Grobalki thấy mất cả ngon. Gã đẩy đĩa bánh mì và xúc xích sang một bên, làm một ngụm bia lớn cho tỉnh táo.
Bọn mất dạy, cả lão chủ quán láo xược nữa. Té ra đám trẻ định đi đến nhà Holmann, kẻ thù không đội chung trời với y, kẻ mà thời gian tới y sẽ xin tí huyết.
Gã xách va-li đi ra. Dáng đi bất cần đời như một con sói thông thuộc mọi địa hình địa thế trong vùng. Mà thật vậy, hồi xa xưa gã từng sống ở đây. Chỉ vì xui mà gã lãnh án tù tám năm và mới được trả tự do vào cuối tuần trước. Gã về đây chỉ để trả thù bác sĩ Holmann. Gã hận ông bác sĩ này từ khi phải vào nhà đá.
Có điều bây giờ không phải là lúc giải thích. Bây giờ phải gậm nhấm nỗi hả hê với chiến tích bất ngờ vừa đạt được. Hà hà, tên làm chứng Mair-Chateaufort đã bị ta hạ gục ở trên tàu tốc hành. Không hiểu nổi trời xui đất khiến thế nào mà vừa sổ lồng thót lên tàu về tìm kẻ thù lại được kẻ thù lù lù mò đến nộp mạng. Rõ ràng là luật vay trả. Chính mày, mày đã cả gan ra trước tòa làm nhân chứng buộc tội tao. Mày bể sọ là phải.
Grobalki đắc chí thò tay vào túi quần. Con chó lửa vẫn còn đó. Cảm ơn mày, súng ạ. Nhờ mày, tao đã nện được thằng Mair-Chateaufort một đòn cực mạnh.
Vậy là xong một khoản, Mair-Chateaufort. Tao với mày không nợ nần gì nhau nữa.
Grobalki thả gót giày xuống lộ Kaiser. Khi lướt ngang cổng nhà in tờ báo địa phương, gã nhìn thấy một phụ nữ trẻ đẹp đang lục lọi cái gì đó trong túi xách màu vàng. Mẹ kiếp, cô ả kia hình như quen lắm. Thôi chết rồi, hồi nãy mình gặp ả trên tàu và thấy rất rõ ả bị mù cơ mà. Gã dừng chân, nhìn người phụ nữ trừng trừng:
- Xin lỗi cô, nếu tôi không lầm thì cô đã từng xử sự như một người mù trên tàu tốc hành Alpen.
Người phụ nữ trẻ chính là Susi. Cô mỉm cười:
- Ông nói đúng. Tôi là phóng viên báo tỉnh và nhập vai kẻ khiếm thị để thực hiện nghề nghiệp riêng.
- Thì ra thế. Cô định trắc nghiệm thái độ thiên hạ đối với người tàn tật à?
- Đại khái như vậy.
Susi không ưa gì khuôn mặt gã đàn ông lạ mặt. Cô gật đầu chào rồi bỏ đi một mạch.
Grobalki nhìn theo cô, gã đổi chiếc va-li sang tay khác rồi triết lí:
- Đến người mù cũng không tin được.
Gã ngoặt liền vào ngõ Schreber. Một ngõ cùng tuổi với thị xã, tồn tại từ sáu trăm năm nay. Gã vừa đi vừa tìm số nhà. Đúng địa chỉ nó viết cho gã.
Grobalki bấm chuông ngôi nhà tàn tạ ở sát ngã tư. Một lúc sau có tiếng động ở tầng trên. Một bà già tóc bạc trắng, da mặt nhăn nheo thò hẳn đầu ra cửa sổ:
- Ai đó?
- Xin chào cụ Flinkfinger. Otvan nhờ cháu tới nhắn tin cho cụ.
- Ông là cảnh sát hay sao mà biết thằng Otvan nhà tôi chứ?
- Ngược lại đấy cụ ơi. Cháu là thằng chiến hữu của con trai cụ mà.
- Cổ thằng Otvan có mấy nốt ruồi?
- Sáu cái tất cả. Hai bên phải, bốn bên trái. Trong đó có một nốt rất bự.
Bà già biến mất. Hú vía, Grobalki cứ tưởng mụ già sẽ lộn cổ xuống đường và gã sẽ phải đỡ mụ ta.
Cánh cửa tầng dưới mở ra. Bà lão mẹ của chiến hữu Otvan đứng trước cửa, khoác khăn choàng màu đen.
- Ông tên gì?
- Cháu tên Heinrich Grobalki.
- Vô nhà đi. Otvan có nhắc tới anh trong thư. Hai người ở với nhau bao nhiêu lâu?
- Hai năm, thưa bác. Hai năm vừa rồi hai đứa cháu bị giam chung phòng. Otvan “kết” cháu lắm. Cháu được tha trước nó một tuần. Để cháu tính nhẩm xem, ơ… chiều mai Otvan về đến nhà rồi. Nó có dặn nếu báo tin cho bác thì cứ yên trí ở nhờ nhà bác.
- Đúng. Trên gác còn một cái ghế xô-pha. Anh ngủ trên đó nhưng cấm rớ đến rượu cô-nhăc của tôi.
- Tất nhiên rồi, bác Alma ạ.
