng khinh công của mình không thể nào vượt qua được ba trượng như thế, trong lòng không khỏi rầu rỉ.
Đang lúc ấy, chợt nghe một giọng nói lạnh như băng truyền vào trong tai:
“Sư phụ của ta không muốn gặp ai cả, hai mươi năm nay chưa từng qua lại với đồng đạo võ lâm, ngươi hãy cứ quay về đi thôi!”.
Phương Triệu Nam định thần nhìn lại, chỉ thấy một đại hán mặt đen tuổi khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu, người mặc bộ y phục vải lam, đứng trên tảng đá đối diện, hai mắt hấp háy, nhìn thẳng vào mình, mặt lạnh lùng kiêu ngạo.
Lâm vào tình thế này, Phương Triệu Nam đành phải cố nén cơn giận, ôm quyền vái một lễ, cười rằng:
“Phương Triệu Nam có chuyện hệ trọng cần gặp Sử lão tiền bối, mong huynh đài thông báo giùm, tại hạ cảm kích vô cùng! ' Đại hán ấy ngửa mặt cười lớn nói:
“Tại hạ bình sinh chưa bao giờ gặp một nam nhân lắm lời như ngươi, có điều dù ngươi có nói ra gia sư cũng không gặp, nếu ngươi không tin thì hãy đứng trên trụ đá ấy chờ tám ngày mười ngày xem thử”. Nói xong thì xoay người chậm rãi bước đi.
Phương Triệu Nam lo lắng, quát lớn một tiếng:
“Đứng lại!”.
Đại hán mặt đen ấy nghe thế thì ngừng lại, xoay người rồi giận dữ nói:
“Nam tử hán đại trượng phu cứ lắm lời như thế chẳng phải mắt thể diện lắm ư?”.
Phương Triệu Nam thò tay vào trong lòng, lấy ra đồng tiền mà Trương Nhất Bình đã tra cho, giơ cao trong tay nói:
“Huynh đài có nhận ra vật trong tay của tại hạ không?”.
Đại hán ấy nhìn kỹ thì sắc mặt đột nhiên giãn ra, cười rằng:
“Ngươi đã mang theo đồng tiền đòi ơn của sư phụ ta, tại sao không sớm lấy ra? Đến nỗi tại hạ phải buông lời đắc tội”.
Đang nói thì tay phải thò vào trong lòng rút ra một sợi dây, y buông tay một cái ném thẳng về phía Phương Triệu Nam, thủ pháp rất chính xác, sợi dây đã phóng tới trước người Phương Triệu Nam một thước.
Phương Triệu Nam đưa tay phải chụp lấy sợi dây thừng, lòng hủ thầm:
“Không biết y muốn mình vượt qua như thế nào, chả lẽ mình phải chụp đầu sợi dây thừng rồi đu qua hay sao?”.
Đại hán mặt đen ấy cười nói:
“Nếu huynh đài tin tưởng tại hạ thì hay chụp sợi dây thừng này rồi phóng người qua, nếu huynh đài không tin tưởng thì hãy cột một đầu dây thừng lên trụ đá rồi tự thi triển công phu Thảo thượng phi hành mà qua đây”.
Phương Triệu Nam cười lớn:
“Huynh đệ có thể tin tưởng huynh đài”.
Rồi chàng ngầm đề chân khí, hai tay nắm chặt sợi dây thừng tung người vọt khỏi trụ đá, treo người lơ lưng lên sợi dây lướt qua, chỉ thấy gió lạnh phả vào mặt, thế lao tới nhanh cùng cực, trong chớp mắt đã đến vách đá đối diện.
Chàng đã sớm vận khí chuẩn bị, khi người sắp lao vào vách đá, chân trái chàng vươn ra, hít chân khí lên đan điền, mũi chân điểm nhẹ vào vách đá, thân người đang lao tới bỗng ngừng lại ở nơi vách đá.
Khi Phương Triệu Nam đang đu người lơ lửng ở vách đá thì đột nhiên cảm thấy toàn thân bổng lên, trong chớp mắt đã lên tới tảng đá đối diện.
Đại hán mặt đen thu sợi dây thừng lại cười nói:
“Huynh đài đang mang đồng tiền đòi ơn của gia sư, chắc là đã biết quy củ cầu kiến gia sư”. Nói xong rồi đưa tay:
“Chắp tay lại”.
Phương Triệu Nam nghe thế thì ngẩn ra, nhưng chàng rốt cuộc cũng là người thông minh dị thường, chỉ hơi trầm ngâm thì lập tức nói:
“Đồng tiền đòi ơn này của Sử lão tiền bối là vật quý giá vô cùng trong võ lâm, huynh đệ muốn đích thân trao cho Sử lão tiền bối”.
Đại hán mặt đen ấy nhíu mày nói:
“Gia sư đang tọa tức, nếu huynh đài muốn gặp người chỉ e phải đợi đến giờ ngọ”.
Phương Triệu Nam ngẩng đầu nhìn sắc trời, lúc này chỉ mới cuối giờ thìn, còn hai canh giờ nữa mới đến giờ ngọ, trong lòng lo lắng, thở dài:
“Huynh đệ quả thực có chuyện gấp gáp, cần gặp mặt Sử lão tiền bối, mong huynh đài có thể giúp cho, huynh đệ cảm kích không nguôi”.
Nói xong thì vái dài một cái.
Đại hán mặt đen ấy trầm ngâm một hồi rồi nói:
“Thôi được! Tại hạ sẽ bẩm báo giúp cho huynh đài một tiếng, có thể gặp sớm được hay không là do sự may mắn của huynh đài”.
