Tôi chưa bao giờ ghét bỏ quê hương mình.
Tôi yêu những hoang mạc đầy cát bụi, tôi yêu những đồng cỏ xa van cằn cỗi. Tôi yêu các cuộc ẩu đả trong quán Bar. Tôi yêu mấy con ngựa thích thở phì phò được các chàng chăn bò cưỡi. Tôi yêu cái lạnh rét người của buổi đêm, và cái nóng cháy da của ánh nắng ban ngày. Dù khắc nghiệt, nhưng đó lại là động lực mà bao đời thanh niên trai tráng phương Nam tự nhắc nhở chính mình nhằm mạnh mẽ hơn, để có thể bảo vệ chính mình, và bảo vệ những người mình thương yêu.
Tôi tự hào bản thân là một người con của đất phương Nam.
Thế…tại sao tôi lại từ bỏ nơi mình yêu quý, từ bỏ những con người mà mình yêu thương để bước chân đến cái chốn xa lạ này ?
Người ta nói số phận là con buôn chuyên bán sự tàn độc…Có lẽ là thế.
------
Cậu bé tiếp tục ngồi quanh cửa sổ, chăm chú chìm vào quyển cổ thư được đặt trên bàn làm việc. Ánh nắng găng gắt dù nóng nhưng vẫn làm tốt được nhiệm vụ soi sáng cho cậu bé. Cái nóng không phải là vấn đề, cậu bé nghĩ khó khăn thật sự đến từ quyển cổ thư: chữ không bị nhoè thì cũng mất đi vài trang, một là do thời gian hoặc bảo quản không cẩn thận, hai là do mối. Cả hai lí do cái nào cũng có lí, không chỉ căn nhà cũ kĩ mà cậu đang sống là nạn nhân của lũ mối, gia đình cậu cũng không có truyền thống giữ gìn và bảo quản những vật dụng không liên quan đến mình. Đã hai đời dòng họ ibn Hayyan giữ chức cảnh sát trưởng, giữa sổ sách hồ sơ lưu trữ thông tin những vụ việc xảy ra trong thị trấn và sách phép thuật cùng giả kim của các vị tổ tiên vốn đã thăng thiên từ lâu, dĩ nhiên ngài cảnh sát trưởng sẽ chăm chú đến sổ sách. Các vị tổ tiên đã có bàn thờ, không cần phải giữ lại nhiều di vật đến thế. Do đó, cậu bé chỉ có thể cố gắng kết nối lại những vết chữ mờ cùng các đoạn bị mất rồi viết chúng lên một quyển sổ tay nhỏ, còn những gì mất quá nhiều, cậu chỉ có thể…chế ra theo cách logic nhất rồi làm theo.
Đâu đó quanh nhà, tiếng xì xì của ấm nước đun sôi bắt đầu bớt dần rồi tắt ngúm nhờ vào cơ chế tự động. Thật là tốt – cậu bé nghĩ, ít ra lần sửa này đã đỡ hơn trước, sau hơn ba lần tự sửa, sức kiên nhẫn của cha cậu cũng đã đến giới hạn, nếu như ông thợ máy của thị trấn không ra tay giải quyết, gia đình cậu ắt hẳn đã phải trút lấy mớ quỹ ít ỏi để mua một ấm nước mới.
“Có lẽ như vậy là được.”
Cậu bé tự thưởng cho bản thân vài phút nghỉ dưỡng. Qúa trình xử lý những phân đoạn bị mất cũng còn khoảng 50% nữa là hoàn thành. Với tiến độ này chừng một tuần nữa là xong. May rằng thời gian rảnh của cậu khá nhiều do trẻ con trong Thị trấn ít được đi học. Chủ yếu những đứa trẻ sinh ra trong Thị trấn thường được người lớn đích thân dạy dỗ để kế nghiệp gia đình. Nếu có trường hợp đặc biệt, chắc có thể kể đến cậu bé này đây.
“Tiếp theo là…”
Cậu bé nhảy ra khỏi chiếc ghế cao quá tầm. 6 tuổi, một cậu bé 6 tuổi đã tự cho bản thân trách nhiệm phải ngồi lên một chiếc ghế như thế. Liệu số phận thật sự nghiệt ngã ? Cậu bé có lẽ còn không biết sự tồn tại của số phận, vận mệnh. Trong đầu cậu chỉ có mục tiêu cần hoàn thành, và cách để đạt được chúng. Cậu bé đến chỗ ấm nước sôi, đạt một chiếc ghế nhỏ lên mặt đất, dùng nó mà đứng lên để với tới cái ấm. Khối lượng của ấm nước bắt đầu khiến cậu bé nhận ra giới hạn của tuổi tác bản thân, nhưng liệu nó có nặng bằng thứ trách nhiệm vô hình mà cậu tự nhủ bản thân phải gánh vác ?
Với ấm nước sôi, cậu bé rót ra một ly nước nóng, sau đó đổ một ít thuốc mà bác sĩ kê đơn vào trong ly nước rồi dùng muỗng quậy lên. Vậy là tạm thời xong – cậu nghĩ.
Cậu bé trở lại phòng khách đơn sơ, là nơi mà cậu lúc nào cũng ngồi học, vừa để trông nhà, vừa để canh tù binh trong khu xà lim đặc chế được bố cậu tu sửa lại từ một phòng trống cạnh phòng khách. Ngoài ra, nhiệm vụ của cậu còn có…
“Mary. Tới giờ uống thuốc rồi em.”
Trông coi cho đứa em gái bệnh tật của mình. Để hoàn thành cùng lúc cả ba mục tiêu, vị cảnh sát trưởng đã bắt con bé phải ở dưới phòng khách để tiện đường chăm sóc.
Cậu bé cầm ly thuốc cẩn thận, đi lại gần đứa em gái 4 tuổi yếu ớt đang nằm trên chiếc ghế bành duy nhất của phòng khách. Cậu bé đưa tay lên trán của cô bé tóc nâu để kiểm tra nhiệt độ. Nóng… - Cậu bé chỉ biết nhận xét như thế, chứ không thể diễn tả chính xác nhiệt độ là bao nhiêu. Cậu chỉ biết nó nóng hơn cả hoang mạc xung quanh. Đó là lí do cho chiếc quạt máy cạnh đó và cục nước đá ở trước, do gia đình cậu không đủ tiền sắm máy điều hoà.
“Dậy nào…”
Mary vẫn còn đang chìm trong giấc ngủ, chỉ khi một ai đó đích thân đánh động con bé thì Mary mới dậy được. Dù không muốn, nhưng cậu bé thật sự cần phải đánh thức con bé. Với “căn bệnh” này, giấc ngủ dường như là cứu cánh duy nhất của con bé để thoát khỏi đau đớn. Thứ thuốc trên tay cậu cũng vậy, nó chỉ là thuốc giảm đau, đóng vai trò một giải pháp tạm thời để trì hoãn ngày định mệnh vậy.
“Anh hai…Nó đau…”
Mary khi tỉnh dậy liền ôm ngay bắp tay trái của mình, gương mặt để lộ một ít đau đớn mặc dù con bé không hề muốn anh trai phải lo lắng. Cậu bé nhìn thấy rõ chuyện đó, ngay lập tức liền cố thúc con bé uống thuốc nhanh. Sau khi thổi dần dần hơi nóng ra khỏi cốc thuốc, con bé uống lấy ly thuốc của mình. Phải tốn thêm một lúc nữa, thuốc mới có tác dụng, cơn đau đã giảm đi nhiều, nhưng chúng chưa hoàn toàn biến mất.
“Em ngồi dậy được không ? Mary. Anh cần phải thay băng cho em.”
Cậu bé nhận xét sau khi Mary buông bắp tay trái của mình ra. Lớp băng quấn ngang bắp tay giờ đã đen xì không rõ nguyên do. Cậu bé tháo băng ra, để lộ một Ma Ấn được viết bằng Diêm ngữ trên bắp tay Mary, với máu đen chảy ra không ngừng ngay sau khi lớp băng được tháo. Chúng vốn là Thánh băng do một số Tu sĩ trong Thị trấn tặng nhằm kiềm hãm lại ma lực của cơn bệnh, nhưng có lẽ chúng vẫn không đủ để ngăn chặn một lời nguyền đến từ một trong 72 vua quỷ của Địa ngục.
Phải…cơn bệnh và lời nguyền. Thứ mà Mary đang chịu đựng chính là dung hợp của cả hai. Nó là một lời nguyền rủa của quỷ, nhưng lại đến mang nhiều đặc tính của một cơn bệnh thông thường. Nó chưa có một cái tên chính thức, nhưng trong mắt vô vàn nạn nhân của con quỷ, nó được đặt tên theo kẻ thủ ác tàn độc – lời nguyền của Glasya-Labolas. Được truyền vào nạn nhân khi con quỷ trút máu của mình và lẫn vào cơ thể kẻ xấu số. Lời nguyền khi đó sẽ gây nên một nỗi đau đớn tột cùng lên cơ thể kẻ dính phải, và đến một lúc ngẫu nhiên nào đó, một là cơ thể của nạn nhân sẽ không còn sức chịu đựng và chết, hai là người bệnh bị biến thành quỷ nếu như còn sống được tới ngày đó. Dù là kết cục nào thì cũng thật là đau lòng. Đó là trò chơi của quỷ, như những nạn nhân còn sống hay nói: Glasya-Labolas tạo nên lời nguyền này để làm một trò cá cược tiêu khiển với các Vua quỷ khác: “Liệu sẽ tốn bao lâu, cho đến khi chúng ngừng van xin “Cứu tôi” và thay vào đó thét lên “Giết tôi đi !” để giải thoát chính mình ?”
Trong Kỉ Bóng Tối, Glasya-Labolas đã bị Lục đại anh hùng tiêu diệt, và những nạn nhân của nó đã dần dần hồi phục sau khi không còn cảm giác đau đớn. Nhưng dường như bóng ma của nó vẫn còn ám ảnh thế gian này, con cháu của những người từng là nạn nhân, đến một lúc ngẫu nhiên nào đó trong cuộc sống cũng bắt đầu xuất hiện triệu chứng của lời nguyền này. Do tính chất di truyền, người ta gọi nó như một căn bệnh và bắt đầu tìm kiếm thuốc chữa trong vô vọng. Cậu bé đã mất một người mẹ do nó, liệu tiếp theo sẽ tới lượt cô em gái luôn chăng ? Hay đến một lúc nào đó, chính cậu nhận ra bản thân cũng đang nằm trong tình trạng tương tự ?
“Xong rồi này…”
Cậu bé hoàn tất khâu băng bó lại Ma ấn của con bé. Dường như trong tương lai, con bé có nguy cơ trở thành Quỷ…chứng cứ có lẽ là do màu máu của Mary, nó đã trở nên đen thẫm như máu quỷ. Nhưng không sao, vẫn còn thời gian… - cậu bé nghĩ. Căn bệnh này tốn một thời gian dài mới phát tán hoàn toàn, trước đó chỉ là một chuỗi đau đớn không kiểm soát được, thế nên đa số người mắc phải mà chết sớm đều do chịu không được sự đau đớn này. Cậu bé chỉ mong Mary đủ mạnh để có thể chịu đựng được…cho đến ngày tìm được thuốc giải, hoặc đến khi chính cậu tạo ra được thuốc giải.