- Đừng láu cá nữa. Tôi không ưa nịnh. Lên tầng trên đi.
Bà già đưa gã vô một căn buồng đầy bụi bặm và mạng nhện. Có lẽ mạng nhện là vật trang trí nội thất duy nhất của căn buồng.
Grobalki đặt va-li xuống sàn, mở nắp và lôi chai cô-nhăc ra.
- Cháu mới mua ở nhà ga đây, tuyệt lắm. Bác dùng với cháu một li nhé?
- Hi hi, uống chớ sao gì nữa. Otvan khéo chọn bạn đó. Nào, xuống phòng tôi. Bên dưới có đồ nhậu.
Ực một hơi hết li rượu, mụ già bắt đầu:
- Hẳn anh đã nghe danh ông nhà tôi, hiện ông ấy an nghỉ ngoài nghĩa địa, nhưng lúc còn sinh tiền vốn là một tay ăn trộm cự phách nhất nước Áo đấy. Tay nghề ông nhà tôi siêu đến mức không có loại két sắt nào ông ta không mở được. Dân trong làng chôm chỉa gọi Poldi là Vua Mở Két mà. Đám anh chị trong thế giới ngầm xác định ông nhà tôi dính tới 212 vụ trộm trước khi bị… “múm”. Hi hi, bọn đầu gấu tính sai bét, trên thực tế Poldi đã xử tròn 500 vụ. Tôi còn nhớ hôm thực hiện vụ thứ 500, vợ chồng tôi còn làm lễ ăn mừng nữa kìa. Hồi đó cả hội kéo tới khách sạn “Hoàng Đế Franz Josef”. Ông nhà tôi thuê trọn gói một dàn kèn đồng cực kì rôm rả. Ôi, tối hôm đó rượu sâm-panh tràn thả cửa.
- Nào, cụng li đã bác Alma. Chúng ta cầu chúc bác trai…
- E… hèm, chỉ tiếc hùi hụi là thằng Otvan không đủ tầm cỡ như bố nó. Nó cũng cố gắng vớt vát thể diện gia đình bằng một số phi vụ, nhưng xét cho cùng, còn khuya mới có tên tuổi trong lịch sử ngành hình sự như Poldi.
Grobalki nhếch mép. Gã chuốc rượu cho mụ già đầy ắp. Mẹ kiếp, mụ cần phải phun ra thủ đoạn tuyệt vời của thằng Otvan đã. Mụ chưa biết ý đồ của ta đâu. Chuyến trở về “mái nhà xưa” lần này của gã đâu phải chỉ thuần túy “thịt” lão Holmann, mà cái chính là moi được một vài bí mật từ vụ đánh quả lớn của thằng bạn tù ranh mãnh.
- Bác Alma à, nghiệp vụ Otvan không có yếu như bác tưởng đâu. Cháu thấy nó giỏi lắm.
- Nhằm nhò gì với ông bố Vua Mở Két. Cảnh sát đã chứng minh được nó tham gia mười bốn vụ và lấy được dấu vân tay của nó. Vì thế nó phải ngồi tù năm năm. Nó dại quá, sao nó lại không đi găng tay kia chứ?
- Bác không biết đó thôi. Trong nhà giam, cháu đã bàn với Otvan rằng khi ra tù, hai thằng sẽ làm việc với nhau. Nhưng Otvan láu cá lắm. Nó không chịu ngửa bài với cháu. Nó chỉ nhận đã thực hiện mười bốn vụ. Còn vụ thứ mười lăm thì nó nhất định không nhận.
- Anh tính nói vụ đột nhập nhà mụ Pauline Mehrfelder chớ gì, Otvan có làm đâu mà chẳng lắc đầu. Nhưng nó không có bằng chứng ngoại phạm. Chẳng qua là rủi ro thôi. Mà chuyện xảy ra đã năm năm rồi còn gì. Tôi biết thằng con tôi. Nó không bao giờ đánh quả mà giấu tôi. Khoản châu báu mụ Pauline bị mất trị giá tới một triệu mark chứ ít đâu.
Grobalki cạn li cô-nhăc thứ tư và cảm thấy nóng rực cả người. Gã nhếch mép cười nham hiểm. Trong tù, chỉ độc nhất mình gã biết tỏng thằng Otvan đã “chơi” vụ này. Nó đã phun ra khi ngủ mê. Trong cơn ác mộng, nó bị ám ảnh bởi đống của cải to lớn chiếm đoạt được đến nỗi lải nhải không thành tiếng : “vàng bạc… châu báu… ta sẽ bán… không ai hay… giàu sụ…” còn của được giấu ở đâu thì tuyệt nhiên nó không nói tới.
Grobalki nghĩ thầm: Tao sẽ phỗng tay trên của mày Otvan ạ, phỗng cùng lúc với việc trả thù thằng già bác sĩ Holmann. Làm xong hai vụ, tao sẽ biến vĩnh viễn và không ai biết tao ở đâu.
Gã rót thêm rượu mời mụ già. Đúng lúc đó tiếng chuông cửa vang lên.
