Việc chuyển nhà đã được quyết định nên tiến hành rất nhanh. Người trong thôn cảm động vì Tiêu Phương thường tới chữa bệnh cho thuốc nên đều tới giúp, nhanh chóng chuyển hết tất cả dược liệu, trúc giản xuống núi. Nghĩa mẫu lại càng chăm sóc nàng cẩn thận từng ly từng tý, dường như muốn vãn hồi sự tiếc nuối đối với đứa con gái đã mất sớm của mình.
“Tỷ tỷ, có trẻ con trong bụng của tỷ à?”, Tiểu Hổ Tử ngồi dưới chân Hàn Nhạn Thanh, chớp chớp mắt nhìn vào bụng nàng với vẻ e dè.
“Đúng vậy đấy.” Hàn Nhạn Thanh cười híp mắt, vuốt tóc cậu bé, cảm thấy cậu em mới kết nghĩa của mình rất dễ thương. Mặc dù cậu bé mặt mày xanh xao, thân hình hơi gầy yếu nhưng nếu được nuôi dưỡng tốt mấy năm thì sẽ là một đứa trẻ đáng yêu.
“Tiểu Hổ Tử này, tỷ tỷ hiện giờ đang giúp sư phụ cất nhà mới nên không có thời gian săn sóc cho đệ. Lộng Triều ca ca có võ công đấy, đệ học ca ca một chút đi, sau này có thể bảo vệ cho mẫu thân và tỷ tỷ.”
“Thật sao?” Ánh mắt Tiểu Hổ Tử sáng lên nhưng lại ảm đạm đi rất nhanh, “Đệ muốn giúp mẹ làm việc.”
“Không sao đâu.” Hàn Nhạn Thanh cười híp mắt vỗ vai cậu bé, “Bây giờ đã có tỷ rồi.” Nàng dẫn dụ từng bước, “Chuyện kiếm sống trong nhà đã có tỷ tỷ là người lớn làm. Đệ phải học võ công thật tốt để sau này bảo vệ cho mẫu thân và tỷ tỷ, còn cả cháu trai trong bụng tỷ tỷ nữa.”
“Vâng.” Tiểu Hổ Tử gật mạnh đầu. Thân đại nương từ bên ngoài mang thuốc dưỡng thai đi vào, bật cười nói, “Con đó, huyên thuyên vừa thôi.” Bà cũng không tin Hàn Nhạn Thanh có cách kiếm sống nuôi cả nhà nhưng vì cảm động trước tâm ý của nàng cũng không đành lòng trách móc, quay sang bảo Tiểu Hổ Tử, “Đi chơi đi!”
Tiểu Hổ Tử lập tức chạy biến, Hàn Nhạn Thanh cau mày nhìn bát thuốc. “Khổ quá đi”, nàng nhìn Thân đại nương vẻ đáng thương, nói giọng nũng nịu.
“Không nói nữa!” Thân đại nương vô cùng kiên trì, “Con mang thai chưa lâu, lại còn long đong lận đận mãi nên nhất định phải an thai thật tốt… Nếu năm đó có Tiêu tiên sinh ở đây thì chắc con gái mẹ cũng không bị…”
Nàng vội vàng đỡ lấy bát thuốc, uống một hơi cạn sạch rồi nói nhanh, “Nghĩa mẫu, con đi xem đám thợ có lười biếng hay không.” Dứt lời liền giả bộ như không nghe thấy tiếng Thân đại nương gọi với theo, chạy luôn một mạch.
Hàn Nhạn Thanh giành lấy việc thiết kế nhà mới. Nàng biết rõ Tiêu Phương có ý đồ tránh tai họa nên phòng ốc nhìn từ bên ngoài tuyệt đối không được có vẻ khác thường, thậm chí cả đại đường[1] cũng vậy, nhưng nội viện thì phải do nàng tự mình định đoạt. Đám thợ được mời tới xây dựng bị nàng hành hạ đến thê thảm, đã từng kín đáo ám hiệu Tiêu Phương là không nên để người nhà can thiệp vào chuyện này. Tiêu Phương chỉ cười cười chứ không nói gì, bọn họ sau đó càng bị Hàn Nhạn Thanh hành hạ nhiều hơn, cũng may mà tiền công trả rất đầy đủ. Hàn Nhạn Thanh lấy tiền của Tiêu Phương ra trả không hề tiếc rẻ. Thỉnh thoảng Thân đại nương đưa cơm tới thấy thế thì sợ hết hồn hết vía, một mực khuyên nàng phải dè sẻn hơn. Nàng chỉ thản nhiên cười bảo không cần phải lo đến chuyện này, cũ không đi thì mới sẽ không đến. Cuối cùng, khi phòng ốc đã dựng xong thì ngay cả đám thợ cũng không khỏi ồ lên kinh ngạc. Từ bên ngoài nhìn vào thì đó chỉ là một căn nhà nông thôn có mấy dãy phòng nối liền lại với nhau nằm giữa thôn xóm trên vùng đất vàng mênh mông không có gì đáng phải để ý. Đại đường chiếm diện tích khá lớn, sắp xếp mấy bộ bàn ghế theo tập quán của người ở nông thôn. Nội viện được thiết kế gồm phòng bếp, phòng chủ, hai chái nhà phía đông và phía tây, nhà thuốc, đình viện. Hàn Nhạn Thanh bảo bọn họ dùng một thứ không biết được điều chế thế nào, gọi là vôi, quét lên tất cả những bức tường bên trong, trắng mịn, sờ tay vào cảm giác lạnh như băng, lại nhẵn nhụi như gương. Chái nhà thậm chí còn xa xỉ tới mức lát nền bằng gỗ lim được đánh dầu bóng loáng, đi chân trần lên mát rượi, cực kỳ thoải mái.
[1] Đại đường: Gian phòng lớn dùng để tiếp khách.
Hàn Nhạn Thanh còn bảo bọn họ dựng một lầu trúc trong nội viện, trước lầu đào một cái hồ nhỏ, gieo trồng mầm sen mong đợi vào một sáng ngày hè xanh thẳm, mở cửa sổ lầu trúc sẽ thấy chuông gió ngân nga trên mái hiên, hoa sen nở rộ trong hồ, một trận gió thổi qua làm lá sen đung đưa soi bóng xuống mặt nước trong veo…
Từ lúc thiết kế nàng đã nghĩ tới cảnh này, nhìn Tiêu Phương cười rạng rỡ, “Sư phụ thấy thế nào?”
“Rất tuyệt vời. Lộng Triều thích lắm đấy.” Tiêu Phương chắp tay đứng trên đình viện đã được hoàn thiện xong cười nói. Gió nhẹ thoảng qua làm mấy lọn tóc trên đầu hắn bay phất phơ, trông tuấn tú không gì sánh được.
Nàng xoay người lại thì thấy Lộng Triều đi ngang đi dọc trên hành lang khu chái nhà ngó ngó nghiêng nghiêng, sờ sờ nắn nắn, dáng vẻ quả nhiên là thích thú tới cực điểm. Tiêu Phương mỉm cười nhìn bộ dạng vui vẻ của Lộng Triều, nói vẻ không để ý, “Chúng ta hình như không còn nhiều tiền lắm.”