Đã gần một năm kể từ khi lời nguyền phát tán. Đó cũng là lúc mà gia đình ibn Hayyan trở nên lạnh lẽo hẳn đi. Cha cậu – vị cảnh sát trưởng, liên tục bù đầu vào công việc, xa cách với cả cậu lẫn cô con gái, giống như chuẩn bị tâm lý cho bản thân để chờ đợi ngày định mệnh mà thi hành án tử. Điều đó khiến cho mọi việc trong nhà rơi vào tay của cậu bé 6 tuổi này. Nhưng cậu không màn chuyện đó, Aster ibn Hayyan…nhất định sẽ không bao giờ bỏ cuộc !
“Em thấy thế nào rồi ?” – Cậu bé Aster nói.
“Đỡ hơn nhiều rồi…cảm ơn anh hai.” – Mary nằm xuống ghế bành, cô bé 4 tuổi nở một nụ cười hồn nhiên nhưng gượng ngùng trong cơn đau để xoa dịu anh trai mình. – “Cà ri hôm nay anh nấu ngon lắm. Cảm ơn anh.”
Cậu bé quay đầu về chiếc dĩa cơm cà ri trống trên chiếc bàn thấp gần đó, không còn một hạt cơm nào được sót lại. Dù cay, dù nóng, Mary vẫn ăn hết bữa sáng của mình. Với cô bé, đó là món ăn mà Mary có thể cho là “yêu thích”. Không hẳn là do ngon, vì nó rất là nóng và cay. Có lẽ…do nó là thứ duy nhất mà anh trai cô bé biết nấu, thế nên, chỉ cần là món nào Aster nấu, với Mary, nó sẽ luôn là món mà cô bé yêu thích.
“Cứ như được ăn đồ ăn mẹ nấu vậy.” – Mary nói tiếp.
“Thì công thức nấu là do mẹ truyền lại cho anh mà.” – Cậu bé 6 tuổi trả lời – “Và cũng là món duy nhất mẹ biết nấu…Đó là cà ri gia truyền của dòng họ ngoại chúng ta đó ! Em liệu mà nhanh chóng khoẻ lại đi, chứ không về sau anh lấy vợ, thì món cà ri đó sẽ thất truyền cho mà coi !”
“Hi hi. Đã rõ…” – Mary lại nở một nụ cười nhẹ, lần này có vẻ tươi vui hơn nụ cười ban đầu. – “Em sẽ chờ cho tới ngày bản thân có thể khoẻ mạnh lại, để mà nấu cà ri cho anh…và cho cha ăn.”
“Ừm…từ giờ tới lúc đó. Hãy cố gắng đợi anh.” – Aster nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của con bé, bóp nhẹ nó để thể hiện quyết tâm của bản thân. Aster biết những gì mình mong muốn có lẽ là rất điên rồ, do cả cha cậu cũng đã bỏ cuộc, nhưng cậu không muốn để quảng thời gian còn lại trong cuộc đời bản thân được dùng để quan sát cái chết báo trước của cô em gái.
~Leng keng~
Ngay khi Mary bắt đầu nằm xuống và cố gắng ngủ trở lại, cánh cửa phòng khách được mở tung ra, nhanh nhưng không hề mạnh bạo. Bước vào trong là một người đàn ông to lớn, bận trên mình một bộ quân phục cũ, nay được dùng như một loại đồng phục làm nhiệm vụ. Tấm phù hiệu hình ngôi sao vàng trên ngực cho thấy người này là vị cảnh sát trưởng uy danh, một trong những tay súng lợi hại nhất hoang mạc phương Nam. Người đời đồn đại rằng ông từng bị bắn những 50 lần trên lưng, nhưng vẫn sống sót và tiếp tục thực thi nhiệm vụ cảnh sát trưởng. Mỗi khi người đàn ông với hàng râu nâu lởm chởm dưới cằm xuất hiện tại đâu, thì cứ biết rằng mọi cuộc ẩu đả, hỗn loạn nào đang diễn ra đều phải chuẩn bị mà kết thúc. Đó có thể cho là hình ảnh của Bill ibn Hayyan trong mắt người dân phương Nam. Nhưng với Aster, vị gia chủ này chỉ là một ông bố tệ bạc, ngoại trừ đem tiền về cho gia đình thì Bill không hề làm một việc gì khác cả.
“Vào đây.”
Bill không nói gì với cậu con trai đang nhìn về phía mình ngay khi bước chân vào cửa, ông chỉ nói cho kẻ đi theo sau ông nghe. Mà dùng từ “đi sau” có lẽ hơi sang trọng cho một tên tội phạm. Tay của Bill cầm đầu của sợi dây xích nối tới vòng cổ tay ma thuật kìm hãm tên tội phạm phía sau ông lại. Một khi bị còng bởi thứ này, chỉ cần không phải thần thánh hoặc quỷ thần hoặc những ai đủ mạnh để gọi như vậy, thì sẽ không thể nào sử dụng được phép thuật hoặc dùng sức để giải phóng bản thân.
“Này này. Ông giảm nhẹ bản án được không cảnh sát trưởng ? Tôi chỉ để quên ví tiền tại nhà hàng thôi mà, có cần phải giam tôi lại đâu ?”
“Thế thì vào trong đó chờ ví mọc chân ra để chạy đến tìm ngươi đi. Tên ăn quỵt. Ta còn nhiều chuyện khác phải làm.”
Bill dắt tên tội phạm xấu số vào trong phòng khách, ông mở cửa xà lim rồi nhanh chóng tống tên ăn quỵt miệng mồm lẻo mép vào trong. Những chuyện như thế này Bill thường giao cho nhà hàng chịu trách nhiệm xử lý, nhưng tình thế hiện tại không được bình thường cho lắm. Tên ăn quỵt này lợi dụng một vụ ẩu đả trong nhà hàng để chạy thoát, Bill dự định ngăn cản cuộc ẩu đả, nhưng quy mô của nó khá lớn, khoảng 20 người đánh nhau vì bất đồng quan điểm trong việc chia chiến lợi phẩm phiêu lưu. Bill cần thêm hỗ trợ, nên ông mới tiện tay bắt tên này về để giam giữ khi đi gọi đồng minh và về nhà lấy thêm vũ khí. Khẩu súng bạc gia truyền trên thắt lưng của ông dù lợi hại, nhưng để đối đầu với nhiều phiêu lưu giả cùng một lúc, Bill cần hoả lực mạnh hơn nữa. Ông lấy một khẩu súng săn hai nòng chuyên dùng để diệt…voi rồi bước đến cửa ra sau khi khoá xà lim lại.
“Canh chừng tên đó cho cẩn thận, Aster.”
“Vâng…”
Bill đóng ập cửa lại, những gì còn lại Aster nghe được chính là tiếng vó ngựa của cha và đồng đội. Căn nhà trở dần trở nên im ắng sau khi cơn bão tên gọi Bill đi qua. Mary lúc nãy chỉ giả vờ ngủ để yên thân, bây giờ cũng bắt đầu ngồi dậy trở lại. Nếu có thứ gì con bé sợ hơn cái chết, có lẽ là chính cha của mình – người đã đích thân nổ súng hạ sát người mẹ đang dần trở thành quỷ…
“Em có sao không Mary ?” – Aster hỏi khi cậu bắt đầu cầm bát đĩa và ly tách đi dọn dẹp.
“Không…em không sao…Em chỉ sợ thôi.” – Mary nói – “Cha cầm súng săn…nghĩa là sắp có đổ máu.”
“Đó là trách nhiệm của một cảnh sát trưởng…em hiểu chứ Mary. Để duy trì bình yên của một quần thể, thì những cá nhân gây hại cần phải được triệt tiêu…” – Như mẹ của chúng ta vậy…Aster muốn nói thế, nhưng làm vậy chẳng khác nào dùng dao đâm một vết thương đang rỉ máu. – “Thôi em nghỉ đi. Đã có anh ở đây rồi, không cần sợ đâu.”
“Vâng…” – Mary lặng lẽ nói, rồi cố gắng trở lại giấc ngủ.
Hầy… - Aster thở dài, việc nhà còn nhiều, cậu bé không có thời gian để tiếp tục lo lắng suy tư. Sau khi rửa bát đĩa và ly tách, Aster trở lại ra phòng khách rồi nhặt lấy mớ Thánh băng đã ngả đen do máu. Nhìn chúng, Aster không tránh khỏi suy tư, cậu tự hỏi còn bao nhiêu lâu nữa là sẽ tới ngày định mệnh…
“Qủa là một căn bệnh kì lạ mà em gái cậu nhiễm đấy, cậu nhóc nhỏ.”
Một giọng nói lạ lẫm phát ra, Aster, tay cầm mớ băng đen, đứng dậy mà bàng hoàng không biết âm thanh đó đến từ đâu. Cha cậu đã đi, Mary đang cố ngủ. Cả phòng chỉ có một vị khách lạ không mời được cha cậu đưa tới. Đó là tên ăn quỵt đang ở trong xà lim.
“Ông thì biết gì chứ !”
Aster phản đáp và lên giọng trước kẻ lạ mặt. Hắn ta khá cao, nhưng dáng người lại thư sinh vô cùng. Dáng vẻ sơ qua của hắn ta không cho thấy tên này là người có học thức, hắn giống một tên phiêu lưu giả vô dụng, đóng vai trò tấu hài nhiều hơn là đánh đấm. Aster do vẫn còn con nít, nên cậu không biết rõ phục trang hắn ta đang mang là gì, nhưng với con mắt của người thường, y phục của hắn ta cũng vô cùng lạ lẫm: một loại lễ phục đen đỏ kì lạ, với áo đen mang bên trong, còn áo đỏ khoác ngoài kể cả khi nơi đây là hoang mạc. Nhưng nếu có gì kì lạ hơn, có lẽ là màu tóc và màu mắt của hắn: tóc của hắn bạc trắng như người già, còn mắt thì lại đỏ rực như màu máu.
“Tôi biết đủ những gì cần biết, cậu nhóc nhỏ ạ.” – Người lạ mặt đứng dậy, đi đến ngay cạnh cổng xà lim rồi nói – “Lời nguyền của Glasya-Labolas. Trên chuyến phiêu lưu của tôi, số người mắc phải nó cầu xin được chết tôi mà thấy không hề ít tí nào. Thế…theo cậu, hiểu biết của tôi liệu có đáng tin không ?”
“Nếu như ông không biết cách giải thì kiểu nào cũng vô dụng.” – Cậu bé Aster trả lời.
“Đó lúc nào cũng là vấn đề cả.” – Người lạ mặt nói – “Vì thế, bọn họ - những nạn nhân đó - cần những người như cậu để tìm ra thuốc giải nhằm cứu nhân độ thế.”
“Rốt cuộc ông muốn gì hả ? Ông muốn tôi mở xà lim cho ông chạy thoát bởi vì ông cứ liên tục bợ đít tôi à ?” – Aster phản đáp.
“Ô hô. Còn bé mà ăn nói mạnh bạo thế nhỉ. Giống y chang cha cậu.” – Người lạ mặt lùi lại vài bước khi Aster lên giọng, hắn ta tạo cho người đối diện hình ảnh của một kẻ yếu thế, nhưng thực ra chỉ giả vờ nhằm châm chọc đối phương. Nếu có loại người nào mà Aster thật sự ghét, có lẽ là những tên như thế này. – “Ờ mà cậu nói đúng thật. Giờ cậu biết luôn ý định của tôi rồi, vậy chắc không cần dụ khị nữa, bỏ qua khâu đó rồi mở xà lim cho tôi luôn nhé ? Hì hì.”