*
Tứ quái vẫy ta-xi đến nhà bác sĩ Holmann. Trời càng lúc càng tối. Hương đồng cỏ nội bay vào trong xe ngây ngất. Người tài xế chỉ tay về một ngôi nhà mờ mờ:
- Từ đây bắt đầu tới khu thung lũng Mittelriss. Kia là nhà bà Pauline Mehrfelder, bà ta là người rất giàu có. Bà ấy chỉ chơi thân với một mình ông thầy thuốc Holmann, người ta kháo rằng ông Holmann chỉ ngán bà Pauline thôi.
Tarzan tò mò:
- Đèn đuốc nhà bà ta sáng trưng. Dám bà Pauline có ở nhà?
- Chưa chắc. Bà ta vốn có thói quen để đèn sáng như vậy. Nghi binh mà. Bà ta không muốn bị kẻ gian viếng thăm một lần nữa. Cách đây năm năm, ngày mười bảy tháng bảy, bọn trộm đã rinh một đống vàng bạc châu báu trị giá tới một triệu đồng của bà.
- Thế bà ấy để tiền ở trong két ạ?
- Chẳng hiểu. Nhưng có điều bà ta đãng trí lắm. Ra đường bà ta còn xỏ mỗi chân một chiếc giày khác nhau và mua hàng còn quên trả tiền thì hỏi sao bọn lưu manh không khai thác nhược điểm này. Mà hôm đó không riêng gì bà Pauline lú lẫn, bữa đó có mấy nhà cũng bị bọn trộm ghé thăm đó.
- Trời đât. Không có ai ở nhà hôm đó hay sao ạ?
- Chứ sao. Hôm đó là ngày hội đồng quê mà. Ai cũng khóa cửa đi vui vẻ hết.
- Chẳng lẽ các nạn nhân không nghi ngờ ai sao?
- Có chớ. Thằng Otvan Flinkfinger bị bắt ngay hôm đó và tới nay vẫn còn ngồi tù. Nó là con trai của Vua Mở Két nước Áo đấy. Hình như vài ngày nữa, Otvan đã mãn hạn tù.
- Hung thủ có nhận tội không anh?
- Không. Nhưng tòa chiểu theo tất cả các tình tiết tại hiện trường vẫn quyết định lên án nó. Hiện giờ người ta vẫn chưa tìm ra đống của cải bị mất, ái chà, đống của biệt tích suốt năm năm.
Xe ta-xi dừng lại trước một trang trại. Tròn Vo móc tiền Áo đã chuẩn bị từ trước ra trả. Cả bọn cảm ơn người lái xe nhiệt tình và từ biệt anh.
Tứ quái đã đứng trước cổng. Tarzan đang sẵn sàng ở tư thế ấn chuông thì cửa mở. Một người đàn bà lớn tuổi bước ra:
- Cháu là Willi phải không? Vô đi. Dượng Holmann chờ cháu đã lâu. Dượng không ưa những ai thất hẹn.
Bà chìa tay về phía Tarzan. Các ngón tay đều đeo nhẫn. Tarzan bắt tay bà, hắn nói:
- Cháu là Tarzan bạn của Willi. Ba chúng cháu cùng đi với bạn ấy.
Bà nhìn chúng cười niềm nở:
- Ồ, đừng sợ các cháu. Vô hết đi.
Tarzan giới thiệu từng bạn một với bà. Bà già quàng tay qua vai Gaby:
- Cách đây 60 năm bà cũng từng là một cô gái xinh đẹp như cháu đấy.
Tròn Vo “ga-lăng” liền:
- Dạ, bây giờ chúng cháu vẫn nhận ra vẻ đẹp xưa của bà.
- Thế hử. Cảm ơn cháu. Hãy gọi ta là Pauline nghe. Ta là bạn thân của dượng cháu đây. Hôm nay ông ấy mời ta đến đây để đón các cháu. Các cháu phải sửa soạn xin lỗi ông Holmann về việc đến trễ nhé.
Tarzan tức giận nghĩ, mình đang ở đâu thế này? Hắn nói:
- Tụi cháu không làm gì sai trái đến nỗi phải xin lỗi. Bạn Willi được mời đến chớ có phải tự đến đâu ạ. Đành rằng bạn cháu có báo trước về chuyến tàu tốc hành Alpen nhưng những gì xảy ra trên tàu thì chúng cháu có lường trước được đâu. Tụi cháu tính rằng nếu có gì… thì cả bốn đứa sẽ quay về Fasslift ngủ trọ.
Bà Pauuline cười rất tươi:
- Ta nghĩ tối nay sẽ rất vui. Ta cũng sẽ ở đây với các cháu.
Tứ quái cảm thấy nhẹ người. Bà già đã 70 tuổi mà còn rất trẻ trung và bà cũng không muốn để mọi người cảm thấy mình là một bà lão già nua.
Có tiếng đàn ông trầm trầm. vẻ khó chịu:
- Cái gì ở ngoài cửa thế bà Pauline? Ban đồng ca của bà đến rồi hở?
*
Mụ Alma liếm mấy giọt cô-nhăc bám trên thành li. Grobalki nói:
- Ồ, có ai bấm chuông cửa.
- Kệ mẹ nó. Anh rót thêm rượu ra đi.
- Vậy bác tự rót nhé, còn cháu ra ngoài đó coi ai tìm.