Nàng vỗ vỗ tay, cười hồn nhiên, “Đúng vậy nhỉ.” Nàng nghĩ ngợi một lát, vẫn chưa tính xong, lấy mớ tiền Tam Thù[2] còn thừa ra đếm đi đếm lại rồi nói, “Chỉ còn hơn ba xâu thôi.
[2] Tiền Tam Thù: Tiền xu cổ của người Trung Quốc, được đúc vào năm đầu tiên của niên hiệu Kiến Nguyên thời Hán Vũ Đế.
Hắn nhìn chiếc lúm đồng tiền tròn xoe của nàng, lắc đầu thở dài vẻ hơi bất đắc dĩ.
Khi nhà mới làm xong thì cũng gần đến cuối năm Nguyên Quang thứ năm.
Hàn Nhạn Thanh dần dần cảm thấy cuộc sống của ba thầy trò bọn họ đã đến bước đường cùng. Vị sư phụ thần tiên của nàng không chỉ có phong độ thần tiên mà cả tâm địa cũng thần tiên, mặc dù y thuật vô cùng cao minh nhưng thường ngày chẩn bệnh bốc thuốc, nếu thấy bệnh nhân cùng khổ thì đừng nói là thu tiền chẩn mạch mà đến thuốc có khi cũng cho không. Như vậy không phải là không tốt, nhưng nếu cứ tiếp tục mãi thì nghèo nhất thôn chẳng phải là ai khác mà chính là ba thầy trò bọn họ.
Tiền không phải là vạn năng nhưng không có tiền thì vạn điều đều không thể, quả thật ở bất cứ nơi nào thì những lời này cũng là chân lý. Hàn Nhạn Thanh liền tính toán, nếu không thể tiết kiệm thì chỉ còn cách mở cửa hàng.
Nói đến mở cửa hàng thì từ khi đến Tây Hán tới nay, nàng vẫn mang một tâm bệnh. Nàng từ nhỏ đã chịu ảnh hưởng của mẹ nên rất thích uống trà, thích đến mức không có thì không xong. Nhưng trà của triều Hán thật sự nàng nuốt không nổi. Kể cả loại trà Kỳ Sơn danh tiếng nhất mà Tiêu Phương hiện đang uống, dưới mắt nàng cũng quá thô thiển đắng chát.
Vì thế ngay từ đầu nàng đã trông cậy vào việc sao trà, vừa có thể cho mình thưởng thức, vừa có thể lấy lòng sư phụ, lại còn có được một chút tiền để ra, cớ sao lại không làm? Nhưng khi thân hình dần nặng nề, tay chân cũng không nhàn rỗi thì nàng mới nhận ra rằng việc này không phải đơn giản như trong tưởng tượng. Chưa nói là nàng chỉ biết uống trà còn kiến thức về kỹ thuật sao trà chỉ là nửa vời. Chính nàng cũng biết rằng vùng trồng trà chính của thời kỳ này mới chỉ ở Ba Thục, dần dần lan tới kinh đô, những nơi khác thậm chí còn chưa có thói quen trồng trà.
Nàng mất rất nhiều thời gian mới tìm được một vườn trà trên núi bên ngoài thành Trường An, liền dẫn Lộng Triều tới hỏi. Chủ vườn quan sát nàng từ đầu đến chân mấy lần rồi nói, “Bây giờ đã vào mùa đông, mà trà lại chỉ hái vào hai mùa xuân hạ, phu nhân đến vào lúc này chẳng phải là phí công ư?”
“Thế cũng chưa chắc”, Hàn Nhạn Thanh điềm nhiên, “Lá trà mùa xuân sắc xanh mềm, hương vị tươi mát, mùa hè sắc trà tím hơn một nửa, vị chát, còn trà mùa đông thì hương vị đậm đà, mùi thơm ngào ngạt, đó mới thật là tốt.”
“Thì ra là thế”, chủ vườn chán nản phẩy tay, “Thật ra thì khí hậu Trường An không thích hợp để trồng trà, trà trong vườn của ta cũng không phát triển tốt. Nếu phu nhân thật sự cần thì cứ hái tùy thích. Vả lại trà mùa đông không đáng giá mấy nên không phải trả tiền đâu.”
“Vậy thì đa tạ tiên sinh”, Hàn Nhạn Thanh vui vẻ.
Mấy ngày này thời tiết tốt, khắp núi đồi toàn là trà lá nhỏ sum suê. Đang mùa đông, vườn trà tĩnh mịch không có lấy một bóng người. Hàn Nhạn Thanh chọn mấy đám trà xanh tốt, ngắt lấy một ôm lá.
“Hái để làm gì chứ?”, Lộng Triều đứng chờ mãi không nhịn được, hỏi giọng buồn bực.
“Về chế trà uống chơi”, nàng đáp.
“Trà?”, Lộng Triều ngây người, liên tưởng đến thứ nước trà Kỳ Sơn đen sì sì Tiêu Phương thường uống, chán chường chau mày, “Ở nhà vẫn còn, cần gì phải phiền phức như vậy.”
Hàn Nhạn Thanh bật cười, quay lại trấn an, “Thôi được rồi, nhanh tay chút đi. Lộng Triều ngoan, về nhà rồi chính tay ta làm vài món cho ngươi ăn.”
Lộng Triều nghi hoặc nhìn nàng rồi hỏi luôn, “Ngươi biết làm sao?” Hàn Nhạn Thanh bực mình, gắt gỏng, “Ngươi có bản lĩnh thì đến lúc đó đừng có mà ăn.”
Hắn ngẩn người, cuối cùng cũng hiểu mình đắc tội rồi nên vội nói lấy lòng, “Nhạn Thanh tỷ tỷ, để ta mang giúp bó lá này về nhé.” Nàng nghe vậy thì bật cười khanh khách.
Phương pháp chế biến trà từ sau thời Đường cũng không có gì khác ngoài mấy trình tự gồm sao trà, vò lá, sấy khô. Hàn Nhạn Thanh chia số lá trà hái về làm ba phần để phòng trường hợp thất bại. Cũng may là nhà bếp của Tiêu phủ được xây dựng theo yêu cầu khắt khe của nàng nên luôn có đầy đủ các loại vật dụng.
Nàng bỏ lá trà vào chảo, sao lên để giảm bớt hơi nước, vò cho thành hình, từ từ phơi gió, cuối cùng sấy bằng lửa nhỏ. Do chưa nắm được cách điều chỉnh lửa trong khi sấy nên thất bại hai lần, cuối cùng cũng sao được cách trà miễn cưỡng có thể coi là tạm hài lòng.
Hôm đó, Tiêu Phương đang đọc sách ở thư phòng chợt nghe thấy tiếng bước chân Hàn Nhạn Thanh đi ngoài hành lang, giọng cười trong trẻo như chuông ngọc. Thời gian này Hàn Nhạn Thanh thường cùng Lộng Triều hí hoáy gì đó, hắn cũng biết đôi chút nhưng không nói mà chờ xem nàng làm ra cái thứ gì.
“Sư phụ”, Hàn Nhạn Thanh dùng chân đá cho cánh cửa mở ta, dài giọng gọi. Tay nàng bưng một chiếc khay, bên trên là một chén trà nhỏ nóng nghi ngút.
Tiêu Phương hơi buồn cười, “Cô đang làm cái gì đó?”