“Ngồi trong đó chờ đến mục xương đi !” – Aster trả lời, cậu làm ngơ và bỏ mặc luôn tên đó. Aster cầm mớ băng dính đầy máu đen bỏ thùng rác. Sau khi ăn xong bữa trưa của mình trong bếp – vốn cũng là cà ri, Aster trở lại phòng khách. Tên tội nhân giờ này đã ngồi im, hướng về phía cửa sổ nhỏ đối diện hắn mà nhìn vào ánh mặt trời bên ngoài. Mary đã dần thiếp đi. Có lẽ tên này không tệ như Aster tưởng, ít ra hắn ta không cố dụ khị Mary sau khi thất bại với Aster như nhiều tên tội nhân khác bị cha cậu giam giữ. Hoặc hắn đã cố, nhưng Mary thì thiếp đi từ lúc nào rồi…
Aster trở lại bàn làm việc. Cậu mở quyển cổ thư khi nãy ra và tiếp tục công việc tái tạo lại những phần đã mất. Mọi chuyện tiếp tục im ắng trong hơn 1 tiếng nữa. Mary lúc này đã say ngủ, Aster vẫn chìm đắm trong công việc. Nhưng lạ thay, người lẽ ra phải là nhân tố lạ nhất trong tình cảnh này – tên phạm nhân, cũng im lặng theo, không làm phiền hà gì đến trật tự ban đầu trong căn phòng. Aster đã quen với việc bị những người trong xà lim gây phiền nhiễu khi đang làm việc, nhưng đây là lần đầu cậu bé gặp một tên im lặng như vậy mặc dù hắn ta đã mở miệng dụ khị cậu ta. Aster quay lại, nhìn ngắm kẻ lạ mặt một tí, và cậu để ý rằng…thứ hắn đang ngắm nhìn thật sự không phải là ánh mặt trời chói chan ngoài kia, mà là một chậu cây chết khô ở trên cửa sổ xà lim.
“Này nhóc.” – Cứ như có mắt ở sau gáy, tên ăn quỵt kia lên tiếng ngay khi Aster quan sát hắn được một lúc. – “Nhóc có biết tại sao cây quang hợp không ?”
“Để duy trì sự sống cho chính nó ? Chẳng phải đó là kiến thức thông thường ư ?” – Aster trả lời. Chuyện này so với những gì cậu đang nghiên cứu chỉ là trò vặt vãnh trẻ con.
“Đó là một phần, phần còn lại là để tạo ra Oxi cho chúng ta thở.” – Kẻ lạ mặt nói – “Cũng thật oái ăm thay, khi về đêm, chúng lại tạo ra khí cacbon đioxít như cách hô hấp của sinh vật sống. Có lẽ cậu cũng biết cacbon đioxít có lợi gì cho chúng ta rồi chứ nhỉ ?”
“Ý của ông là gì ?”
“Chẳng có gì hết, chỉ là một chút suy nghĩ bâng quơ của một lãng khách mà thôi.” – Gã nói – “Nhóc này, cậu có nghĩ rằng thật là lạ…khi hệ thống ma thuật của cả thế giới này được xoay quanh ánh sáng không ? Các pháp sư, không, bất cứ chiến binh nào đều có thể tung hoành dưới ánh sáng, nhưng khi vì đêm, họ trở thành một đám vô dụng.”
“Nghĩa là…?”
“Theo một cách nói nào đó, chẳng phải sinh linh chúng ta cũng như cây cỏ à ?” – Người đàn ông quay lại Aster và nói – “Khi tràn ngập trong ánh sáng ấm áp và vui vẻ, chúng ta cảm thấy hạnh phúc, và tạo ra hạnh phúc cho người khác. Nhưng trong bóng tối của tuyệt vọng, chúng ta lại giỏi làm khổ người khác nhiều hơn.”
“Tôi vẫn chưa hiểu lắm.” – Aster lại hỏi.
“Hy vọng, cậu nhóc ạ. Hy vọng. Tôi biết những gì tôi nói rất khó hiểu và phi logic, vì bản thân ta còn không hiểu được huống gì nhóc đây. Ha ha.” – Gã lạ mặt cười nhẹ - “Chỉ là, tôi thấy nhóc nghiêm trọng quá, trong khi với tuổi trẻ, thứ quan trọng nhất lúc nào cũng chính là nụ cười. Phải, nụ cười bằng mười thang thuốc bổ, cứ như tôi này, nhìn đi.”
Người đàn ông tóc trắng mắt đỏ nở ra một nụ cười lớn như để minh hoạ cho những gì mình nói.
“Ông đừng nghĩ nói triết nửa mùa có thể kéo ông ra khỏi xà lim.” – Aster nói tiếp – “Và cái chậu cây đó chết do bị chiếu nắng quá nhiều và thiếu nước do không ai tưới, chứ không phải quang hợp kém mà chết để cho ông vịnh ra mấy thứ triết lí đó đâu.”
“Hừ. Nhóc này chẳng vui tính gì cả.” – Gã ta dỗi – “Một lời nói cuối: Nếu như nhóc muốn cứu lấy em gái, thì hãy làm điều đó với nụ cười tràn ngập hy vọng trên môi. Chứ nếu cứ tiếp tục như nhóc hiện giờ, nhóc chỉ gây đau đớn cho những người xung quanh mà thôi.”
“Tôi không cần một kẻ như ông dạy bảo !” – Aster quay trở lại bàn làm việc, hoàn toàn lờ đi gã lạ mặt trong xà lim. Dù vậy, cậu bé 6 tuổi có bị ảnh hưởng không ít thì cũng nhiều. Cây bút vốn lúc nào cũng múa quanh quanh trên tập giấy trắng giờ lại đứt quãng liên tục. Aster ghét cảm giác này…cảm giác khi sự thật đâm xuyên qua dối trá, nó như giọt nước rớt vào một mạch điện đang hoạt động ngon lành. Để có thể đạt được nguyện vọng, Aster cần giỏi hơn, giỏi một cách toàn diện, hoàn hảo. Cậu không cần bất cứ thứ gì gây cản trở cả… Tên đó…hắn biết gì chứ, hắn không hiểu cậu, không bao giờ có thể hiểu cậu được !
ẦM ẦM
Tiếng đập cửa khiến Aster thoát khỏi suy nghĩ mơ hồ. Khách à ? – Cậu bé nghĩ. Tiếng đập cửa lại vang lên, lần này liên hồi hơn, mạnh hơn, khiến bụi cửa bay lung tung gần đó. Aster không đợi cho khách bên ngoài lên tiếng gọi chủ nhà, cậu bé nhanh chóng nhảy khỏi ghế làm việc mà chạy đến mở cửa.
Trước mặt cậu bé 6 tuổi là một nhóm 4 người, kèm theo một người quen mặt là ông Thị trưởng. Trừ Thị trưởng, những người còn lại mang áo khoác dài màu trắng có mũ trùm đầu, tạo nên cho họ cảm giác bí ẩn nhưng vô cùng nghiêm trang. Trên thắt lưng họ có nhiều dây đeo chứa vật dụng hỗ trợ, kèm theo kiếm, đao, vũ khí nhiều loại. Họ là ai ?
“Đây là nhà ibn Hayyan ?” – Một giọng nói trẻ tuổi vang lên, nhưng người đó không nói với Aster, mà là ông Thị trưởng.
“Vâng vâng…đích thị là đây.” – Ông Thị trưởng gật đầu lia lịa, sau đó nhìn vào mắt của Aster với cái nhìn cảm thông, tiếc nuối. Như thế đủ cho cậu bé nhận ra mình vừa rước một tai ương vào trong nhà.
“Tản ra !” – Giọng nói trẻ tuổi ra lệnh, ngay lập tức, ba người áo khoác trắng còn lại lao vào trong, đẩy cả Aster ra khi cậu bé vô vọng cố gắng giữ bọn họ lại. Aster ngay sau đó nghe rõ tiếng lục lọi ở sau nhà. Chẳng nhẽ là cướp à ? – Cậu bé nghĩ. Nhưng không có băng cướp nào được đích thân Thị trưởng mời đến nhà nạn nhân. Họ cao quý hơn thế, vậy, rốt cuộc họ là ai ?
“Đây là cô bé đó ư ?” – Người chỉ huy trẻ cũng bước vào trong nhà, hắn ta nhìn vào Mary – cô bé 4 tuổi vẫn đang say ngủ, sức khoẻ yếu của cô bé khiến cho Mary một khi đã chìm vào giấc ngủ thì rất khó để mà tỉnh dậy trừ khi được đích thân người khác đánh thức.
“Vâng. Đúng là con bé.” – Lão thị trưởng lại gật gù. Tay cầm chiếc khăn mù xoa rẻ tiền cố gắng quẹt hết mớ mồ hôi đang chảy không dứt trên gương mặt đầy nếp nhăn của lão.
“Mấy người tính làm gì ???” – Aster nói lớn, cậu bé nhanh chóng lao về hướng của Mary, đưa hai tay chắn ngang không cho tên chỉ huy trẻ tiến thêm bước nữa về phía Mary.
“Thưa ngài, đây ạ.” – Một giọng nữ trong nhóm 4 người nói sau khi hoàn tất quá trình tìm kiếm, trên tay của người đó…là dải Thánh băng mà Aster đã tháo ra khỏi tay Mary, vẫn còn đó dòng máu đen dính ở trên…. – “Không còn nghi ngờ gì, đây là máu quỷ…”
“Vậy Ma Ấn đang dần biến cô bé thành quỷ…Có lẽ chuyện này không thể tránh được rồi. Cảm ơn ông, ngài thị trưởng, đã báo cáo cho chúng tôi biết về chuyện này. Nếu như để lâu hơn mà không có hành động gì, tôi sợ thương vong cho cả Thị trấn sẽ không ít.” – Người chỉ huy trẻ trạc tuổi 20 nói, kèm theo một câu nói mỉa mai châm chọc – “Như thế ắt hẳn sẽ không tốt cho cuộc vận động nhiệm kì hai và ba của ông nhỉ…?”
Lão Thị trưởng không nói gì, chỉ gật gù liên tục, kể cả khi ánh mắt căm ghét của cậu bé Aster đang hướng về phía lão ta.
“Các người định làm gì ???” – Aster thét lớn, cậu tiếp tục đưa bản thân ra làm khiên chắn cho Mary.
“Làm những gì cần làm. Tránh ra ngay, cậu bé, nếu không thì đừng trách ta độc ác.” – Tên chỉ huy nói.
“Không !”
Đáp lại lời nói mạnh bạo của Aster…là một cú đánh tạt ngang ngay má. Lực đánh khiến Aster văng vào tủ sách gần đó, khiến cho sách vở đổ ngổn ngang, giấy tờ phát tán khắp nơi trong phòng, bay lơ lửng trong không khí.