Gã đứng dậy và vọt qua hành lanh lần mò mãi mới thấy nút bấm điện. Hành lang bốc mùi gì chua chua khiếp. Nếu không vì mục đích tranh thủ tình cảm của mụ già thì gã đã cất chai cô-nhăc từ lâu.
Một người đàn ông to bè mặc bộ complê mùa hè màu sáng đứng chờ trước cửa. Chiếc cà-vạt kéo dài tới tận bụng. Trên khuôn mặt nghiêm nghị của ông ta nổi bật cặp kính trắng không viền. Ông ta nói:
- Chào ông. Tôi cần gặp bà Flinkfinger.
- Bà già đang ở trong nhà.
- Tôi là luật sư Posnickel. Rất tiếc là tôi đã làm phiền nhưng ngày mai tôi đã đi nghỉ phép rồi.
Grobalki niềm nở:
- Xin mời ngài luật sư vào trong.
Gã đi trước dẫn đường. Gã đã biết tên tuổi luật sư Posnickel qua lời kể của Otvan. Nhờ tài hùng biện của ông ta mà Otvan chỉ bị lĩnh án năm năm. Hồi đó chính báo chí đã bàn tán: không có Posnickel thì tội của Otvan phải mười năm tù mới đáng.
Viên luật sư ngửi thấy mùi rượu trước khi phát hiện chai cô-nhăc trên bàn. Grobalki líu lưỡi:
- Tôi là Groobbbbaalki… bạn thân của gia đình. Ông luật sư dùng với chúng tôi một li nhé.
- Được. Tôi xin một li.
Posnickel rút trong túi áo ngực một cuộn giấy và đằng hắng:
- Thưa bà, đáng lẽ là ngày mai hoặc mốt tôi mới giao cho con trai bà hồ sơ này, ừ… ừm, nhưng giờ chót vì bận quá nhiều công việc nên tôi muốn giải quyết sớm để còn kịp nghỉ phép.
Mụ Alma Flinkfinger ngớ ra:
- Hồ sơ nào vậy?
- Về một ngôi mộ.
- Ngôi mộ nào?
- Thưa bà, cách đây năm tuần con trai bà có mời tôi đến nhà tù. Số là trong tù, cậu ta có đặt báo “Tin tức Fasslift”, và qua báo cậu ấy biết nghĩa trang thị trấn đang trong tình trạng thiếu đất chôn người chết. Chính vì thế những ngôi mộ đã tồn tại trên ba mươi năm ở nghĩa trang phải bị bốc lên để nhường chỗ cho những kẻ vừa từ trần.
- Anh nói nghe ghê quá… Thằng con tôi còn sống sờ sờ ra đó còn tôi đã chết đâu.
Viên luật sư cười:
- Thế này thưa bà, trên báo có nói rằng những ngôi mộ sắp bị khai quật có thể được gia hạn thêm một đợt ba mươi năm nữa nếu thân nhân người chết chịu mua miếng đất đó với giá 3.000 mark.
Mụ già làu bàu:
- Rõ vớ vẩn, họ hàng tôi có ai chôn cất ở đó đâu. Ông nhà tôi chôn ở Watzelfuoc cơ mà…
- Tôi biết, nhưng cậu con Otvan của bà đã ủy nhiệm cho tôi mua đất một ngôi mộ của một người bạn thân thuộc diện khai quật. Cậu ta đã trả tiền đầy đủ cho tôi. Công việc được giải quyết xong và đây là hóa đơn thanh toán.
Mụ Alma rít lên:
- Thằng bé bị điên rồi. Nó chịu tốn kém như vậy để làm gì chớ? Thằng bạn nào vậy kìa?
- Cậu Otvan rất thương một người tên là Flappe.
- Flappe là lão mổ thịt súc vật trong làng. Lão đã toi cách đây 30 năm rồi.
- Con trai bà khẳng định với tôi rằng ông Flappe lúc còn sống là bạn tri kỉ của cậu ấy. Vì thế cậu thuộc phải giữ gìn kỉ niệm bằng cách chăm sóc phần mộ của ông.
- Láo toét, bịp bợm. Lão đồ tể Flappe ngoẻo lúc thằng Otvan mới lên bảy tuổi.
Viên luật sư nhún vai:
- Tôi chỉ cần hiểu cậu ấy muốn giữ phần mộ Flappe, có vậy.
Mụ già thẫn thờ:
- Thế mà tôi chẳng biết gì về chuyện đó cả.
Luật sư Posnickel nói:
- Thưa bà, tôi không có quyền can thiệp vào chuyện nội bộ gia đình thân chủ mình. Bà hãy cầm lấy các hóa đơn chứng từ. Xin chào.
Ông ta đứng dậy. Mụ già đờ đẫn như người mất trí.
Grobalki sốt sắng tiễn khách ra cửa, và không quên chúc ông có một kì nghỉ nhiều may mắn.
Gã muốn nhảy lên vì sung sướng.
Thật tuyệt vời! Không thể để cho mụ già biết. Thằng Otvan láu cá thật, nhưng vẫn thua ta. Ta sẽ cho nó trắng mắt ra, ta sẽ nẫng tay trên của nó. Toàn bộ châu báu lấy được nó đã khôn ngoan giấu trong ngôi mộ lão đồ tể. Ngay đêm nay ta sẽ đến đó và khuân đi bằng hết!