Nói xong thì xoay người bước vào căn nhà cỏ ở vách núi. Một lát sau đại hán mặt đen ấy chạy ra cười nói:
“Huynh đài quả thật may mắn, gia sư đã phá lệ”.
Phương Triệu Nam ôm quyền vái một lễ:
“Đa tạ huynh đài đã giúp đỡ, xin hỏi quý tính đại danh?”.
Đại hán mặt đen ấy cười:
“Tiện tính của huynh đệ là Thịnh, thảo tự là Kim Ba”.
Phương Triệu Nam nói:
“Chắc Thịnh huynh đệ đã được Sử lão tiền bối truyền cho tuyệt học, ngày sau ra chốn giang hồ chắc chắn sẽ là bậc kỳ tài trong võ lâm”.
Kim Thịnh Ba cười nói:
“Gia sư tính tình đạm bạc, không muốn tranh bá giang hồ với kẻ khác, ẩn cư tại nơi Bão Mục Cương, đóng cửa không tiếp khách. Huynh đệ tuy không thanh cao khí tiết như gia sư, nhưng cũng không có lòng cầu mong danh lợi, Phương huynh quá khen như thế, huynh đệ không dám nhận”.
Hai người đang nói chuyện thì đã đến cửa nhà cỏ, Phương Triệu Nam sửa sang quần áo, đi theo Thịnh Kim Ba, bước vào cửa tre đi thẳng đến sảnh đường.
Ở đó có một ông già gầy gò khô đét, nhưng trông hãy còn quắc thước lắm, ông ta ngồi trên một cái ghế gỗ, người mặc bộ y phục màu xanh, ở eo có sợi đai bằng cỏ, bộ mặt trông có vẻ lạnh lùng kiêu ngạo, không thèm nhìn hai người.
Phương Triệu Nam sửa sang quần áo rồi vái dài, ôm quyền quá đỉnh đầu nói:
“Vãn bối Phương Triệu Nam, khấu đầu thỉnh an Sử lão tiền bối”.
Ông ta chỉ lạnh lùng hừ một tiếng rồi nói:
“Lão phu bình sinh không nói chuyện với người không có liên quan, trước tiên hãy đưa đồng tiền đòi ơn ra để lão phu xem qua thì ngươi nói tiếp cũng chẳng muộn”.
Phương Triệu Nam hơi giật mình, nhủ thầm:
“Kẻ này thật là kiêu ngạo!” rồi thò tay vào trong lòng, lấy ra đồng tiền đặt trên hai tay.
Sử Mưu Độn chậm rãi đưa tay đặt đồng tiền, nhìn một hồi thì lắc đầu chép miệng:
“Đây là món nợ ân tình cuối cùng của lão phu, sau khi trả xong, trên đời này chẳng có chuyện lão phu phải lo nữa, ngươi hãy nói đi! Có chuyện gì cần ta giúp đỡ?”.
Phương Triệu Nam thấy ông ta đã xem xong đồng tiền, không hỏi lai lịch thì nhủ thầm:
“Cái ngoại hiệu Tụ Thủ Tiều Ẩn này quả là danh bất hư truyền, nhìn bộ dạng ông ta, có lẽ bất cứ chuyện thê thảm gì trên đời cũng không thể nào khiến ông ta động lòng trắc ẩn, hai chữ Tụ Thủ này thật sự không hổ danh”.
Lòng tuy nghĩ như thế nhưng miệng thì cung kính đáp:
“Chủ cũ của đồng tiền này vì có chút chuyện nên chưa kịp đến, vãn bối chỉ là phụng lệnh đến trước bẩm báo cho lão tiền bối một tiếng”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn sầm mặt, lạnh lùng nói:
“Ai sai ngươi đến đây? Nói mau! Lão phu vì mấy đồng tiền đòi ơn này mà đã ở bãi Triều Dương hai mươi mùa ấm lạnh, nếu hôm nay không thể nói ra chuyện cần ta giúp đỡ thì đừng hòng rời khỏi chốn này”.
Phương Triệu Nam cảm thấy kẻ này ngạo mạn, không hiểu tình lý, nhưng bề ngoài vẫn giữ bình tĩnh, cười rằng:
“Lão tiền bối danh lừng khắp chốn, trong cõi võ lâm hiện nay ai mà không kính ngưỡng ...”.
Tụ Thủ Tiều Ẩn giận dữ nói:
“Đừng nói vớ vẩn, hiện nay trên giang hồ kẻ biết lão phu chỉ đếm trên đầu ngón tay, hừ! Tuổi nhỏ như thế mà đã bẻm mép”.
Phương Triệu Nam nhớ kỹ lời Trương Nhất Bình dặn dò, tuy bị trách mắng, nhưng không thèm để ý, chỉ mỉm cười nói tiếp:
“Sử lão tiền bối võ công tuyệt thế, chí hành thanh cao, không chịu qua lại với người trong giang hồ, đương nhiên những kẻ sinh sau đẻ muộn rất ít người biết đến đại danh của tiền bối”.
Sử Mưu Độn nhướng mày, ánh mắt như điện, nhìn thẳng vào Phương Triệu Nam quát:
“Lão phu bình sinh không thích người bẻm mép, nếu có chuyện cần ta giúp đỡ thì hãy mau nói ra, còn nếu như cứ chần chừ thì đừng trách lão phu trở mặt vô tình, ra tay giết người”.
Phương Triệu Nam thấy ông ta ăn nói dữ dằn, cơn giận trong lòng bốc lên, định cự cãi trở lại.
Chợt nhớ lại tình cảnh sư môn gặp thảm biến, tự trách rằng:<
/58
|