Trong lúc Aster cố gắng dựng dậy, tên chỉ huy rút kiếm khỏi vỏ. Một thanh kiếm sáng loáng, đủ hoa văn để nói rằng đây là bảo kiếm, không phải mua ở đâu cũng được, nhưng sự thiếu thốn chi tiết đủ cho người khác biết đây vẫn là vũ khí dùng để lấy đi sinh mạng, chứ không phải hàng trưng bày cho các gia tộc giàu có. Một người khác trong nhóm cũng lục túi, gã ta cầm một quyển sách có biểu tượng thập tự trên thân ra và đọc to nội dung bằng thứ ngôn ngữ lạ lẫm của Tổ chức cả nhóm phục vụ. Tất cả như một buổi tế lễ uy nghiêm nào đó, với Mary là vật tế, người đọc sách là thầy tu, còn tên cầm kiếm…là kẻ hành hình.
“Cầu cho linh hồn của những kẻ sa ngã được siêu thoát.” – Người chỉ huy trẻ nói lên vài câu niệm rồi cầm kiếm vung xuống. Tốc độ của nó…dĩ nhiên phải nhanh hơn tốc độ của một cậu bé 6 tuổi đang lao tới cố gắng van xin gấp nhiều lần.
KENG
Mọi hy vọng hầu như đã bị dập tắt, thanh kiếm sắt lao thẳng xuống mục tiêu. Nhưng liệu âm thanh của kim loại lao vào xác thịt có để lại một tiếng động như thế không ? Chắc chắn là không. Chưa có lúc nào mà Aster cảm thấy những người tạo ra chiếc còng tay mà nhà cậu dùng lại tài ba đến thế, vì đó là thứ đã bảo vệ cho em gái Mary của cậu khỏi đường gươm tử thần. Trong lúc gã cầm kiếm tung kiếm, tên ăn quỵt trong xà lim không biết làm cách nào mà thoát khỏi đó rồi lao ra, dùng chiếc còng đỡ lấy đường kiếm, bảo vệ Mary cũng như chính bản thân hắn ta.
Aster quay sang nhìn lại xà lim. Một phần song sắt đã bị cắt đi không rõ vì thứ gì. Thật là vô lí, không tính tới cặp còng làm giới hạn khả năng sử dụng ma thuật, cả xà lim cũng được các kĩ sư gia cố để tác nhân vật lý thông thường không làm gì được. Dễ dàng vượt qua hai thứ đó…liệu đây là một tên ăn quỵt bình thương ư ?
“Ngươi…ngươi có biết ngươi đang làm gì không tên kia ?” – Tên cầm kiếm nói, giọng của gã dù vẫn giữ được bình tĩnh, nhưng đã có chút ít giận dữ lộ ra.
“Chống đối người thi hành công vụ chứ gì ? Không cần bảo tôi cũng biết. Đao phủ trẻ tuổi của Toà án Dị giáo ạ.” – Tên ăn quỵt cười nhẹ và trả lời.
Toà án Dị giáo. Đó là một chi nhánh của Bộ giáo dục, dù trực thuộc Bộ, nhưng nó giống như một tổ chức quân sự riêng lẻ, được lập ra để giải quyết những vấn đề liên quan tới Ma tộc, quỷ và những thứ đi ngược lại luật lệ tự nhiên của ma thuật mà Bộ giáo dục đề ra – gọi chung là Dị giáo. Những chiến binh mang trên mình áo khoác trùm đầu trắng tinh, họ được gọi là Đao phủ - những người hành hình của Toà án.
“Ngươi biết luật đó à ? Nếu vậy, ta không biết liệu ngươi có hiểu chúng ta trừng phạt những kẻ vi phạm như thế nào không ?” – Gã Đao phủ trẻ bắt đầu cười nhẹ khi con mồi mới xuất hiện, gã gia tăng thêm lực cho thanh kiếm, cố gắng cắt đứt chiếc còng sắt để lao xuống ngay người tên phá đám trước mặt.
“Điều 4, khoản thứ 4, bộ luật Toà án Dị giáo: Những kẻ phạm vào Điều 3, khoản 4 – Chống đối người thi hành công vụ, bị kết án tử không cần xét xử bởi bất cứ Đao phủ nào gần nhất.” – Trong lúc ba Đao phủ còn lại chuẩn bị vũ khí, tên ăn quỵt bắt đầu nói lên những điều luật hệt như ngôn ngữ mẹ đẻ. Dù cách diễn đại còn sai như em bé bụ bẫm tập nói, nhưng nội dung chắc chắn là chính xác, đủ khiến cho toàn bao Đao phủ trong phòng khựng lại vì điều đó. – “Có vẻ như đúng rồi nhỉ ?”
“Làm sao ngươi biết được chuyện này ?” – Một tên Đao phủ bên ngoài nói.
“Tôi biết sao không quan trọng. Vả lại, nếu mấy người xem kĩ lại, tôi chưa hề vi phạm vào điều luật đó cả.”
“Cái gì ?” – Một nữ Đao phủ lên tiếng – “Ngươi rõ ràng chặn kiếm của ngài Berard, như thế còn chối cãi được nữa à ? Mọi người trong căn phòng đều có thể đứng ra làm chứng cả.”
“Các người có giấy xét xử từ Toà án không ?” – Tên ăn quỵt nói – “Điều 5, khoản 1, bộ luật Toà án Dị giáo quy định: Mỗi nhiệm vụ của Đao phủ chỉ được phép bắt đầu sau khi được cấp trên trao cho giấy xét xử để thực thi nhiệm vụ.”
“Điều 4, khoản 2, bộ luật Toà án quy định: Nếu một Đao phủ gặp sinh vật dị giáo, những người có các đặc điểm trùng với những điều được nêu trong Quy định nhận dạng dị giáo, những người bị tình nghi là thực tập dị giáo hoặc giúp đỡ người dị giáo, Đao phủ được quyền xử tử tại chỗ.” – Người được gọi là Berard phản bác.
“Như thế mâu thuẫn với Điều 5, khoản 1. Điều mà cậu vừa nói vốn chỉ được thi hành trong khi Điều 5, khoản 1 có hiệu lực. Tức là…các cậu phải ở trong một nhiệm vụ nào đó, có được giấy xét xử của Toà án Dị giáo thì mới được phép thực thi Điều 4, khoàn 2. Nếu như không thực thi nhiệm vụ mà các cậu ra tay, như thế không được gọi là bài trừ dị giáo…” – Tên ăn quỵt nói tiếp – “…mà là giết người. Chắc vị Đao phủ trẻ tuổi đẹp trai trước mặt tôi không thích biệt danh Kẻ giết con nít đâu nhỉ ? Nếu nhìn sơ qua, có lẽ các vị Đao phủ trai thanh gái tú đây vừa thực thi nhiệm vụ về và nghỉ chân tại Thị trấn, sau đó ông Thị trưởng đáng kính đi ngang qua và ngụ ý lo sợ về con bé mang Ma Ấn. Nhân lúc gấu cha vắng nhà, cả 5 anh em các người nhào vô trong và quyết định thực thi công lý. Nếu như các người đã hoàn thành nhiệm vụ rồi thì ắt hẳn giấy xét xử đã hết hiệu lực, nhưng nếu vẫn chưa, thì xin mời…”
Tên ăn quỵt ngay sau đó buông lỏng tay ra và đứng sang một bên, dọn đường đến chỗ Mary cho người được gọi là Berard .
“Ngươi…làm thế nào mà ngươi biết được những thứ này ?”
“Tôi cũng không rảnh mà đi học luật lệ lạ lẫm. Chỉ là bản thân tôi từng gặp trường hợp tương tự như thế này, và may mắn thay, trong tay tôi lúc đó đang cầm quyển Luật nhỏ gọn của Toà án Dị giáo. Thế là chuyện xảy ra gần như y hệt những gì các vị đang trải nghiệm.”
“Hừ…” – Vị chỉ huy im lặng, không làm gì thêm. Đúng như lời kẻ lạ mặt nói, nhóm người của tên này vừa đi làm nhiệm vụ về và gặp ngài Thị trưởng. Tự nhủ bản thân đây là điều đúng đắn, tự nhủ lương tâm rằng một cái chết nhỏ sẽ cứu lấy cả trăm người, gã chỉ huy trẻ đã quyết định nhận việc…nhưng lại gặp tình cảnh như thế này. Liệu thật sự may mắn lúc nào cũng đứng về những kẻ quái dị ?
“Ngài Berard ?” – Một người trong nhóm Đao phủ nói.
“Hắn ta nói đúng, chúng ta nhận việc này mà không có giấy của Toà án. Nếu như tiếp tục, chúng ta sẽ là sự hổ thẹn cho mọi người. Còn chờ gì nữa mà không nhanh rút quân !”
“Vâ…vâng !!!” – Ba người còn lại nhanh chóng nhận lệnh, liền tra vũ khí vào vỏ rồi nhanh chân chạy ra ngoài cùng với lão Thị trưởng.
“Ngươi có biết ngươi vừa làm gì không tội nhân ? Nếu như con bé kia tiếp tục sống, đến thời khắc định mệnh mà số phận đặt ra, nó sẽ hạ sát cả cái thị trấn nhỏ này, rồi chuyển sang mục tiêu khác cho tới ngày bị tiêu diệt. Ngươi có định chịu trách nhiệm cho chuyện đó không ?”
“Đó là chuyện của cậu nhóc này đây.” – Gã ăn quỵt vỗ vai của cậu bé Aster – người quan sát mọi chuyện từ đầu tới giờ bằng đôi tay bị còng chặt lấy. – “Nó sẽ là người quyết định cho số phận của em gái mình, không phải là một kẻ xa lạ như tôi…”
“…” – Gã Đao phủ im lặng, nhưng bên dưới lớp áo mũ trùm đầu, có một nụ cười nhẹ ngắn ngủi được hiện lên. – “Ta là Thomas Berard, đội trưởng đội Đao phủ số 4 của Toà án Dị giáo. Ta có cảm giác chúng ta sẽ gặp lại nhau vào một ngày không xa. Liệu ta có thể được biết danh tánh của kẻ dám cả gan lao ra chặn gươm của Thomas Berard này không ?”
“Tôi là người tốt.” – Gã ăn quỵt tự xưng là “người tốt” nói – “Cậu chỉ cần biết thế là đủ, Đao phủ trẻ tuổi.”
------
Aster bừng tỉnh giấc. Trước mặt cậu là trần nhà của một nơi không hề quen thuộc. Xung quanh tràn ngập mùi thuốc sát trùng. Thật không khó để đoán nơi này là Trạm xá của trường. Aster ngồi dậy, các vết thương dù đã lành nhưng vẫn còn cảm giác đau đau. Cậu sờ lên cổ, sợi dây chuyền mang theo hình em gái Mary của cậu đã biến mất. Có lẽ cậu đánh rơi ở đấu trường, chắc một ai đó đã nhặt được và gửi về cho cậu.
“Một giấc mơ từ quá khứ à…” – Aster tự lẩm bẩm. Đã hơn 10 năm kể từ ngày đó, cũng chính “người tốt” là kẻ đã trao một thứ gọi là hy vọng đến với Aster. Nhưng khoảng thời gian 10 năm dài phần nào đã khiến cậu quên mất hy vọng và trở thành kẻ mà ai cũng ghét như ngày hôm nay. Liệu đó có thật là cái giá đáng phải trả để tìm được thứ mà cậu hằng mong muốn ?
Dù sao Aster cũng không còn thời gian để suy nghĩ bâng quơ như thế, cậu ngồi dậy, mang lại y phục và vũ khí của mình.