“Sư phụ, đệ tử nghe nói người thanh bạch đạm bạc, chỉ thích uống trà, hơn nữa không phải là trà Kỳ Sơn thì không uống”, Hàn Nhạn Thanh học hắn ngồi quỳ trước án[3], đưa mắt liếc qua chén trà nhỏ bên tay hắn: “Có phải thế không?”
[3] Án: Cái bàn dài.
Hắn nâng chén trà lên, “Vậy thì sao?”
“Không sao cả”, nàng làm bộ vô tình, cũng nâng chén trà mình mang đến lên, chậm rãi mở nắp nhấp một ngụm. Hương trà thoang thoảng lan tỏa tràn ngập thư phòng.
“Người xem cái thứ trà Kỳ Sơn của mình đi, nhìn vào đen ngòm, vừa đắng lại chát, nhìn qua đã biết không dễ uống. Đúng không?”
Tiêu Phương đang bưng trà, tay bỗng nhiên cứng ngắc, khóe miệng dường như co giật, lén nhìn vào chén trà Kỳ Sơn nổi tiếng nhất đương thời. Nghe Hàn Nhạn Thanh nói vậy, hắn đặt chén trà xuống, thật sự cũng có chút uống không vào.
Hàn Nhạn Thanh mặt tươi như hoa, bưng chén trà trong tay đến trước mặt hắn, nói như thể đang hiến bảo vật, “Đây là trà đệ tử cùng Lộng Triều hái từ vườn về, đệ tử ở phòng bếp nghiên cứu bao nhiêu ngày mới chế ra, người nếm thử xem.”
Hắn làm như lơ đãng nhìn lại, ngón tay thon dài nâng chén trà như cánh hoa bồng bềnh trên mặt nước, bên trong chiếc chén trắng tinh, búp trà xinh xắn nở bung thành hình lá từ từ chìm xuống, nước trà xanh ngát, hương trà nồng lên tận mũi.
Hắn ho khẽ một tiếng, nhẹ nhàng đẩy tay nàng ra, “Cô lấy thêm cho ta một chén đi.”
“A?”, nàng ngạc nhiên hỏi, lúc này mới kịp nhớ rằng chén trà này mình đã uống rồi, mặt hơi đỏ lên, đứng vụt dậy nói, “Người chờ một chút.” Nàng vội vã chạy ra khỏi cửa, lúc quay lại đã cầm trên tay một hũ nước sôi và một chén trà.
“Thật ra thì cách ngâm trà này uống không ngon bằng pha trà”, nàng nói chậm rãi, miệng cười, lấy một dúm trà cho vào chén, rót nước sôi vào rồi khuấy đều. Hắn định đón lấy thì nàng lại lắc đầu, đổ nước tráng trà đi, thay một vòng nước sôi nữa rồi mới cung kính đưa tới trước mặt.
Hắn cầm lấy chén, dùng nắp gạt mấy lá trà nổi phía trên đi, nhấp một ngụm liền cảm thấy rất dễ chịu, vị đầu tiên hơi chát nhưng dần dần chuyển thành dịu ngọt man mác ở đầu lưỡi không hề tiêu tán.
“Sao? Thế nào?”, Hàn Nhạn Thanh hồi hộp hỏi.
Tiêu Phương bất giác mỉm cười, “Được lắm!” Hắn đột nhiên cảm thấy ấm áp, vuốt vuốt tóc Hàn Nhạn Thanh.
“Nào! Không được vuốt tóc tôi”, Hàn Nhạn Thanh xẵng giọng, sau đó đổi sắc mặt, có chút thương cảm.
“Tại sao?”, Tiêu Phương hơi lo lắng gạn hỏi.
“Không sao!”, nàng miễn cưỡng cười, “Chỉ là nhớ tới một người bạn.” Trước kia, Quý Đan Tạp cũng rất thích nghịch tóc nàng, lần nào nàng cũng bị Quý Đan Tạp chọc ghẹo đến phát điên lên rồi giận dữ quát: “Không được sờ tóc của tớ.” Giờ nhớ lại, thấy giống với giọng nói lúc vừa rồi như đúc.
Có lẽ, Đan Tạp cũng đang ở một vùng hẻo lánh nào đó trong Tây Hán cổ đại này chăng? Hàn Nhạn Thanh nhớ lại vụ tai nạn xe hơi kia, Tạp Tạp ôm nàng, cảm giác đau xé tới từng tế bào như chết đi sống lại, rồi cứ thế lặp lại. Nàng lắc đầu, đó là cơn ác mộng mà nàng vĩnh viễn không muốn nhớ đến.
Chế xong trà mùa đông, Hàn Nhạn Thanh lại nhớ tới lời hứa với Lộng Triều bèn vào bếp lần nữa, theo cách đời sau kho nấu vài món ăn, sai tiểu đồng bê một phần đến phòng Tiêu Phương và Lộng Triều còn mình thì mang một phần khác và một cân trà tự tay làm háo hức đi tới nhà mẹ nuôi ở thôn Bắc.
Đã mấy ngày không gặp, Thân đại nương thấy Hàn Nhạn Thanh đến thì mừng rỡ, “Con gái về nhà mẫu thân. Người trở về thì mẫu thân đã mừng lắm rồi, còn mang theo cái gì đấy?”
“Không phải đâu. Con mới làm mấy món lạ”, nàng mỉm cười đáp, “nên mới cố ý mang tới cho mẫu thân và Tiểu Hổ Tử nếm thử đó.”
Nhìn nàng bày ra một khay thức ăn có đủ cả sắc, hương, vị. Thân đại nương ngây người, nghi hoặc, “Món này làm như thế nào?”
Thời đầu Tây Hán phổ biến là những món luộc có mùi vị nhạt nhẽo, chưa từng thấy những món ngon như vậy. Thân đại nương còn nhịn được nhưng Tiểu Hổ Tử ở bên cạnh đã lập tức cất tiếng hoan hô rồi sà tới. Thân đại nương vội vàng kéo nó lại, mắng yêu, “Gượm đã nào, chẳng lẽ không phải là để cho con ăn sao.” Tiểu Hổ Tử phụng phịu chờ Thân đại nương mang bát đũa đến rồi lập tức gắp luôn miếng thịt kho tàu mà nó nhìn thèm nhỏ dãi. Hương vị ngọt dịu khiến nó suýt nữa nuốt luôn cả lưỡi, lúng búng khen: “Ngon, ngon thật. Tỷ tỷ của đệ lợi hại nhất.”
Thân đại nương cũng nếm kỹ một miếng, “Mùi vị thật ngon nhưng lại hơi khác với món ăn thông thường.”
“Dạ.” Hàn Nhạn Thanh cười hì hì đáp, “Đây là món kho, khác với món luộc hiện giờ.”
Tiểu Hổ Tử ăn ngấu nghiến như rồng cuốn, quệt mồm, sùng bái nhìn Hàn Nhạn Thanh, “Kể cả tay nghề cả lầu Văn Nhạc cũng không bằng tỷ tỷ.”
Hàn Nhạn Thanh phì cười, lấy khăn tay lau cho nó hết sức cẩn thận rồi hỏi, “Cái gì là lầu Văn Nhạc?”