Bọn mất dạy, cả lão chủ quán láo xược nữa. Té ra đám trẻ định đi đến nhà Holmann, kẻ thù không đội chung trời với y, kẻ mà thời gian tới y sẽ xin tí huyết.
Gã xách va-li đi ra. Dáng đi bất cần đời như một con sói thông thuộc mọi địa hình địa thế trong vùng. Mà thật vậy, hồi xa xưa gã từng sống ở đây. Chỉ vì xui mà gã lãnh án tù tám năm và mới được trả tự do vào cuối tuần trước. Gã về đây chỉ để trả thù bác sĩ Holmann. Gã hận ông bác sĩ này từ khi phải vào nhà đá.
Có điều bây giờ không phải là lúc giải thích. Bây giờ phải gậm nhấm nỗi hả hê với chiến tích bất ngờ vừa đạt được. Hà hà, tên làm chứng Mair-Chateaufort đã bị ta hạ gục ở trên tàu tốc hành. Không hiểu nổi trời xui đất khiến thế nào mà vừa sổ lồng thót lên tàu về tìm kẻ thù lại được kẻ thù lù lù mò đến nộp mạng. Rõ ràng là luật vay trả. Chính mày, mày đã cả gan ra trước tòa làm nhân chứng buộc tội tao. Mày bể sọ là phải.
Grobalki đắc chí thò tay vào túi quần. Con chó lửa vẫn còn đó. Cảm ơn mày, súng ạ. Nhờ mày, tao đã nện được thằng Mair-Chateaufort một đòn cực mạnh.
Vậy là xong một khoản, Mair-Chateaufort. Tao với mày không nợ nần gì nhau nữa.
Grobalki thả gót giày xuống lộ Kaiser. Khi lướt ngang cổng nhà in tờ báo địa phương, gã nhìn thấy một phụ nữ trẻ đẹp đang lục lọi cái gì đó trong túi xách màu vàng. Mẹ kiếp, cô ả kia hình như quen lắm. Thôi chết rồi, hồi nãy mình gặp ả trên tàu và thấy rất rõ ả bị mù cơ mà. Gã dừng chân, nhìn người phụ nữ trừng trừng:
- Xin lỗi cô, nếu tôi không lầm thì cô đã từng xử sự như một người mù trên tàu tốc hành Alpen.
Người phụ nữ trẻ chính là Susi. Cô mỉm cười:
- Ông nói đúng. Tôi là phóng viên báo tỉnh và nhập vai kẻ khiếm thị để thực hiện nghề nghiệp riêng.
- Thì ra thế. Cô định trắc nghiệm thái độ thiên hạ đối với người tàn tật à?
- Đại khái như vậy.
Susi không ưa gì khuôn mặt gã đàn ông lạ mặt. Cô gật đầu chào rồi bỏ đi một mạch.
Grobalki nhìn theo cô, gã đổi chiếc va-li sang tay khác rồi triết lí:
- Đến người mù cũng không tin được.
Gã ngoặt liền vào ngõ Schreber. Một ngõ cùng tuổi với thị xã, tồn tại từ sáu trăm năm nay. Gã vừa đi vừa tìm số nhà. Đúng địa chỉ nó viết cho gã.
Grobalki bấm chuông ngôi nhà tàn tạ ở sát ngã tư. Một lúc sau có tiếng động ở tầng trên. Một bà già tóc bạc trắng, da mặt nhăn nheo thò hẳn đầu ra cửa sổ:
- Ai đó?
- Xin chào cụ Flinkfinger. Otvan nhờ cháu tới nhắn tin cho cụ.
- Ông là cảnh sát hay sao mà biết thằng Otvan nhà tôi chứ?
- Ngược lại đấy cụ ơi. Cháu là thằng chiến hữu của con trai cụ mà.
- Cổ thằng Otvan có mấy nốt ruồi?
- Sáu cái tất cả. Hai bên phải, bốn bên trái. Trong đó có một nốt rất bự.
Bà già biến mất. Hú vía, Grobalki cứ tưởng mụ già sẽ lộn cổ xuống đường và gã sẽ phải đỡ mụ ta.
Cánh cửa tầng dưới mở ra. Bà lão mẹ của chiến hữu Otvan đứng trước cửa, khoác khăn choàng màu đen.
- Ông tên gì?
- Cháu tên Heinrich Grobalki.
- Vô nhà đi. Otvan có nhắc tới anh trong thư. Hai người ở với nhau bao nhiêu lâu?
- Hai năm, thưa bác. Hai năm vừa rồi hai đứa cháu bị giam chung phòng. Otvan “kết” cháu lắm. Cháu được tha trước nó một tuần. Để cháu tính nhẩm xem, ơ… chiều mai Otvan về đến nhà rồi. Nó có dặn nếu báo tin cho bác thì cứ yên trí ở nhờ nhà bác.
- Đúng. Trên gác còn một cái ghế xô-pha. Anh ngủ trên đó nhưng cấm rớ đến rượu cô-nhăc của tôi.
- Tất nhiên rồi, bác Alma ạ.
- Đừng láu cá nữa. Tôi không ưa nịnh. Lên tầng trên đi.