“Chướng khí tụ hội xung quanh. Đêm nay có lẽ sẽ không bình thường như mọi đêm khác.” – Aster nói – “Dawn…”
Tôi yêu những hoang mạc đầy cát bụi, tôi yêu những đồng cỏ xa van cằn cỗi. Tôi yêu các cuộc ẩu đả trong quán Bar. Tôi yêu mấy con ngựa thích thở phì phò được các chàng chăn bò cưỡi. Tôi yêu cái lạnh rét người của buổi đêm, và cái nóng cháy da của ánh nắng ban ngày. Dù khắc nghiệt, nhưng đó lại là động lực mà bao đời thanh niên trai tráng phương Nam tự nhắc nhở chính mình nhằm mạnh mẽ hơn, để có thể bảo vệ chính mình, và bảo vệ những người mình thương yêu.
Tôi tự hào bản thân là một người con của đất phương Nam.
Thế…tại sao tôi lại từ bỏ nơi mình yêu quý, từ bỏ những con người mà mình yêu thương để bước chân đến cái chốn xa lạ này ?
Người ta nói số phận là con buôn chuyên bán sự tàn độc…Có lẽ là thế.
------
Cậu bé tiếp tục ngồi quanh cửa sổ, chăm chú chìm vào quyển cổ thư được đặt trên bàn làm việc. Ánh nắng găng gắt dù nóng nhưng vẫn làm tốt được nhiệm vụ soi sáng cho cậu bé. Cái nóng không phải là vấn đề, cậu bé nghĩ khó khăn thật sự đến từ quyển cổ thư: chữ không bị nhoè thì cũng mất đi vài trang, một là do thời gian hoặc bảo quản không cẩn thận, hai là do mối. Cả hai lí do cái nào cũng có lí, không chỉ căn nhà cũ kĩ mà cậu đang sống là nạn nhân của lũ mối, gia đình cậu cũng không có truyền thống giữ gìn và bảo quản những vật dụng không liên quan đến mình. Đã hai đời dòng họ ibn Hayyan giữ chức cảnh sát trưởng, giữa sổ sách hồ sơ lưu trữ thông tin những vụ việc xảy ra trong thị trấn và sách phép thuật cùng giả kim của các vị tổ tiên vốn đã thăng thiên từ lâu, dĩ nhiên ngài cảnh sát trưởng sẽ chăm chú đến sổ sách. Các vị tổ tiên đã có bàn thờ, không cần phải giữ lại nhiều di vật đến thế. Do đó, cậu bé chỉ có thể cố gắng kết nối lại những vết chữ mờ cùng các đoạn bị mất rồi viết chúng lên một quyển sổ tay nhỏ, còn những gì mất quá nhiều, cậu chỉ có thể…chế ra theo cách logic nhất rồi làm theo.
Đâu đó quanh nhà, tiếng xì xì của ấm nước đun sôi bắt đầu bớt dần rồi tắt ngúm nhờ vào cơ chế tự động. Thật là tốt – cậu bé nghĩ, ít ra lần sửa này đã đỡ hơn trước, sau hơn ba lần tự sửa, sức kiên nhẫn của cha cậu cũng đã đến giới hạn, nếu như ông thợ máy của thị trấn không ra tay giải quyết, gia đình cậu ắt hẳn đã phải trút lấy mớ quỹ ít ỏi để mua một ấm nước mới.
“Có lẽ như vậy là được.”
Cậu bé tự thưởng cho bản thân vài phút nghỉ dưỡng. Qúa trình xử lý những phân đoạn bị mất cũng còn khoảng 50% nữa là hoàn thành. Với tiến độ này chừng một tuần nữa là xong. May rằng thời gian rảnh của cậu khá nhiều do trẻ con trong Thị trấn ít được đi học. Chủ yếu những đứa trẻ sinh ra trong Thị trấn thường được người lớn đích thân dạy dỗ để kế nghiệp gia đình. Nếu có trường hợp đặc biệt, chắc có thể kể đến cậu bé này đây.
“Tiếp theo là…”
Cậu bé nhảy ra khỏi chiếc ghế cao quá tầm. 6 tuổi, một cậu bé 6 tuổi đã tự cho bản thân trách nhiệm phải ngồi lên một chiếc ghế như thế. Liệu số phận thật sự nghiệt ngã ? Cậu bé có lẽ còn không biết sự tồn tại của số phận, vận mệnh. Trong đầu cậu chỉ có mục tiêu cần hoàn thành, và cách để đạt được chúng. Cậu bé đến chỗ ấm nước sôi, đạt một chiếc ghế nhỏ lên mặt đất, dùng nó mà đứng lên để với tới cái ấm. Khối lượng của ấm nước bắt đầu khiến cậu bé nhận ra giới hạn của tuổi tác bản thân, nhưng liệu nó có nặng bằng thứ trách nhiệm vô hình mà cậu tự nhủ bản thân phải gánh vác ?
Với ấm nước sôi, cậu bé rót ra một ly nước nóng, sau đó đổ một ít thuốc mà bác sĩ kê đơn vào trong ly nước rồi dùng muỗng quậy lên. Vậy là tạm thời xong – cậu nghĩ.
Cậu bé trở lại phòng khách đơn sơ, là nơi mà cậu lúc nào cũng ngồi học, vừa để trông nhà, vừa để canh tù binh trong khu xà lim đặc chế được bố cậu tu sửa lại từ một phòng trống cạnh phòng khách. Ngoài ra, nhiệm vụ của cậu còn có…
“Mary. Tới giờ uống thuốc rồi em.”
Trông coi cho đứa em gái bệnh tật của mình. Để hoàn thành cùng lúc cả ba mục tiêu, vị cảnh sát trưởng đã bắt con bé phải ở dưới phòng khách để tiện đường chăm sóc.
Cậu bé cầm ly thuốc cẩn thận, đi lại gần đứa em gái 4 tuổi yếu ớt đang nằm trên chiếc ghế bành duy nhất của phòng khách. Cậu bé đưa tay lên trán của cô bé tóc nâu để kiểm tra nhiệt độ. Nóng… - Cậu bé chỉ biết nhận xét như thế, chứ không thể diễn tả chính xác nhiệt độ là bao nhiêu. Cậu chỉ biết nó nóng hơn cả hoang mạc xung quanh. Đó là lí do cho chiếc quạt máy cạnh đó và cục nước đá ở trước, do gia đình cậu không đủ tiền sắm máy điều hoà.
“Dậy nào…”
Mary vẫn còn đang chìm trong giấc ngủ, chỉ khi một ai đó đích thân đánh động con bé thì Mary mới dậy được. Dù không muốn, nhưng cậu bé thật sự cần phải đánh thức con bé. Với “căn bệnh” này, giấc ngủ dường như là cứu cánh duy nhất của con bé để thoát khỏi đau đớn. Thứ thuốc trên tay cậu cũng vậy, nó chỉ là thuốc giảm đau, đóng vai trò một giải pháp tạm thời để trì hoãn ngày định mệnh vậy.
“Anh hai…Nó đau…”
Mary khi tỉnh dậy liền ôm ngay bắp tay trái của mình, gương mặt để lộ một ít đau đớn mặc dù con bé không hề muốn anh trai phải lo lắng. Cậu bé nhìn thấy rõ chuyện đó, ngay lập tức liền cố thúc con bé uống thuốc nhanh. Sau khi thổi dần dần hơi nóng ra khỏi cốc thuốc, con bé uống lấy ly thuốc của mình. Phải tốn thêm một lúc nữa, thuốc mới có tác dụng, cơn đau đã giảm đi nhiều, nhưng chúng chưa hoàn toàn biến mất.
“Em ngồi dậy được không ? Mary. Anh cần phải thay băng cho em.”
Cậu bé nhận xét sau khi Mary buông bắp tay trái của mình ra. Lớp băng quấn ngang bắp tay giờ đã đen xì không rõ nguyên do. Cậu bé tháo băng ra, để lộ một Ma Ấn được viết bằng Diêm ngữ trên bắp tay Mary, với máu đen chảy ra không ngừng ngay sau khi lớp băng được tháo. Chúng vốn là Thánh băng do một số Tu sĩ trong Thị trấn tặng nhằm kiềm hãm lại ma lực của cơn bệnh, nhưng có lẽ chúng vẫn không đủ để ngăn chặn một lời nguyền đến từ một trong 72 vua quỷ của Địa ngục.
Phải…cơn bệnh và lời nguyền. Thứ mà Mary đang chịu đựng chính là dung hợp của cả hai. Nó là một lời nguyền rủa của quỷ, nhưng lại đến mang nhiều đặc tính của một cơn bệnh thông thường. Nó chưa có một cái tên chính thức, nhưng trong mắt vô vàn nạn nhân của con quỷ, nó được đặt tên theo kẻ thủ ác tàn độc – lời nguyền của Glasya-Labolas. Được truyền vào nạn nhân khi con quỷ trút máu của mình và lẫn vào cơ thể kẻ xấu số. Lời nguyền khi đó sẽ gây nên một nỗi đau đớn tột cùng lên cơ thể kẻ dính phải, và đến một lúc ngẫu nhiên nào đó, một là cơ thể của nạn nhân sẽ không còn sức chịu đựng và chết, hai là người bệnh bị biến thành quỷ nếu như còn sống được tới ngày đó. Dù là kết cục nào thì cũng thật là đau lòng. Đó là trò chơi của quỷ, như những nạn nhân còn sống hay nói: Glasya-Labolas tạo nên lời nguyền này để làm một trò cá cược tiêu khiển với các Vua quỷ khác: “Liệu sẽ tốn bao lâu, cho đến khi chúng ngừng van xin “Cứu tôi” và thay vào đó thét lên “Giết tôi đi !” để giải thoát chính mình ?”
Trong Kỉ Bóng Tối, Glasya-Labolas đã bị Lục đại anh hùng tiêu diệt, và những nạn nhân của nó đã dần dần hồi phục sau khi không còn cảm giác đau đớn. Nhưng dường như bóng ma của nó vẫn còn ám ảnh thế gian này, con cháu của những người từng là nạn nhân, đến một lúc ngẫu nhiên nào đó trong cuộc sống cũng bắt đầu xuất hiện triệu chứng của lời nguyền này. Do tính chất di truyền, người ta gọi nó như một căn bệnh và bắt đầu tìm kiếm thuốc chữa trong vô vọng. Cậu bé đã mất một người mẹ do nó, liệu tiếp theo sẽ tới lượt cô em gái luôn chăng ? Hay đến một lúc nào đó, chính cậu nhận ra bản thân cũng đang nằm trong tình trạng tương tự ?
“Xong rồi này…”
Cậu bé hoàn tất khâu băng bó lại Ma ấn của con bé. Dường như trong tương lai, con bé có nguy cơ trở thành Quỷ…chứng cứ có lẽ là do màu máu của Mary, nó đã trở nên đen thẫm như máu quỷ. Nhưng không sao, vẫn còn thời gian… - cậu bé nghĩ. Căn bệnh này tốn một thời gian dài mới phát tán hoàn toàn, trước đó chỉ là một chuỗi đau đớn không kiểm soát được, thế nên đa số người mắc phải mà chết sớm đều do chịu không được sự đau đớn này. Cậu bé chỉ mong Mary đủ mạnh để có thể chịu đựng được…cho đến ngày tìm được thuốc giải, hoặc đến khi chính cậu tạo ra được thuốc giải.