“Lầu Văn Nhạc là chốn ẩm thực nổi tiếng nhất thành Trường An”, Thân đại nương đáp.
Nghĩa mẫu sống kham khổ, không có ấm chén pha trà nên Hàn Nhạn Thanh lấy bát canh rót hai chén trà cho bọn họ. Thân Hổ say mê nhìn lá trà xanh từ từ nở ra trong chén một cách thích thú, buột miệng, “Tỷ tỷ, chúng đệ chưa từng được uống trà đâu.”
Hàn Nhạn Thanh kinh ngạc, bỗng nhớ ra rằng trà ở thời Tây Hán vẫn còn là một món xa xỉ, nhìn quanh bốn vách phòng cũ nát, trong lòng lại mơ hồ dâng lên nỗi thê lương.
Nàng đẩy trà tới trước mặt dụ dỗ Tiểu Hổ Tử, “Vậy đệ thử xem tỷ tỷ sao trà có uống được hay không?”
“Dạ”, Tiểu Hổ Tử gật đầu thật mạnh, tu ừng ực một hơi hết sạch, đặt chén xuống, lấy tay áo chùi miệng, “Không tệ, trà Kỳ Sơn cũng chỉ như thế này thôi.”
Hàn Nhạn Thanh bật cười, kiêu ngạo, “Trà Kỳ Sơn so sao nổi với trà tỷ chế!”
Thân đại nương kéo nàng qua bên bảo, “Không nói chuyện ấy nữa. Nhạn Nhi, con đang mang thai, chẳng mấy chốc không thể mặc y phục này được nữa. Ta đã may cho con mấy bộ y phục, thử qua xem có thích không.”
Chẳng lẽ là y phục bà bầu mọi người thường nói? Hàn Nhạn Thanh hứng thú, “Mẫu thân”, nàng nhào vào lòng Thân đại nương, “Y phục mẫu thân may cho thì con nhất định sẽ thích.”
“Con ngoan!” Thân đại nương cười vui vẻ, cầm ra hai bộ y phục vải, nói là vải thô nhưng cũng cảm thấy rất thoải mái, đường may chắc chắn. Hàn Nhạn Thanh mặc lên người, quay phải quay trái một vòng. Thân đại nương thấy thế mỉm cười, “Cũng hơi rộng, ít ngày nữa bụng con lớn lên thì mặc mới vừa.”
“Ha ha, mẫu thân thật khéo tay.” Hàn Nhạn Thanh cười ngượng nghịu. Mặc dù trước kia đã từng bị Đan Tạp cho coi phim A[4], cũng đã nghe những chuyện tiếu lâm tục tĩu nhưng dù sao nàng vẫn là gái nhà lành, nói đến chuyện này thì vẫn hơi mất tự nhiên.
[4] Phim A: Phim khiêu dâm.
Nói mới nhớ chuyện đứa bé trong bụng này là của Hán Vũ Đế, Hàn Nhạn Thanh nghĩ đến đây thì bất giác thấy lạnh người, không biết người trong mộng kia trông mặt mũi ra sao.
“Tất nhiên rồi”, Thân đại nương có chút kiêu ngạo, “Mẫu thân ngày trước là thợ may, nghỉ làm đã lâu, may mà không xuống tay.”
“Thế ạ?” Hàn Nhạn Thanh kinh ngạc, trong lòng nảy ra một ý niệm, “Thế mẫu thân có biết ai là thợ may giỏi nhất thành Trường An không?”
“Con hỏi chuyện này làm gì?… Ừm, tất nhiên là Hạ tiểu thư của phường Nghê Thường rồi.”
Nàng sửa sang ống tay áo, tức giận chau mày, “Một thợ may mà cũng gọi là tiểu thư!”
“Nhạn Nhi không biết đó thôi, Hạ cô nương là con gái của Hạ lão bản, phường chủ phường Nghê Thường, tiểu thư con nhà giàu thực sự. Nàng ta có tay nghề cao, tính tình lại kiêu ngạo, giá một bộ y phục nàng ta may ít nhất phải bằng người trung lưu chi tiêu trong một năm.”
“Vậy à”, nàng hơi cúi đầu xuống.
“Hạ tiểu thư là con gái ông chủ Hạ thì sao có thể làm việc cho người ngoài được chứ? Nhạn Nhi đừng có đòi hỏi quá nhiều.” Đây là phản ứng trực tiếp nhất của Thân đại nương sau khi biết được tính toán của Hàn Nhạn Thanh.
“Mẫu thân chưa từng nghe câu ‘mưu sự tại nhân’ sao?” Hàn Nhạn Thanh không để ý tới điều đó, chỉ cười ngọt ngào, “Tất cả mọi chuyện đều có khả năng mà.”
Thân đại nương ngẩn người ra nhìn, đánh giá Hàn Nhạn Thanh bằng ánh mắt hoàn toàn mới mẻ. Trước đây Thân đại nương vẫn thường cho rằng Hàn Nhạn Thanh chẳng qua chỉ là một cô gái bình thường bỏ nhà trốn đi mà thôi, nhưng đến giờ thì bà lại giật mình cảm thấy nàng thật sự không phải đơn giản.
“Mẫu thân”, Hàn Nhạn Thanh dựa sát vào người Thân đại nương, “Mẫu thân nói cho con biết một chút về Hạ tiểu thư đi.”
“Được rồi.” Thân đại nương vô thức đáp, “Tiểu thư Hạ Đông Trữ là con gái thứ ba của ông chủ Hạ Diễn. Mẹ của nàng ta họ Tần, là tiểu thiếp thứ ba của ông chủ Hạ…”
Hàn Nhạn Thanh trở về phủ lúc trời đã tối đen, trông thấy một bóng người đang đứng lặng lẽ trong hành lang liền nâng đèn lồng lên soi. Vừa đúng lúc người nọ ngẩng đầu lên, dưới ánh nén là một gương mặt lạnh như băng khiến nàng sợ hết hồn, hỏi xẵng, “Ngươi ở đây làm gì?”
“Ăn ngon.” Lộng Triều nói một câu không đầu không đuôi.
“Cái gì?” Hàn Nhạn Thanh sửng sốt mất một lúc mới có phản ứng, bật cười hỏi, “Không phải ngươi cứ chờ mãi ở đây chỉ vì muốn nói một câu này với ta đấy chứ?”
“Ngày mai vẫn nấu chứ?” Lộng Triều rầu rĩ cúi đầu một lát rồi nói.
“Không.” Hàn Nhạn Thanh hơi hoảng hốt, “Ta đến đây không phải để làm người nấu ăn cho các ngươi.”
Lộng Triều dường như rất kiên nhẫn, bướng bỉnh nhìn Hàn Nhạn Thanh khiến nàng cảm giác rất đau đầu. Nàng giận mình đã tự chuốc lấy phiền toái nhưng việc một cậu bé tuấn tú cứ nhìn mãi bằng một ánh mắt thuần khiết tràn đầy khát vọng khiến nàng cảm thấy mình sắp sửa không cưỡng lại được nữa, bèn dựa vào một chút lý trí còn sót lại, vội vàng nhìn tránh đi, dỗ dành, “Gần đây ta có nhiều việc bận, qua đợt này ta bảo đảm hàng ngày sẽ nấu món ngon cho ngươi ăn có được không?”