Bà già đưa gã vô một căn buồng đầy bụi bặm và mạng nhện. Có lẽ mạng nhện là vật trang trí nội thất duy nhất của căn buồng.
Grobalki đặt va-li xuống sàn, mở nắp và lôi chai cô-nhăc ra.
- Cháu mới mua ở nhà ga đây, tuyệt lắm. Bác dùng với cháu một li nhé?
- Hi hi, uống chớ sao gì nữa. Otvan khéo chọn bạn đó. Nào, xuống phòng tôi. Bên dưới có đồ nhậu.
Ực một hơi hết li rượu, mụ già bắt đầu:
- Hẳn anh đã nghe danh ông nhà tôi, hiện ông ấy an nghỉ ngoài nghĩa địa, nhưng lúc còn sinh tiền vốn là một tay ăn trộm cự phách nhất nước Áo đấy. Tay nghề ông nhà tôi siêu đến mức không có loại két sắt nào ông ta không mở được. Dân trong làng chôm chỉa gọi Poldi là Vua Mở Két mà. Đám anh chị trong thế giới ngầm xác định ông nhà tôi dính tới 212 vụ trộm trước khi bị… “múm”. Hi hi, bọn đầu gấu tính sai bét, trên thực tế Poldi đã xử tròn 500 vụ. Tôi còn nhớ hôm thực hiện vụ thứ 500, vợ chồng tôi còn làm lễ ăn mừng nữa kìa. Hồi đó cả hội kéo tới khách sạn “Hoàng Đế Franz Josef”. Ông nhà tôi thuê trọn gói một dàn kèn đồng cực kì rôm rả. Ôi, tối hôm đó rượu sâm-panh tràn thả cửa.
- Nào, cụng li đã bác Alma. Chúng ta cầu chúc bác trai…
- E… hèm, chỉ tiếc hùi hụi là thằng Otvan không đủ tầm cỡ như bố nó. Nó cũng cố gắng vớt vát thể diện gia đình bằng một số phi vụ, nhưng xét cho cùng, còn khuya mới có tên tuổi trong lịch sử ngành hình sự như Poldi.
Grobalki nhếch mép. Gã chuốc rượu cho mụ già đầy ắp. Mẹ kiếp, mụ cần phải phun ra thủ đoạn tuyệt vời của thằng Otvan đã. Mụ chưa biết ý đồ của ta đâu. Chuyến trở về “mái nhà xưa” lần này của gã đâu phải chỉ thuần túy “thịt” lão Holmann, mà cái chính là moi được một vài bí mật từ vụ đánh quả lớn của thằng bạn tù ranh mãnh.
- Bác Alma à, nghiệp vụ Otvan không có yếu như bác tưởng đâu. Cháu thấy nó giỏi lắm.
- Nhằm nhò gì với ông bố Vua Mở Két. Cảnh sát đã chứng minh được nó tham gia mười bốn vụ và lấy được dấu vân tay của nó. Vì thế nó phải ngồi tù năm năm. Nó dại quá, sao nó lại không đi găng tay kia chứ?
- Bác không biết đó thôi. Trong nhà giam, cháu đã bàn với Otvan rằng khi ra tù, hai thằng sẽ làm việc với nhau. Nhưng Otvan láu cá lắm. Nó không chịu ngửa bài với cháu. Nó chỉ nhận đã thực hiện mười bốn vụ. Còn vụ thứ mười lăm thì nó nhất định không nhận.
- Anh tính nói vụ đột nhập nhà mụ Pauline Mehrfelder chớ gì, Otvan có làm đâu mà chẳng lắc đầu. Nhưng nó không có bằng chứng ngoại phạm. Chẳng qua là rủi ro thôi. Mà chuyện xảy ra đã năm năm rồi còn gì. Tôi biết thằng con tôi. Nó không bao giờ đánh quả mà giấu tôi. Khoản châu báu mụ Pauline bị mất trị giá tới một triệu mark chứ ít đâu.
Grobalki cạn li cô-nhăc thứ tư và cảm thấy nóng rực cả người. Gã nhếch mép cười nham hiểm. Trong tù, chỉ độc nhất mình gã biết tỏng thằng Otvan đã “chơi” vụ này. Nó đã phun ra khi ngủ mê. Trong cơn ác mộng, nó bị ám ảnh bởi đống của cải to lớn chiếm đoạt được đến nỗi lải nhải không thành tiếng : “vàng bạc… châu báu… ta sẽ bán… không ai hay… giàu sụ…” còn của được giấu ở đâu thì tuyệt nhiên nó không nói tới.
Grobalki nghĩ thầm: Tao sẽ phỗng tay trên của mày Otvan ạ, phỗng cùng lúc với việc trả thù thằng già bác sĩ Holmann. Làm xong hai vụ, tao sẽ biến vĩnh viễn và không ai biết tao ở đâu.
Gã rót thêm rượu mời mụ già. Đúng lúc đó tiếng chuông cửa vang lên.