Đã gần một năm kể từ khi lời nguyền phát tán. Đó cũng là lúc mà gia đình ibn Hayyan trở nên lạnh lẽo hẳn đi. Cha cậu – vị cảnh sát trưởng, liên tục bù đầu vào công việc, xa cách với cả cậu lẫn cô con gái, giống như chuẩn bị tâm lý cho bản thân để chờ đợi ngày định mệnh mà thi hành án tử. Điều đó khiến cho mọi việc trong nhà rơi vào tay của cậu bé 6 tuổi này. Nhưng cậu không màn chuyện đó, Aster ibn Hayyan…nhất định sẽ không bao giờ bỏ cuộc !
“Em thấy thế nào rồi ?” – Cậu bé Aster nói.
“Đỡ hơn nhiều rồi…cảm ơn anh hai.” – Mary nằm xuống ghế bành, cô bé 4 tuổi nở một nụ cười hồn nhiên nhưng gượng ngùng trong cơn đau để xoa dịu anh trai mình. – “Cà ri hôm nay anh nấu ngon lắm. Cảm ơn anh.”
Cậu bé quay đầu về chiếc dĩa cơm cà ri trống trên chiếc bàn thấp gần đó, không còn một hạt cơm nào được sót lại. Dù cay, dù nóng, Mary vẫn ăn hết bữa sáng của mình. Với cô bé, đó là món ăn mà Mary có thể cho là “yêu thích”. Không hẳn là do ngon, vì nó rất là nóng và cay. Có lẽ…do nó là thứ duy nhất mà anh trai cô bé biết nấu, thế nên, chỉ cần là món nào Aster nấu, với Mary, nó sẽ luôn là món mà cô bé yêu thích.
“Cứ như được ăn đồ ăn mẹ nấu vậy.” – Mary nói tiếp.
“Thì công thức nấu là do mẹ truyền lại cho anh mà.” – Cậu bé 6 tuổi trả lời – “Và cũng là món duy nhất mẹ biết nấu…Đó là cà ri gia truyền của dòng họ ngoại chúng ta đó ! Em liệu mà nhanh chóng khoẻ lại đi, chứ không về sau anh lấy vợ, thì món cà ri đó sẽ thất truyền cho mà coi !”
“Hi hi. Đã rõ…” – Mary lại nở một nụ cười nhẹ, lần này có vẻ tươi vui hơn nụ cười ban đầu. – “Em sẽ chờ cho tới ngày bản thân có thể khoẻ mạnh lại, để mà nấu cà ri cho anh…và cho cha ăn.”
“Ừm…từ giờ tới lúc đó. Hãy cố gắng đợi anh.” – Aster nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của con bé, bóp nhẹ nó để thể hiện quyết tâm của bản thân. Aster biết những gì mình mong muốn có lẽ là rất điên rồ, do cả cha cậu cũng đã bỏ cuộc, nhưng cậu không muốn để quảng thời gian còn lại trong cuộc đời bản thân được dùng để quan sát cái chết báo trước của cô em gái.
~Leng keng~
Ngay khi Mary bắt đầu nằm xuống và cố gắng ngủ trở lại, cánh cửa phòng khách được mở tung ra, nhanh nhưng không hề mạnh bạo. Bước vào trong là một người đàn ông to lớn, bận trên mình một bộ quân phục cũ, nay được dùng như một loại đồng phục làm nhiệm vụ. Tấm phù hiệu hình ngôi sao vàng trên ngực cho thấy người này là vị cảnh sát trưởng uy danh, một trong những tay súng lợi hại nhất hoang mạc phương Nam. Người đời đồn đại rằng ông từng bị bắn những 50 lần trên lưng, nhưng vẫn sống sót và tiếp tục thực thi nhiệm vụ cảnh sát trưởng. Mỗi khi người đàn ông với hàng râu nâu lởm chởm dưới cằm xuất hiện tại đâu, thì cứ biết rằng mọi cuộc ẩu đả, hỗn loạn nào đang diễn ra đều phải chuẩn bị mà kết thúc. Đó có thể cho là hình ảnh của Bill ibn Hayyan trong mắt người dân phương Nam. Nhưng với Aster, vị gia chủ này chỉ là một ông bố tệ bạc, ngoại trừ đem tiền về cho gia đình thì Bill không hề làm một việc gì khác cả.
“Vào đây.”
Bill không nói gì với cậu con trai đang nhìn về phía mình ngay khi bước chân vào cửa, ông chỉ nói cho kẻ đi theo sau ông nghe. Mà dùng từ “đi sau” có lẽ hơi sang trọng cho một tên tội phạm. Tay của Bill cầm đầu của sợi dây xích nối tới vòng cổ tay ma thuật kìm hãm tên tội phạm phía sau ông lại. Một khi bị còng bởi thứ này, chỉ cần không phải thần thánh hoặc quỷ thần hoặc những ai đủ mạnh để gọi như vậy, thì sẽ không thể nào sử dụng được phép thuật hoặc dùng sức để giải phóng bản thân.
“Này này. Ông giảm nhẹ bản án được không cảnh sát trưởng ? Tôi chỉ để quên ví tiền tại nhà hàng thôi mà, có cần phải giam tôi lại đâu ?”
“Thế thì vào trong đó chờ ví mọc chân ra để chạy đến tìm ngươi đi. Tên ăn quỵt. Ta còn nhiều chuyện khác phải làm.”
Bill dắt tên tội phạm xấu số vào trong phòng khách, ông mở cửa xà lim rồi nhanh chóng tống tên ăn quỵt miệng mồm lẻo mép vào trong. Những chuyện như thế này Bill thường giao cho nhà hàng chịu trách nhiệm xử lý, nhưng tình thế hiện tại không được bình thường cho lắm. Tên ăn quỵt này lợi dụng một vụ ẩu đả trong nhà hàng để chạy thoát, Bill dự định ngăn cản cuộc ẩu đả, nhưng quy mô của nó khá lớn, khoảng 20 người đánh nhau vì bất đồng quan điểm trong việc chia chiến lợi phẩm phiêu lưu. Bill cần thêm hỗ trợ, nên ông mới tiện tay bắt tên này về để giam giữ khi đi gọi đồng minh và về nhà lấy thêm vũ khí. Khẩu súng bạc gia truyền trên thắt lưng của ông dù lợi hại, nhưng để đối đầu với nhiều phiêu lưu giả cùng một lúc, Bill cần hoả lực mạnh hơn nữa. Ông lấy một khẩu súng săn hai nòng chuyên dùng để diệt…voi rồi bước đến cửa ra sau khi khoá xà lim lại.
“Canh chừng tên đó cho cẩn thận, Aster.”
“Vâng…”
Bill đóng ập cửa lại, những gì còn lại Aster nghe được chính là tiếng vó ngựa của cha và đồng đội. Căn nhà trở dần trở nên im ắng sau khi cơn bão tên gọi Bill đi qua. Mary lúc nãy chỉ giả vờ ngủ để yên thân, bây giờ cũng bắt đầu ngồi dậy trở lại. Nếu có thứ gì con bé sợ hơn cái chết, có lẽ là chính cha của mình – người đã đích thân nổ súng hạ sát người mẹ đang dần trở thành quỷ…
“Em có sao không Mary ?” – Aster hỏi khi cậu bắt đầu cầm bát đĩa và ly tách đi dọn dẹp.
“Không…em không sao…Em chỉ sợ thôi.” – Mary nói – “Cha cầm súng săn…nghĩa là sắp có đổ máu.”
“Đó là trách nhiệm của một cảnh sát trưởng…em hiểu chứ Mary. Để duy trì bình yên của một quần thể, thì những cá nhân gây hại cần phải được triệt tiêu…” – Như mẹ của chúng ta vậy…Aster muốn nói thế, nhưng làm vậy chẳng khác nào dùng dao đâm một vết thương đang rỉ máu. – “Thôi em nghỉ đi. Đã có anh ở đây rồi, không cần sợ đâu.”
“Vâng…” – Mary lặng lẽ nói, rồi cố gắng trở lại giấc ngủ.
Hầy… - Aster thở dài, việc nhà còn nhiều, cậu bé không có thời gian để tiếp tục lo lắng suy tư. Sau khi rửa bát đĩa và ly tách, Aster trở lại ra phòng khách rồi nhặt lấy mớ Thánh băng đã ngả đen do máu. Nhìn chúng, Aster không tránh khỏi suy tư, cậu tự hỏi còn bao nhiêu lâu nữa là sẽ tới ngày định mệnh…
“Qủa là một căn bệnh kì lạ mà em gái cậu nhiễm đấy, cậu nhóc nhỏ.”
Một giọng nói lạ lẫm phát ra, Aster, tay cầm mớ băng đen, đứng dậy mà bàng hoàng không biết âm thanh đó đến từ đâu. Cha cậu đã đi, Mary đang cố ngủ. Cả phòng chỉ có một vị khách lạ không mời được cha cậu đưa tới. Đó là tên ăn quỵt đang ở trong xà lim.
“Ông thì biết gì chứ !”
Aster phản đáp và lên giọng trước kẻ lạ mặt. Hắn ta khá cao, nhưng dáng người lại thư sinh vô cùng. Dáng vẻ sơ qua của hắn ta không cho thấy tên này là người có học thức, hắn giống một tên phiêu lưu giả vô dụng, đóng vai trò tấu hài nhiều hơn là đánh đấm. Aster do vẫn còn con nít, nên cậu không biết rõ phục trang hắn ta đang mang là gì, nhưng với con mắt của người thường, y phục của hắn ta cũng vô cùng lạ lẫm: một loại lễ phục đen đỏ kì lạ, với áo đen mang bên trong, còn áo đỏ khoác ngoài kể cả khi nơi đây là hoang mạc. Nhưng nếu có gì kì lạ hơn, có lẽ là màu tóc và màu mắt của hắn: tóc của hắn bạc trắng như người già, còn mắt thì lại đỏ rực như màu máu.
“Tôi biết đủ những gì cần biết, cậu nhóc nhỏ ạ.” – Người lạ mặt đứng dậy, đi đến ngay cạnh cổng xà lim rồi nói – “Lời nguyền của Glasya-Labolas. Trên chuyến phiêu lưu của tôi, số người mắc phải nó cầu xin được chết tôi mà thấy không hề ít tí nào. Thế…theo cậu, hiểu biết của tôi liệu có đáng tin không ?”
“Nếu như ông không biết cách giải thì kiểu nào cũng vô dụng.” – Cậu bé Aster trả lời.
“Đó lúc nào cũng là vấn đề cả.” – Người lạ mặt nói – “Vì thế, bọn họ - những nạn nhân đó - cần những người như cậu để tìm ra thuốc giải nhằm cứu nhân độ thế.”
“Rốt cuộc ông muốn gì hả ? Ông muốn tôi mở xà lim cho ông chạy thoát bởi vì ông cứ liên tục bợ đít tôi à ?” – Aster phản đáp.
“Ô hô. Còn bé mà ăn nói mạnh bạo thế nhỉ. Giống y chang cha cậu.” – Người lạ mặt lùi lại vài bước khi Aster lên giọng, hắn ta tạo cho người đối diện hình ảnh của một kẻ yếu thế, nhưng thực ra chỉ giả vờ nhằm châm chọc đối phương. Nếu có loại người nào mà Aster thật sự ghét, có lẽ là những tên như thế này. – “Ờ mà cậu nói đúng thật. Giờ cậu biết luôn ý định của tôi rồi, vậy chắc không cần dụ khị nữa, bỏ qua khâu đó rồi mở xà lim cho tôi luôn nhé ? Hì hì.”