Lộng Triều mặc dù không hài lòng lắm nhưng cuối cùng cũng không nài ép, trề môi bỏ đi để lại Hàn Nhạn Thanh ở lại lau mồ hôi lạnh toát ra trên trán.
“Tỷ tỷ, có trẻ con trong bụng của tỷ à?”, Tiểu Hổ Tử ngồi dưới chân Hàn Nhạn Thanh, chớp chớp mắt nhìn vào bụng nàng với vẻ e dè.
“Đúng vậy đấy.” Hàn Nhạn Thanh cười híp mắt, vuốt tóc cậu bé, cảm thấy cậu em mới kết nghĩa của mình rất dễ thương. Mặc dù cậu bé mặt mày xanh xao, thân hình hơi gầy yếu nhưng nếu được nuôi dưỡng tốt mấy năm thì sẽ là một đứa trẻ đáng yêu.
“Tiểu Hổ Tử này, tỷ tỷ hiện giờ đang giúp sư phụ cất nhà mới nên không có thời gian săn sóc cho đệ. Lộng Triều ca ca có võ công đấy, đệ học ca ca một chút đi, sau này có thể bảo vệ cho mẫu thân và tỷ tỷ.”
“Thật sao?” Ánh mắt Tiểu Hổ Tử sáng lên nhưng lại ảm đạm đi rất nhanh, “Đệ muốn giúp mẹ làm việc.”
“Không sao đâu.” Hàn Nhạn Thanh cười híp mắt vỗ vai cậu bé, “Bây giờ đã có tỷ rồi.” Nàng dẫn dụ từng bước, “Chuyện kiếm sống trong nhà đã có tỷ tỷ là người lớn làm. Đệ phải học võ công thật tốt để sau này bảo vệ cho mẫu thân và tỷ tỷ, còn cả cháu trai trong bụng tỷ tỷ nữa.”
“Vâng.” Tiểu Hổ Tử gật mạnh đầu. Thân đại nương từ bên ngoài mang thuốc dưỡng thai đi vào, bật cười nói, “Con đó, huyên thuyên vừa thôi.” Bà cũng không tin Hàn Nhạn Thanh có cách kiếm sống nuôi cả nhà nhưng vì cảm động trước tâm ý của nàng cũng không đành lòng trách móc, quay sang bảo Tiểu Hổ Tử, “Đi chơi đi!”
Tiểu Hổ Tử lập tức chạy biến, Hàn Nhạn Thanh cau mày nhìn bát thuốc. “Khổ quá đi”, nàng nhìn Thân đại nương vẻ đáng thương, nói giọng nũng nịu.
“Không nói nữa!” Thân đại nương vô cùng kiên trì, “Con mang thai chưa lâu, lại còn long đong lận đận mãi nên nhất định phải an thai thật tốt… Nếu năm đó có Tiêu tiên sinh ở đây thì chắc con gái mẹ cũng không bị…”
Nàng vội vàng đỡ lấy bát thuốc, uống một hơi cạn sạch rồi nói nhanh, “Nghĩa mẫu, con đi xem đám thợ có lười biếng hay không.” Dứt lời liền giả bộ như không nghe thấy tiếng Thân đại nương gọi với theo, chạy luôn một mạch.
Hàn Nhạn Thanh giành lấy việc thiết kế nhà mới. Nàng biết rõ Tiêu Phương có ý đồ tránh tai họa nên phòng ốc nhìn từ bên ngoài tuyệt đối không được có vẻ khác thường, thậm chí cả đại đường[1] cũng vậy, nhưng nội viện thì phải do nàng tự mình định đoạt. Đám thợ được mời tới xây dựng bị nàng hành hạ đến thê thảm, đã từng kín đáo ám hiệu Tiêu Phương là không nên để người nhà can thiệp vào chuyện này. Tiêu Phương chỉ cười cười chứ không nói gì, bọn họ sau đó càng bị Hàn Nhạn Thanh hành hạ nhiều hơn, cũng may mà tiền công trả rất đầy đủ. Hàn Nhạn Thanh lấy tiền của Tiêu Phương ra trả không hề tiếc rẻ. Thỉnh thoảng Thân đại nương đưa cơm tới thấy thế thì sợ hết hồn hết vía, một mực khuyên nàng phải dè sẻn hơn. Nàng chỉ thản nhiên cười bảo không cần phải lo đến chuyện này, cũ không đi thì mới sẽ không đến. Cuối cùng, khi phòng ốc đã dựng xong thì ngay cả đám thợ cũng không khỏi ồ lên kinh ngạc. Từ bên ngoài nhìn vào thì đó chỉ là một căn nhà nông thôn có mấy dãy phòng nối liền lại với nhau nằm giữa thôn xóm trên vùng đất vàng mênh mông không có gì đáng phải để ý. Đại đường chiếm diện tích khá lớn, sắp xếp mấy bộ bàn ghế theo tập quán của người ở nông thôn. Nội viện được thiết kế gồm phòng bếp, phòng chủ, hai chái nhà phía đông và phía tây, nhà thuốc, đình viện. Hàn Nhạn Thanh bảo bọn họ dùng một thứ không biết được điều chế thế nào, gọi là vôi, quét lên tất cả những bức tường bên trong, trắng mịn, sờ tay vào cảm giác lạnh như băng, lại nhẵn nhụi như gương. Chái nhà thậm chí còn xa xỉ tới mức lát nền bằng gỗ lim được đánh dầu bóng loáng, đi chân trần lên mát rượi, cực kỳ thoải mái.
[1] Đại đường: Gian phòng lớn dùng để tiếp khách.
Hàn Nhạn Thanh còn bảo bọn họ dựng một lầu trúc trong nội viện, trước lầu đào một cái hồ nhỏ, gieo trồng mầm sen mong đợi vào một sáng ngày hè xanh thẳm, mở cửa sổ lầu trúc sẽ thấy chuông gió ngân nga trên mái hiên, hoa sen nở rộ trong hồ, một trận gió thổi qua làm lá sen đung đưa soi bóng xuống mặt nước trong veo…
Từ lúc thiết kế nàng đã nghĩ tới cảnh này, nhìn Tiêu Phương cười rạng rỡ, “Sư phụ thấy thế nào?”
“Rất tuyệt vời. Lộng Triều thích lắm đấy.” Tiêu Phương chắp tay đứng trên đình viện đã được hoàn thiện xong cười nói. Gió nhẹ thoảng qua làm mấy lọn tóc trên đầu hắn bay phất phơ, trông tuấn tú không gì sánh được.
Nàng xoay người lại thì thấy Lộng Triều đi ngang đi dọc trên hành lang khu chái nhà ngó ngó nghiêng nghiêng, sờ sờ nắn nắn, dáng vẻ quả nhiên là thích thú tới cực điểm. Tiêu Phương mỉm cười nhìn bộ dạng vui vẻ của Lộng Triều, nói vẻ không để ý, “Chúng ta hình như không còn nhiều tiền lắm.”
Nàng vỗ vỗ tay, cười hồn nhiên, “Đúng vậy nhỉ.” Nàng nghĩ ngợi một lát, vẫn chưa tính xong, lấy mớ tiền Tam Thù[2] còn thừa ra đếm đi đếm lại rồi nói, “Chỉ còn hơn ba xâu thôi.