*
Tứ quái vẫy ta-xi đến nhà bác sĩ Holmann. Trời càng lúc càng tối. Hương đồng cỏ nội bay vào trong xe ngây ngất. Người tài xế chỉ tay về một ngôi nhà mờ mờ:
- Từ đây bắt đầu tới khu thung lũng Mittelriss. Kia là nhà bà Pauline Mehrfelder, bà ta là người rất giàu có. Bà ấy chỉ chơi thân với một mình ông thầy thuốc Holmann, người ta kháo rằng ông Holmann chỉ ngán bà Pauline thôi.
Tarzan tò mò:
- Đèn đuốc nhà bà ta sáng trưng. Dám bà Pauline có ở nhà?
- Chưa chắc. Bà ta vốn có thói quen để đèn sáng như vậy. Nghi binh mà. Bà ta không muốn bị kẻ gian viếng thăm một lần nữa. Cách đây năm năm, ngày mười bảy tháng bảy, bọn trộm đã rinh một đống vàng bạc châu báu trị giá tới một triệu đồng của bà.
- Thế bà ấy để tiền ở trong két ạ?
- Chẳng hiểu. Nhưng có điều bà ta đãng trí lắm. Ra đường bà ta còn xỏ mỗi chân một chiếc giày khác nhau và mua hàng còn quên trả tiền thì hỏi sao bọn lưu manh không khai thác nhược điểm này. Mà hôm đó không riêng gì bà Pauline lú lẫn, bữa đó có mấy nhà cũng bị bọn trộm ghé thăm đó.
- Trời đât. Không có ai ở nhà hôm đó hay sao ạ?
- Chứ sao. Hôm đó là ngày hội đồng quê mà. Ai cũng khóa cửa đi vui vẻ hết.
- Chẳng lẽ các nạn nhân không nghi ngờ ai sao?
- Có chớ. Thằng Otvan Flinkfinger bị bắt ngay hôm đó và tới nay vẫn còn ngồi tù. Nó là con trai của Vua Mở Két nước Áo đấy. Hình như vài ngày nữa, Otvan đã mãn hạn tù.
- Hung thủ có nhận tội không anh?
- Không. Nhưng tòa chiểu theo tất cả các tình tiết tại hiện trường vẫn quyết định lên án nó. Hiện giờ người ta vẫn chưa tìm ra đống của cải bị mất, ái chà, đống của biệt tích suốt năm năm.
Xe ta-xi dừng lại trước một trang trại. Tròn Vo móc tiền Áo đã chuẩn bị từ trước ra trả. Cả bọn cảm ơn người lái xe nhiệt tình và từ biệt anh.
Tứ quái đã đứng trước cổng. Tarzan đang sẵn sàng ở tư thế ấn chuông thì cửa mở. Một người đàn bà lớn tuổi bước ra:
- Cháu là Willi phải không? Vô đi. Dượng Holmann chờ cháu đã lâu. Dượng không ưa những ai thất hẹn.
Bà chìa tay về phía Tarzan. Các ngón tay đều đeo nhẫn. Tarzan bắt tay bà, hắn nói:
- Cháu là Tarzan bạn của Willi. Ba chúng cháu cùng đi với bạn ấy.
Bà nhìn chúng cười niềm nở:
- Ồ, đừng sợ các cháu. Vô hết đi.
Tarzan giới thiệu từng bạn một với bà. Bà già quàng tay qua vai Gaby:
- Cách đây 60 năm bà cũng từng là một cô gái xinh đẹp như cháu đấy.
Tròn Vo “ga-lăng” liền:
- Dạ, bây giờ chúng cháu vẫn nhận ra vẻ đẹp xưa của bà.
- Thế hử. Cảm ơn cháu. Hãy gọi ta là Pauline nghe. Ta là bạn thân của dượng cháu đây. Hôm nay ông ấy mời ta đến đây để đón các cháu. Các cháu phải sửa soạn xin lỗi ông Holmann về việc đến trễ nhé.
Tarzan tức giận nghĩ, mình đang ở đâu thế này? Hắn nói:
- Tụi cháu không làm gì sai trái đến nỗi phải xin lỗi. Bạn Willi được mời đến chớ có phải tự đến đâu ạ. Đành rằng bạn cháu có báo trước về chuyến tàu tốc hành Alpen nhưng những gì xảy ra trên tàu thì chúng cháu có lường trước được đâu. Tụi cháu tính rằng nếu có gì… thì cả bốn đứa sẽ quay về Fasslift ngủ trọ.
Bà Pauuline cười rất tươi:
- Ta nghĩ tối nay sẽ rất vui. Ta cũng sẽ ở đây với các cháu.
Tứ quái cảm thấy nhẹ người. Bà già đã 70 tuổi mà còn rất trẻ trung và bà cũng không muốn để mọi người cảm thấy mình là một bà lão già nua.
Có tiếng đàn ông trầm trầm. vẻ khó chịu:
- Cái gì ở ngoài cửa thế bà Pauline? Ban đồng ca của bà đến rồi hở?
*
Mụ Alma liếm mấy giọt cô-nhăc bám trên thành li. Grobalki nói:
- Ồ, có ai bấm chuông cửa.
- Kệ mẹ nó. Anh rót thêm rượu ra đi.
- Vậy bác tự rót nhé, còn cháu ra ngoài đó coi ai tìm.
Gã đứng dậy và vọt qua hành lanh lần mò mãi mới thấy nút bấm điện. Hành lang bốc mùi gì chua chua khiếp. Nếu không vì mục đích tranh thủ tình cảm của mụ già thì gã đã cất chai cô-nhăc từ lâu.