“Ngồi trong đó chờ đến mục xương đi !” – Aster trả lời, cậu làm ngơ và bỏ mặc luôn tên đó. Aster cầm mớ băng dính đầy máu đen bỏ thùng rác. Sau khi ăn xong bữa trưa của mình trong bếp – vốn cũng là cà ri, Aster trở lại phòng khách. Tên tội nhân giờ này đã ngồi im, hướng về phía cửa sổ nhỏ đối diện hắn mà nhìn vào ánh mặt trời bên ngoài. Mary đã dần thiếp đi. Có lẽ tên này không tệ như Aster tưởng, ít ra hắn ta không cố dụ khị Mary sau khi thất bại với Aster như nhiều tên tội nhân khác bị cha cậu giam giữ. Hoặc hắn đã cố, nhưng Mary thì thiếp đi từ lúc nào rồi…
Aster trở lại bàn làm việc. Cậu mở quyển cổ thư khi nãy ra và tiếp tục công việc tái tạo lại những phần đã mất. Mọi chuyện tiếp tục im ắng trong hơn 1 tiếng nữa. Mary lúc này đã say ngủ, Aster vẫn chìm đắm trong công việc. Nhưng lạ thay, người lẽ ra phải là nhân tố lạ nhất trong tình cảnh này – tên phạm nhân, cũng im lặng theo, không làm phiền hà gì đến trật tự ban đầu trong căn phòng. Aster đã quen với việc bị những người trong xà lim gây phiền nhiễu khi đang làm việc, nhưng đây là lần đầu cậu bé gặp một tên im lặng như vậy mặc dù hắn ta đã mở miệng dụ khị cậu ta. Aster quay lại, nhìn ngắm kẻ lạ mặt một tí, và cậu để ý rằng…thứ hắn đang ngắm nhìn thật sự không phải là ánh mặt trời chói chan ngoài kia, mà là một chậu cây chết khô ở trên cửa sổ xà lim.
“Này nhóc.” – Cứ như có mắt ở sau gáy, tên ăn quỵt kia lên tiếng ngay khi Aster quan sát hắn được một lúc. – “Nhóc có biết tại sao cây quang hợp không ?”
“Để duy trì sự sống cho chính nó ? Chẳng phải đó là kiến thức thông thường ư ?” – Aster trả lời. Chuyện này so với những gì cậu đang nghiên cứu chỉ là trò vặt vãnh trẻ con.
“Đó là một phần, phần còn lại là để tạo ra Oxi cho chúng ta thở.” – Kẻ lạ mặt nói – “Cũng thật oái ăm thay, khi về đêm, chúng lại tạo ra khí cacbon đioxít như cách hô hấp của sinh vật sống. Có lẽ cậu cũng biết cacbon đioxít có lợi gì cho chúng ta rồi chứ nhỉ ?”
“Ý của ông là gì ?”
“Chẳng có gì hết, chỉ là một chút suy nghĩ bâng quơ của một lãng khách mà thôi.” – Gã nói – “Nhóc này, cậu có nghĩ rằng thật là lạ…khi hệ thống ma thuật của cả thế giới này được xoay quanh ánh sáng không ? Các pháp sư, không, bất cứ chiến binh nào đều có thể tung hoành dưới ánh sáng, nhưng khi vì đêm, họ trở thành một đám vô dụng.”
“Nghĩa là…?”
“Theo một cách nói nào đó, chẳng phải sinh linh chúng ta cũng như cây cỏ à ?” – Người đàn ông quay lại Aster và nói – “Khi tràn ngập trong ánh sáng ấm áp và vui vẻ, chúng ta cảm thấy hạnh phúc, và tạo ra hạnh phúc cho người khác. Nhưng trong bóng tối của tuyệt vọng, chúng ta lại giỏi làm khổ người khác nhiều hơn.”
“Tôi vẫn chưa hiểu lắm.” – Aster lại hỏi.
“Hy vọng, cậu nhóc ạ. Hy vọng. Tôi biết những gì tôi nói rất khó hiểu và phi logic, vì bản thân ta còn không hiểu được huống gì nhóc đây. Ha ha.” – Gã lạ mặt cười nhẹ - “Chỉ là, tôi thấy nhóc nghiêm trọng quá, trong khi với tuổi trẻ, thứ quan trọng nhất lúc nào cũng chính là nụ cười. Phải, nụ cười bằng mười thang thuốc bổ, cứ như tôi này, nhìn đi.”
Người đàn ông tóc trắng mắt đỏ nở ra một nụ cười lớn như để minh hoạ cho những gì mình nói.
“Ông đừng nghĩ nói triết nửa mùa có thể kéo ông ra khỏi xà lim.” – Aster nói tiếp – “Và cái chậu cây đó chết do bị chiếu nắng quá nhiều và thiếu nước do không ai tưới, chứ không phải quang hợp kém mà chết để cho ông vịnh ra mấy thứ triết lí đó đâu.”
“Hừ. Nhóc này chẳng vui tính gì cả.” – Gã ta dỗi – “Một lời nói cuối: Nếu như nhóc muốn cứu lấy em gái, thì hãy làm điều đó với nụ cười tràn ngập hy vọng trên môi. Chứ nếu cứ tiếp tục như nhóc hiện giờ, nhóc chỉ gây đau đớn cho những người xung quanh mà thôi.”
“Tôi không cần một kẻ như ông dạy bảo !” – Aster quay trở lại bàn làm việc, hoàn toàn lờ đi gã lạ mặt trong xà lim. Dù vậy, cậu bé 6 tuổi có bị ảnh hưởng không ít thì cũng nhiều. Cây bút vốn lúc nào cũng múa quanh quanh trên tập giấy trắng giờ lại đứt quãng liên tục. Aster ghét cảm giác này…cảm giác khi sự thật đâm xuyên qua dối trá, nó như giọt nước rớt vào một mạch điện đang hoạt động ngon lành. Để có thể đạt được nguyện vọng, Aster cần giỏi hơn, giỏi một cách toàn diện, hoàn hảo. Cậu không cần bất cứ thứ gì gây cản trở cả… Tên đó…hắn biết gì chứ, hắn không hiểu cậu, không bao giờ có thể hiểu cậu được !
ẦM ẦM
Tiếng đập cửa khiến Aster thoát khỏi suy nghĩ mơ hồ. Khách à ? – Cậu bé nghĩ. Tiếng đập cửa lại vang lên, lần này liên hồi hơn, mạnh hơn, khiến bụi cửa bay lung tung gần đó. Aster không đợi cho khách bên ngoài lên tiếng gọi chủ nhà, cậu bé nhanh chóng nhảy khỏi ghế làm việc mà chạy đến mở cửa.
Trước mặt cậu bé 6 tuổi là một nhóm 4 người, kèm theo một người quen mặt là ông Thị trưởng. Trừ Thị trưởng, những người còn lại mang áo khoác dài màu trắng có mũ trùm đầu, tạo nên cho họ cảm giác bí ẩn nhưng vô cùng nghiêm trang. Trên thắt lưng họ có nhiều dây đeo chứa vật dụng hỗ trợ, kèm theo kiếm, đao, vũ khí nhiều loại. Họ là ai ?
“Đây là nhà ibn Hayyan ?” – Một giọng nói trẻ tuổi vang lên, nhưng người đó không nói với Aster, mà là ông Thị trưởng.
“Vâng vâng…đích thị là đây.” – Ông Thị trưởng gật đầu lia lịa, sau đó nhìn vào mắt của Aster với cái nhìn cảm thông, tiếc nuối. Như thế đủ cho cậu bé nhận ra mình vừa rước một tai ương vào trong nhà.
“Tản ra !” – Giọng nói trẻ tuổi ra lệnh, ngay lập tức, ba người áo khoác trắng còn lại lao vào trong, đẩy cả Aster ra khi cậu bé vô vọng cố gắng giữ bọn họ lại. Aster ngay sau đó nghe rõ tiếng lục lọi ở sau nhà. Chẳng nhẽ là cướp à ? – Cậu bé nghĩ. Nhưng không có băng cướp nào được đích thân Thị trưởng mời đến nhà nạn nhân. Họ cao quý hơn thế, vậy, rốt cuộc họ là ai ?
“Đây là cô bé đó ư ?” – Người chỉ huy trẻ cũng bước vào trong nhà, hắn ta nhìn vào Mary – cô bé 4 tuổi vẫn đang say ngủ, sức khoẻ yếu của cô bé khiến cho Mary một khi đã chìm vào giấc ngủ thì rất khó để mà tỉnh dậy trừ khi được đích thân người khác đánh thức.
“Vâng. Đúng là con bé.” – Lão thị trưởng lại gật gù. Tay cầm chiếc khăn mù xoa rẻ tiền cố gắng quẹt hết mớ mồ hôi đang chảy không dứt trên gương mặt đầy nếp nhăn của lão.
“Mấy người tính làm gì ???” – Aster nói lớn, cậu bé nhanh chóng lao về hướng của Mary, đưa hai tay chắn ngang không cho tên chỉ huy trẻ tiến thêm bước nữa về phía Mary.
“Thưa ngài, đây ạ.” – Một giọng nữ trong nhóm 4 người nói sau khi hoàn tất quá trình tìm kiếm, trên tay của người đó…là dải Thánh băng mà Aster đã tháo ra khỏi tay Mary, vẫn còn đó dòng máu đen dính ở trên…. – “Không còn nghi ngờ gì, đây là máu quỷ…”
“Vậy Ma Ấn đang dần biến cô bé thành quỷ…Có lẽ chuyện này không thể tránh được rồi. Cảm ơn ông, ngài thị trưởng, đã báo cáo cho chúng tôi biết về chuyện này. Nếu như để lâu hơn mà không có hành động gì, tôi sợ thương vong cho cả Thị trấn sẽ không ít.” – Người chỉ huy trẻ trạc tuổi 20 nói, kèm theo một câu nói mỉa mai châm chọc – “Như thế ắt hẳn sẽ không tốt cho cuộc vận động nhiệm kì hai và ba của ông nhỉ…?”
Lão Thị trưởng không nói gì, chỉ gật gù liên tục, kể cả khi ánh mắt căm ghét của cậu bé Aster đang hướng về phía lão ta.
“Các người định làm gì ???” – Aster thét lớn, cậu tiếp tục đưa bản thân ra làm khiên chắn cho Mary.
“Làm những gì cần làm. Tránh ra ngay, cậu bé, nếu không thì đừng trách ta độc ác.” – Tên chỉ huy nói.
“Không !”
Đáp lại lời nói mạnh bạo của Aster…là một cú đánh tạt ngang ngay má. Lực đánh khiến Aster văng vào tủ sách gần đó, khiến cho sách vở đổ ngổn ngang, giấy tờ phát tán khắp nơi trong phòng, bay lơ lửng trong không khí.