[2] Tiền Tam Thù: Tiền xu cổ của người Trung Quốc, được đúc vào năm đầu tiên của niên hiệu Kiến Nguyên thời Hán Vũ Đế.
Hắn nhìn chiếc lúm đồng tiền tròn xoe của nàng, lắc đầu thở dài vẻ hơi bất đắc dĩ.
Khi nhà mới làm xong thì cũng gần đến cuối năm Nguyên Quang thứ năm.
Hàn Nhạn Thanh dần dần cảm thấy cuộc sống của ba thầy trò bọn họ đã đến bước đường cùng. Vị sư phụ thần tiên của nàng không chỉ có phong độ thần tiên mà cả tâm địa cũng thần tiên, mặc dù y thuật vô cùng cao minh nhưng thường ngày chẩn bệnh bốc thuốc, nếu thấy bệnh nhân cùng khổ thì đừng nói là thu tiền chẩn mạch mà đến thuốc có khi cũng cho không. Như vậy không phải là không tốt, nhưng nếu cứ tiếp tục mãi thì nghèo nhất thôn chẳng phải là ai khác mà chính là ba thầy trò bọn họ.
Tiền không phải là vạn năng nhưng không có tiền thì vạn điều đều không thể, quả thật ở bất cứ nơi nào thì những lời này cũng là chân lý. Hàn Nhạn Thanh liền tính toán, nếu không thể tiết kiệm thì chỉ còn cách mở cửa hàng.
Nói đến mở cửa hàng thì từ khi đến Tây Hán tới nay, nàng vẫn mang một tâm bệnh. Nàng từ nhỏ đã chịu ảnh hưởng của mẹ nên rất thích uống trà, thích đến mức không có thì không xong. Nhưng trà của triều Hán thật sự nàng nuốt không nổi. Kể cả loại trà Kỳ Sơn danh tiếng nhất mà Tiêu Phương hiện đang uống, dưới mắt nàng cũng quá thô thiển đắng chát.
Vì thế ngay từ đầu nàng đã trông cậy vào việc sao trà, vừa có thể cho mình thưởng thức, vừa có thể lấy lòng sư phụ, lại còn có được một chút tiền để ra, cớ sao lại không làm? Nhưng khi thân hình dần nặng nề, tay chân cũng không nhàn rỗi thì nàng mới nhận ra rằng việc này không phải đơn giản như trong tưởng tượng. Chưa nói là nàng chỉ biết uống trà còn kiến thức về kỹ thuật sao trà chỉ là nửa vời. Chính nàng cũng biết rằng vùng trồng trà chính của thời kỳ này mới chỉ ở Ba Thục, dần dần lan tới kinh đô, những nơi khác thậm chí còn chưa có thói quen trồng trà.
Nàng mất rất nhiều thời gian mới tìm được một vườn trà trên núi bên ngoài thành Trường An, liền dẫn Lộng Triều tới hỏi. Chủ vườn quan sát nàng từ đầu đến chân mấy lần rồi nói, “Bây giờ đã vào mùa đông, mà trà lại chỉ hái vào hai mùa xuân hạ, phu nhân đến vào lúc này chẳng phải là phí công ư?”
“Thế cũng chưa chắc”, Hàn Nhạn Thanh điềm nhiên, “Lá trà mùa xuân sắc xanh mềm, hương vị tươi mát, mùa hè sắc trà tím hơn một nửa, vị chát, còn trà mùa đông thì hương vị đậm đà, mùi thơm ngào ngạt, đó mới thật là tốt.”
“Thì ra là thế”, chủ vườn chán nản phẩy tay, “Thật ra thì khí hậu Trường An không thích hợp để trồng trà, trà trong vườn của ta cũng không phát triển tốt. Nếu phu nhân thật sự cần thì cứ hái tùy thích. Vả lại trà mùa đông không đáng giá mấy nên không phải trả tiền đâu.”
“Vậy thì đa tạ tiên sinh”, Hàn Nhạn Thanh vui vẻ.
Mấy ngày này thời tiết tốt, khắp núi đồi toàn là trà lá nhỏ sum suê. Đang mùa đông, vườn trà tĩnh mịch không có lấy một bóng người. Hàn Nhạn Thanh chọn mấy đám trà xanh tốt, ngắt lấy một ôm lá.
“Hái để làm gì chứ?”, Lộng Triều đứng chờ mãi không nhịn được, hỏi giọng buồn bực.
“Về chế trà uống chơi”, nàng đáp.
“Trà?”, Lộng Triều ngây người, liên tưởng đến thứ nước trà Kỳ Sơn đen sì sì Tiêu Phương thường uống, chán chường chau mày, “Ở nhà vẫn còn, cần gì phải phiền phức như vậy.”
Hàn Nhạn Thanh bật cười, quay lại trấn an, “Thôi được rồi, nhanh tay chút đi. Lộng Triều ngoan, về nhà rồi chính tay ta làm vài món cho ngươi ăn.”
Lộng Triều nghi hoặc nhìn nàng rồi hỏi luôn, “Ngươi biết làm sao?” Hàn Nhạn Thanh bực mình, gắt gỏng, “Ngươi có bản lĩnh thì đến lúc đó đừng có mà ăn.”
Hắn ngẩn người, cuối cùng cũng hiểu mình đắc tội rồi nên vội nói lấy lòng, “Nhạn Thanh tỷ tỷ, để ta mang giúp bó lá này về nhé.” Nàng nghe vậy thì bật cười khanh khách.
Phương pháp chế biến trà từ sau thời Đường cũng không có gì khác ngoài mấy trình tự gồm sao trà, vò lá, sấy khô. Hàn Nhạn Thanh chia số lá trà hái về làm ba phần để phòng trường hợp thất bại. Cũng may là nhà bếp của Tiêu phủ được xây dựng theo yêu cầu khắt khe của nàng nên luôn có đầy đủ các loại vật dụng.
Nàng bỏ lá trà vào chảo, sao lên để giảm bớt hơi nước, vò cho thành hình, từ từ phơi gió, cuối cùng sấy bằng lửa nhỏ. Do chưa nắm được cách điều chỉnh lửa trong khi sấy nên thất bại hai lần, cuối cùng cũng sao được cách trà miễn cưỡng có thể coi là tạm hài lòng.
Hôm đó, Tiêu Phương đang đọc sách ở thư phòng chợt nghe thấy tiếng bước chân Hàn Nhạn Thanh đi ngoài hành lang, giọng cười trong trẻo như chuông ngọc. Thời gian này Hàn Nhạn Thanh thường cùng Lộng Triều hí hoáy gì đó, hắn cũng biết đôi chút nhưng không nói mà chờ xem nàng làm ra cái thứ gì.
“Sư phụ”, Hàn Nhạn Thanh dùng chân đá cho cánh cửa mở ta, dài giọng gọi. Tay nàng bưng một chiếc khay, bên trên là một chén trà nhỏ nóng nghi ngút.
Tiêu Phương hơi buồn cười, “Cô đang làm cái gì đó?”
“Sư phụ, đệ tử nghe nói người thanh bạch đạm bạc, chỉ thích uống trà, hơn nữa không phải là trà Kỳ Sơn thì không uống”, Hàn Nhạn Thanh học hắn ngồi quỳ trước án[3], đưa mắt liếc qua chén trà nhỏ bên tay hắn: “Có phải thế không?”