Một người đàn ông to bè mặc bộ complê mùa hè màu sáng đứng chờ trước cửa. Chiếc cà-vạt kéo dài tới tận bụng. Trên khuôn mặt nghiêm nghị của ông ta nổi bật cặp kính trắng không viền. Ông ta nói:
- Chào ông. Tôi cần gặp bà Flinkfinger.
- Bà già đang ở trong nhà.
- Tôi là luật sư Posnickel. Rất tiếc là tôi đã làm phiền nhưng ngày mai tôi đã đi nghỉ phép rồi.
Grobalki niềm nở:
- Xin mời ngài luật sư vào trong.
Gã đi trước dẫn đường. Gã đã biết tên tuổi luật sư Posnickel qua lời kể của Otvan. Nhờ tài hùng biện của ông ta mà Otvan chỉ bị lĩnh án năm năm. Hồi đó chính báo chí đã bàn tán: không có Posnickel thì tội của Otvan phải mười năm tù mới đáng.
Viên luật sư ngửi thấy mùi rượu trước khi phát hiện chai cô-nhăc trên bàn. Grobalki líu lưỡi:
- Tôi là Groobbbbaalki… bạn thân của gia đình. Ông luật sư dùng với chúng tôi một li nhé.
- Được. Tôi xin một li.
Posnickel rút trong túi áo ngực một cuộn giấy và đằng hắng:
- Thưa bà, đáng lẽ là ngày mai hoặc mốt tôi mới giao cho con trai bà hồ sơ này, ừ… ừm, nhưng giờ chót vì bận quá nhiều công việc nên tôi muốn giải quyết sớm để còn kịp nghỉ phép.
Mụ Alma Flinkfinger ngớ ra:
- Hồ sơ nào vậy?
- Về một ngôi mộ.
- Ngôi mộ nào?
- Thưa bà, cách đây năm tuần con trai bà có mời tôi đến nhà tù. Số là trong tù, cậu ta có đặt báo “Tin tức Fasslift”, và qua báo cậu ấy biết nghĩa trang thị trấn đang trong tình trạng thiếu đất chôn người chết. Chính vì thế những ngôi mộ đã tồn tại trên ba mươi năm ở nghĩa trang phải bị bốc lên để nhường chỗ cho những kẻ vừa từ trần.
- Anh nói nghe ghê quá… Thằng con tôi còn sống sờ sờ ra đó còn tôi đã chết đâu.
Viên luật sư cười:
- Thế này thưa bà, trên báo có nói rằng những ngôi mộ sắp bị khai quật có thể được gia hạn thêm một đợt ba mươi năm nữa nếu thân nhân người chết chịu mua miếng đất đó với giá 3.000 mark.
Mụ già làu bàu:
- Rõ vớ vẩn, họ hàng tôi có ai chôn cất ở đó đâu. Ông nhà tôi chôn ở Watzelfuoc cơ mà…
- Tôi biết, nhưng cậu con Otvan của bà đã ủy nhiệm cho tôi mua đất một ngôi mộ của một người bạn thân thuộc diện khai quật. Cậu ta đã trả tiền đầy đủ cho tôi. Công việc được giải quyết xong và đây là hóa đơn thanh toán.
Mụ Alma rít lên:
- Thằng bé bị điên rồi. Nó chịu tốn kém như vậy để làm gì chớ? Thằng bạn nào vậy kìa?
- Cậu Otvan rất thương một người tên là Flappe.
- Flappe là lão mổ thịt súc vật trong làng. Lão đã toi cách đây 30 năm rồi.
- Con trai bà khẳng định với tôi rằng ông Flappe lúc còn sống là bạn tri kỉ của cậu ấy. Vì thế cậu thuộc phải giữ gìn kỉ niệm bằng cách chăm sóc phần mộ của ông.
- Láo toét, bịp bợm. Lão đồ tể Flappe ngoẻo lúc thằng Otvan mới lên bảy tuổi.
Viên luật sư nhún vai:
- Tôi chỉ cần hiểu cậu ấy muốn giữ phần mộ Flappe, có vậy.
Mụ già thẫn thờ:
- Thế mà tôi chẳng biết gì về chuyện đó cả.
Luật sư Posnickel nói:
- Thưa bà, tôi không có quyền can thiệp vào chuyện nội bộ gia đình thân chủ mình. Bà hãy cầm lấy các hóa đơn chứng từ. Xin chào.
Ông ta đứng dậy. Mụ già đờ đẫn như người mất trí.
Grobalki sốt sắng tiễn khách ra cửa, và không quên chúc ông có một kì nghỉ nhiều may mắn.
Gã muốn nhảy lên vì sung sướng.
Thật tuyệt vời! Không thể để cho mụ già biết. Thằng Otvan láu cá thật, nhưng vẫn thua ta. Ta sẽ cho nó trắng mắt ra, ta sẽ nẫng tay trên của nó. Toàn bộ châu báu lấy được nó đã khôn ngoan giấu trong ngôi mộ lão đồ tể. Ngay đêm nay ta sẽ đến đó và khuân đi bằng hết!
/703
|