Trong lúc Aster cố gắng dựng dậy, tên chỉ huy rút kiếm khỏi vỏ. Một thanh kiếm sáng loáng, đủ hoa văn để nói rằng đây là bảo kiếm, không phải mua ở đâu cũng được, nhưng sự thiếu thốn chi tiết đủ cho người khác biết đây vẫn là vũ khí dùng để lấy đi sinh mạng, chứ không phải hàng trưng bày cho các gia tộc giàu có. Một người khác trong nhóm cũng lục túi, gã ta cầm một quyển sách có biểu tượng thập tự trên thân ra và đọc to nội dung bằng thứ ngôn ngữ lạ lẫm của Tổ chức cả nhóm phục vụ. Tất cả như một buổi tế lễ uy nghiêm nào đó, với Mary là vật tế, người đọc sách là thầy tu, còn tên cầm kiếm…là kẻ hành hình.
“Cầu cho linh hồn của những kẻ sa ngã được siêu thoát.” – Người chỉ huy trẻ nói lên vài câu niệm rồi cầm kiếm vung xuống. Tốc độ của nó…dĩ nhiên phải nhanh hơn tốc độ của một cậu bé 6 tuổi đang lao tới cố gắng van xin gấp nhiều lần.
KENG
Mọi hy vọng hầu như đã bị dập tắt, thanh kiếm sắt lao thẳng xuống mục tiêu. Nhưng liệu âm thanh của kim loại lao vào xác thịt có để lại một tiếng động như thế không ? Chắc chắn là không. Chưa có lúc nào mà Aster cảm thấy những người tạo ra chiếc còng tay mà nhà cậu dùng lại tài ba đến thế, vì đó là thứ đã bảo vệ cho em gái Mary của cậu khỏi đường gươm tử thần. Trong lúc gã cầm kiếm tung kiếm, tên ăn quỵt trong xà lim không biết làm cách nào mà thoát khỏi đó rồi lao ra, dùng chiếc còng đỡ lấy đường kiếm, bảo vệ Mary cũng như chính bản thân hắn ta.
Aster quay sang nhìn lại xà lim. Một phần song sắt đã bị cắt đi không rõ vì thứ gì. Thật là vô lí, không tính tới cặp còng làm giới hạn khả năng sử dụng ma thuật, cả xà lim cũng được các kĩ sư gia cố để tác nhân vật lý thông thường không làm gì được. Dễ dàng vượt qua hai thứ đó…liệu đây là một tên ăn quỵt bình thương ư ?
“Ngươi…ngươi có biết ngươi đang làm gì không tên kia ?” – Tên cầm kiếm nói, giọng của gã dù vẫn giữ được bình tĩnh, nhưng đã có chút ít giận dữ lộ ra.
“Chống đối người thi hành công vụ chứ gì ? Không cần bảo tôi cũng biết. Đao phủ trẻ tuổi của Toà án Dị giáo ạ.” – Tên ăn quỵt cười nhẹ và trả lời.
Toà án Dị giáo. Đó là một chi nhánh của Bộ giáo dục, dù trực thuộc Bộ, nhưng nó giống như một tổ chức quân sự riêng lẻ, được lập ra để giải quyết những vấn đề liên quan tới Ma tộc, quỷ và những thứ đi ngược lại luật lệ tự nhiên của ma thuật mà Bộ giáo dục đề ra – gọi chung là Dị giáo. Những chiến binh mang trên mình áo khoác trùm đầu trắng tinh, họ được gọi là Đao phủ - những người hành hình của Toà án.
“Ngươi biết luật đó à ? Nếu vậy, ta không biết liệu ngươi có hiểu chúng ta trừng phạt những kẻ vi phạm như thế nào không ?” – Gã Đao phủ trẻ bắt đầu cười nhẹ khi con mồi mới xuất hiện, gã gia tăng thêm lực cho thanh kiếm, cố gắng cắt đứt chiếc còng sắt để lao xuống ngay người tên phá đám trước mặt.
“Điều 4, khoản thứ 4, bộ luật Toà án Dị giáo: Những kẻ phạm vào Điều 3, khoản 4 – Chống đối người thi hành công vụ, bị kết án tử không cần xét xử bởi bất cứ Đao phủ nào gần nhất.” – Trong lúc ba Đao phủ còn lại chuẩn bị vũ khí, tên ăn quỵt bắt đầu nói lên những điều luật hệt như ngôn ngữ mẹ đẻ. Dù cách diễn đại còn sai như em bé bụ bẫm tập nói, nhưng nội dung chắc chắn là chính xác, đủ khiến cho toàn bao Đao phủ trong phòng khựng lại vì điều đó. – “Có vẻ như đúng rồi nhỉ ?”
“Làm sao ngươi biết được chuyện này ?” – Một tên Đao phủ bên ngoài nói.
“Tôi biết sao không quan trọng. Vả lại, nếu mấy người xem kĩ lại, tôi chưa hề vi phạm vào điều luật đó cả.”
“Cái gì ?” – Một nữ Đao phủ lên tiếng – “Ngươi rõ ràng chặn kiếm của ngài Berard, như thế còn chối cãi được nữa à ? Mọi người trong căn phòng đều có thể đứng ra làm chứng cả.”
“Các người có giấy xét xử từ Toà án không ?” – Tên ăn quỵt nói – “Điều 5, khoản 1, bộ luật Toà án Dị giáo quy định: Mỗi nhiệm vụ của Đao phủ chỉ được phép bắt đầu sau khi được cấp trên trao cho giấy xét xử để thực thi nhiệm vụ.”
“Điều 4, khoản 2, bộ luật Toà án quy định: Nếu một Đao phủ gặp sinh vật dị giáo, những người có các đặc điểm trùng với những điều được nêu trong Quy định nhận dạng dị giáo, những người bị tình nghi là thực tập dị giáo hoặc giúp đỡ người dị giáo, Đao phủ được quyền xử tử tại chỗ.” – Người được gọi là Berard phản bác.
“Như thế mâu thuẫn với Điều 5, khoản 1. Điều mà cậu vừa nói vốn chỉ được thi hành trong khi Điều 5, khoản 1 có hiệu lực. Tức là…các cậu phải ở trong một nhiệm vụ nào đó, có được giấy xét xử của Toà án Dị giáo thì mới được phép thực thi Điều 4, khoàn 2. Nếu như không thực thi nhiệm vụ mà các cậu ra tay, như thế không được gọi là bài trừ dị giáo…” – Tên ăn quỵt nói tiếp – “…mà là giết người. Chắc vị Đao phủ trẻ tuổi đẹp trai trước mặt tôi không thích biệt danh Kẻ giết con nít đâu nhỉ ? Nếu nhìn sơ qua, có lẽ các vị Đao phủ trai thanh gái tú đây vừa thực thi nhiệm vụ về và nghỉ chân tại Thị trấn, sau đó ông Thị trưởng đáng kính đi ngang qua và ngụ ý lo sợ về con bé mang Ma Ấn. Nhân lúc gấu cha vắng nhà, cả 5 anh em các người nhào vô trong và quyết định thực thi công lý. Nếu như các người đã hoàn thành nhiệm vụ rồi thì ắt hẳn giấy xét xử đã hết hiệu lực, nhưng nếu vẫn chưa, thì xin mời…”
Tên ăn quỵt ngay sau đó buông lỏng tay ra và đứng sang một bên, dọn đường đến chỗ Mary cho người được gọi là Berard .
“Ngươi…làm thế nào mà ngươi biết được những thứ này ?”
“Tôi cũng không rảnh mà đi học luật lệ lạ lẫm. Chỉ là bản thân tôi từng gặp trường hợp tương tự như thế này, và may mắn thay, trong tay tôi lúc đó đang cầm quyển Luật nhỏ gọn của Toà án Dị giáo. Thế là chuyện xảy ra gần như y hệt những gì các vị đang trải nghiệm.”
“Hừ…” – Vị chỉ huy im lặng, không làm gì thêm. Đúng như lời kẻ lạ mặt nói, nhóm người của tên này vừa đi làm nhiệm vụ về và gặp ngài Thị trưởng. Tự nhủ bản thân đây là điều đúng đắn, tự nhủ lương tâm rằng một cái chết nhỏ sẽ cứu lấy cả trăm người, gã chỉ huy trẻ đã quyết định nhận việc…nhưng lại gặp tình cảnh như thế này. Liệu thật sự may mắn lúc nào cũng đứng về những kẻ quái dị ?
“Ngài Berard ?” – Một người trong nhóm Đao phủ nói.
“Hắn ta nói đúng, chúng ta nhận việc này mà không có giấy của Toà án. Nếu như tiếp tục, chúng ta sẽ là sự hổ thẹn cho mọi người. Còn chờ gì nữa mà không nhanh rút quân !”
“Vâ…vâng !!!” – Ba người còn lại nhanh chóng nhận lệnh, liền tra vũ khí vào vỏ rồi nhanh chân chạy ra ngoài cùng với lão Thị trưởng.
“Ngươi có biết ngươi vừa làm gì không tội nhân ? Nếu như con bé kia tiếp tục sống, đến thời khắc định mệnh mà số phận đặt ra, nó sẽ hạ sát cả cái thị trấn nhỏ này, rồi chuyển sang mục tiêu khác cho tới ngày bị tiêu diệt. Ngươi có định chịu trách nhiệm cho chuyện đó không ?”
“Đó là chuyện của cậu nhóc này đây.” – Gã ăn quỵt vỗ vai của cậu bé Aster – người quan sát mọi chuyện từ đầu tới giờ bằng đôi tay bị còng chặt lấy. – “Nó sẽ là người quyết định cho số phận của em gái mình, không phải là một kẻ xa lạ như tôi…”
“…” – Gã Đao phủ im lặng, nhưng bên dưới lớp áo mũ trùm đầu, có một nụ cười nhẹ ngắn ngủi được hiện lên. – “Ta là Thomas Berard, đội trưởng đội Đao phủ số 4 của Toà án Dị giáo. Ta có cảm giác chúng ta sẽ gặp lại nhau vào một ngày không xa. Liệu ta có thể được biết danh tánh của kẻ dám cả gan lao ra chặn gươm của Thomas Berard này không ?”
“Tôi là người tốt.” – Gã ăn quỵt tự xưng là “người tốt” nói – “Cậu chỉ cần biết thế là đủ, Đao phủ trẻ tuổi.”
------
Aster bừng tỉnh giấc. Trước mặt cậu là trần nhà của một nơi không hề quen thuộc. Xung quanh tràn ngập mùi thuốc sát trùng. Thật không khó để đoán nơi này là Trạm xá của trường. Aster ngồi dậy, các vết thương dù đã lành nhưng vẫn còn cảm giác đau đau. Cậu sờ lên cổ, sợi dây chuyền mang theo hình em gái Mary của cậu đã biến mất. Có lẽ cậu đánh rơi ở đấu trường, chắc một ai đó đã nhặt được và gửi về cho cậu.
“Một giấc mơ từ quá khứ à…” – Aster tự lẩm bẩm. Đã hơn 10 năm kể từ ngày đó, cũng chính “người tốt” là kẻ đã trao một thứ gọi là hy vọng đến với Aster. Nhưng khoảng thời gian 10 năm dài phần nào đã khiến cậu quên mất hy vọng và trở thành kẻ mà ai cũng ghét như ngày hôm nay. Liệu đó có thật là cái giá đáng phải trả để tìm được thứ mà cậu hằng mong muốn ?
Dù sao Aster cũng không còn thời gian để suy nghĩ bâng quơ như thế, cậu ngồi dậy, mang lại y phục và vũ khí của mình.
“Chướng khí tụ hội xung quanh. Đêm nay có lẽ sẽ không bình thường như mọi đêm khác.” – Aster nói – “Dawn…”
/14
|