[3] Án: Cái bàn dài.
Hắn nâng chén trà lên, “Vậy thì sao?”
“Không sao cả”, nàng làm bộ vô tình, cũng nâng chén trà mình mang đến lên, chậm rãi mở nắp nhấp một ngụm. Hương trà thoang thoảng lan tỏa tràn ngập thư phòng.
“Người xem cái thứ trà Kỳ Sơn của mình đi, nhìn vào đen ngòm, vừa đắng lại chát, nhìn qua đã biết không dễ uống. Đúng không?”
Tiêu Phương đang bưng trà, tay bỗng nhiên cứng ngắc, khóe miệng dường như co giật, lén nhìn vào chén trà Kỳ Sơn nổi tiếng nhất đương thời. Nghe Hàn Nhạn Thanh nói vậy, hắn đặt chén trà xuống, thật sự cũng có chút uống không vào.
Hàn Nhạn Thanh mặt tươi như hoa, bưng chén trà trong tay đến trước mặt hắn, nói như thể đang hiến bảo vật, “Đây là trà đệ tử cùng Lộng Triều hái từ vườn về, đệ tử ở phòng bếp nghiên cứu bao nhiêu ngày mới chế ra, người nếm thử xem.”
Hắn làm như lơ đãng nhìn lại, ngón tay thon dài nâng chén trà như cánh hoa bồng bềnh trên mặt nước, bên trong chiếc chén trắng tinh, búp trà xinh xắn nở bung thành hình lá từ từ chìm xuống, nước trà xanh ngát, hương trà nồng lên tận mũi.
Hắn ho khẽ một tiếng, nhẹ nhàng đẩy tay nàng ra, “Cô lấy thêm cho ta một chén đi.”
“A?”, nàng ngạc nhiên hỏi, lúc này mới kịp nhớ rằng chén trà này mình đã uống rồi, mặt hơi đỏ lên, đứng vụt dậy nói, “Người chờ một chút.” Nàng vội vã chạy ra khỏi cửa, lúc quay lại đã cầm trên tay một hũ nước sôi và một chén trà.
“Thật ra thì cách ngâm trà này uống không ngon bằng pha trà”, nàng nói chậm rãi, miệng cười, lấy một dúm trà cho vào chén, rót nước sôi vào rồi khuấy đều. Hắn định đón lấy thì nàng lại lắc đầu, đổ nước tráng trà đi, thay một vòng nước sôi nữa rồi mới cung kính đưa tới trước mặt.
Hắn cầm lấy chén, dùng nắp gạt mấy lá trà nổi phía trên đi, nhấp một ngụm liền cảm thấy rất dễ chịu, vị đầu tiên hơi chát nhưng dần dần chuyển thành dịu ngọt man mác ở đầu lưỡi không hề tiêu tán.
“Sao? Thế nào?”, Hàn Nhạn Thanh hồi hộp hỏi.
Tiêu Phương bất giác mỉm cười, “Được lắm!” Hắn đột nhiên cảm thấy ấm áp, vuốt vuốt tóc Hàn Nhạn Thanh.
“Nào! Không được vuốt tóc tôi”, Hàn Nhạn Thanh xẵng giọng, sau đó đổi sắc mặt, có chút thương cảm.
“Tại sao?”, Tiêu Phương hơi lo lắng gạn hỏi.
“Không sao!”, nàng miễn cưỡng cười, “Chỉ là nhớ tới một người bạn.” Trước kia, Quý Đan Tạp cũng rất thích nghịch tóc nàng, lần nào nàng cũng bị Quý Đan Tạp chọc ghẹo đến phát điên lên rồi giận dữ quát: “Không được sờ tóc của tớ.” Giờ nhớ lại, thấy giống với giọng nói lúc vừa rồi như đúc.
Có lẽ, Đan Tạp cũng đang ở một vùng hẻo lánh nào đó trong Tây Hán cổ đại này chăng? Hàn Nhạn Thanh nhớ lại vụ tai nạn xe hơi kia, Tạp Tạp ôm nàng, cảm giác đau xé tới từng tế bào như chết đi sống lại, rồi cứ thế lặp lại. Nàng lắc đầu, đó là cơn ác mộng mà nàng vĩnh viễn không muốn nhớ đến.
Chế xong trà mùa đông, Hàn Nhạn Thanh lại nhớ tới lời hứa với Lộng Triều bèn vào bếp lần nữa, theo cách đời sau kho nấu vài món ăn, sai tiểu đồng bê một phần đến phòng Tiêu Phương và Lộng Triều còn mình thì mang một phần khác và một cân trà tự tay làm háo hức đi tới nhà mẹ nuôi ở thôn Bắc.
Đã mấy ngày không gặp, Thân đại nương thấy Hàn Nhạn Thanh đến thì mừng rỡ, “Con gái về nhà mẫu thân. Người trở về thì mẫu thân đã mừng lắm rồi, còn mang theo cái gì đấy?”
“Không phải đâu. Con mới làm mấy món lạ”, nàng mỉm cười đáp, “nên mới cố ý mang tới cho mẫu thân và Tiểu Hổ Tử nếm thử đó.”
Nhìn nàng bày ra một khay thức ăn có đủ cả sắc, hương, vị. Thân đại nương ngây người, nghi hoặc, “Món này làm như thế nào?”
Thời đầu Tây Hán phổ biến là những món luộc có mùi vị nhạt nhẽo, chưa từng thấy những món ngon như vậy. Thân đại nương còn nhịn được nhưng Tiểu Hổ Tử ở bên cạnh đã lập tức cất tiếng hoan hô rồi sà tới. Thân đại nương vội vàng kéo nó lại, mắng yêu, “Gượm đã nào, chẳng lẽ không phải là để cho con ăn sao.” Tiểu Hổ Tử phụng phịu chờ Thân đại nương mang bát đũa đến rồi lập tức gắp luôn miếng thịt kho tàu mà nó nhìn thèm nhỏ dãi. Hương vị ngọt dịu khiến nó suýt nữa nuốt luôn cả lưỡi, lúng búng khen: “Ngon, ngon thật. Tỷ tỷ của đệ lợi hại nhất.”
Thân đại nương cũng nếm kỹ một miếng, “Mùi vị thật ngon nhưng lại hơi khác với món ăn thông thường.”
“Dạ.” Hàn Nhạn Thanh cười hì hì đáp, “Đây là món kho, khác với món luộc hiện giờ.”
Tiểu Hổ Tử ăn ngấu nghiến như rồng cuốn, quệt mồm, sùng bái nhìn Hàn Nhạn Thanh, “Kể cả tay nghề cả lầu Văn Nhạc cũng không bằng tỷ tỷ.”
Hàn Nhạn Thanh phì cười, lấy khăn tay lau cho nó hết sức cẩn thận rồi hỏi, “Cái gì là lầu Văn Nhạc?”
“Lầu Văn Nhạc là chốn ẩm thực nổi tiếng nhất thành Trường An”, Thân đại nương đáp.
Nghĩa mẫu sống kham khổ, không có ấm chén pha trà nên Hàn Nhạn Thanh lấy bát canh rót hai chén trà cho bọn họ. Thân Hổ say mê nhìn lá trà xanh từ từ nở ra trong chén một cách thích thú, buột miệng, “Tỷ tỷ, chúng đệ chưa từng được uống trà đâu.”
Hàn Nhạn Thanh kinh ngạc, bỗng nhớ ra rằng trà ở thời Tây Hán vẫn còn là một món xa xỉ, nhìn quanh bốn vách phòng cũ nát, trong lòng lại mơ hồ dâng lên nỗi thê lương.
Nàng đẩy trà tới trước mặt dụ dỗ Tiểu Hổ Tử, “Vậy đệ thử xem tỷ tỷ sao trà có uống được hay không?”
“Dạ”, Tiểu Hổ Tử gật đầu thật mạnh, tu ừng ực một hơi hết sạch, đặt chén xuống, lấy tay áo chùi miệng, “Không tệ, trà Kỳ Sơn cũng chỉ như thế này thôi.”
Hàn Nhạn Thanh bật cười, kiêu ngạo, “Trà Kỳ Sơn so sao nổi với trà tỷ chế!”
Thân đại nương kéo nàng qua bên bảo, “Không nói chuyện ấy nữa. Nhạn Nhi, con đang mang thai, chẳng mấy chốc không thể mặc y phục này được nữa. Ta đã may cho con mấy bộ y phục, thử qua xem có thích không.”
Chẳng lẽ là y phục bà bầu mọi người thường nói? Hàn Nhạn Thanh hứng thú, “Mẫu thân”, nàng nhào vào lòng Thân đại nương, “Y phục mẫu thân may cho thì con nhất định sẽ thích.”
“Con ngoan!” Thân đại nương cười vui vẻ, cầm ra hai bộ y phục vải, nói là vải thô nhưng cũng cảm thấy rất thoải mái, đường may chắc chắn. Hàn Nhạn Thanh mặc lên người, quay phải quay trái một vòng. Thân đại nương thấy thế mỉm cười, “Cũng hơi rộng, ít ngày nữa bụng con lớn lên thì mặc mới vừa.”
“Ha ha, mẫu thân thật khéo tay.” Hàn Nhạn Thanh cười ngượng nghịu. Mặc dù trước kia đã từng bị Đan Tạp cho coi phim A[4], cũng đã nghe những chuyện tiếu lâm tục tĩu nhưng dù sao nàng vẫn là gái nhà lành, nói đến chuyện này thì vẫn hơi mất tự nhiên.
[4] Phim A: Phim khiêu dâm.
Nói mới nhớ chuyện đứa bé trong bụng này là của Hán Vũ Đế, Hàn Nhạn Thanh nghĩ đến đây thì bất giác thấy lạnh người, không biết người trong mộng kia trông mặt mũi ra sao.
“Tất nhiên rồi”, Thân đại nương có chút kiêu ngạo, “Mẫu thân ngày trước là thợ may, nghỉ làm đã lâu, may mà không xuống tay.”
“Thế ạ?” Hàn Nhạn Thanh kinh ngạc, trong lòng nảy ra một ý niệm, “Thế mẫu thân có biết ai là thợ may giỏi nhất thành Trường An không?”
“Con hỏi chuyện này làm gì?… Ừm, tất nhiên là Hạ tiểu thư của phường Nghê Thường rồi.”
Nàng sửa sang ống tay áo, tức giận chau mày, “Một thợ may mà cũng gọi là tiểu thư!”
“Nhạn Nhi không biết đó thôi, Hạ cô nương là con gái của Hạ lão bản, phường chủ phường Nghê Thường, tiểu thư con nhà giàu thực sự. Nàng ta có tay nghề cao, tính tình lại kiêu ngạo, giá một bộ y phục nàng ta may ít nhất phải bằng người trung lưu chi tiêu trong một năm.”
“Vậy à”, nàng hơi cúi đầu xuống.
“Hạ tiểu thư là con gái ông chủ Hạ thì sao có thể làm việc cho người ngoài được chứ? Nhạn Nhi đừng có đòi hỏi quá nhiều.” Đây là phản ứng trực tiếp nhất của Thân đại nương sau khi biết được tính toán của Hàn Nhạn Thanh.
“Mẫu thân chưa từng nghe câu ‘mưu sự tại nhân’ sao?” Hàn Nhạn Thanh không để ý tới điều đó, chỉ cười ngọt ngào, “Tất cả mọi chuyện đều có khả năng mà.”
Thân đại nương ngẩn người ra nhìn, đánh giá Hàn Nhạn Thanh bằng ánh mắt hoàn toàn mới mẻ. Trước đây Thân đại nương vẫn thường cho rằng Hàn Nhạn Thanh chẳng qua chỉ là một cô gái bình thường bỏ nhà trốn đi mà thôi, nhưng đến giờ thì bà lại giật mình cảm thấy nàng thật sự không phải đơn giản.
“Mẫu thân”, Hàn Nhạn Thanh dựa sát vào người Thân đại nương, “Mẫu thân nói cho con biết một chút về Hạ tiểu thư đi.”
“Được rồi.” Thân đại nương vô thức đáp, “Tiểu thư Hạ Đông Trữ là con gái thứ ba của ông chủ Hạ Diễn. Mẹ của nàng ta họ Tần, là tiểu thiếp thứ ba của ông chủ Hạ…”
Hàn Nhạn Thanh trở về phủ lúc trời đã tối đen, trông thấy một bóng người đang đứng lặng lẽ trong hành lang liền nâng đèn lồng lên soi. Vừa đúng lúc người nọ ngẩng đầu lên, dưới ánh nén là một gương mặt lạnh như băng khiến nàng sợ hết hồn, hỏi xẵng, “Ngươi ở đây làm gì?”
“Ăn ngon.” Lộng Triều nói một câu không đầu không đuôi.
“Cái gì?” Hàn Nhạn Thanh sửng sốt mất một lúc mới có phản ứng, bật cười hỏi, “Không phải ngươi cứ chờ mãi ở đây chỉ vì muốn nói một câu này với ta đấy chứ?”
“Ngày mai vẫn nấu chứ?” Lộng Triều rầu rĩ cúi đầu một lát rồi nói.
“Không.” Hàn Nhạn Thanh hơi hoảng hốt, “Ta đến đây không phải để làm người nấu ăn cho các ngươi.”
Lộng Triều dường như rất kiên nhẫn, bướng bỉnh nhìn Hàn Nhạn Thanh khiến nàng cảm giác rất đau đầu. Nàng giận mình đã tự chuốc lấy phiền toái nhưng việc một cậu bé tuấn tú cứ nhìn mãi bằng một ánh mắt thuần khiết tràn đầy khát vọng khiến nàng cảm thấy mình sắp sửa không cưỡng lại được nữa, bèn dựa vào một chút lý trí còn sót lại, vội vàng nhìn tránh đi, dỗ dành, “Gần đây ta có nhiều việc bận, qua đợt này ta bảo đảm hàng ngày sẽ nấu món ngon cho ngươi ăn có được không?”
Lộng Triều mặc dù không hài lòng lắm nhưng cuối cùng cũng không nài ép, trề môi bỏ đi để lại Hàn Nhạn Thanh ở lại lau mồ hôi lạnh toát ra trên trán.
/99
|