Họ đã chịu quá nhiều áp lực. Âu Khanh lau hai bàn tay đầy nước thuốc, bước đến bên cạnh Minh rồi nói. Vốn dĩ lúc đầu Khí thôn sẽ không thể giúp Hai Vương một cách triệt để được, đó là vì không có tướng thiên mệnh xuất hiện. Không có thiên mệnh, vua có tài giỏi cũng không thể thắng được sau cùng, cho nên ta cũng chỉ có thể nhịn khó chịu trong lòng mà phái đệ tử đắc ý là Thục đi giúp các nàng. Cháu có biết vì sao không?
Minh thờ thẫn lắc đầu, ánh mắt vẫn không rời khung cảnh bên dưới, suy nghĩ một lúc, hắn đoán mò Là vì cái tổ quy chết tiệt kia đi?
Tổ quy chết tiệt? Âu Khanh bật thốt, rồi hắn ha hả cười vang nói Đúng nó chết tiệt, cực kỳ, ta thật đồng ý với cháu! Lau nước mắt bằng bàn tay già nua, hắn kể. Khi thiên mệnh Cao Lỗ bị Triệu quân giết chết bằng chính thứ vũ khí mà chúng ta vất vả bao nhiêu năm liền mới chế tạo ra được dâng cho minh quân Thục Phán, Khí thôn đã từng có nhiều luồn tranh cãi về cái này tổ quy. Tình huống sao, không khác bây giờ là bao nhiêu... ông chậm rãi kể.
An Dương Vương? Cao Lỗ? Minh không thể không bị những cái tên này đánh đến choáng, hắn xác nhận.
Cháu không nghe lầm đâu. Là Cao Lỗ cùng Thục Phán. Ông gật đầu, đoạn bước sang cái nồi nước sôi, nhẹ nhành dùng chiếc đũa khuấy hai khuấy, lấy lên tấm vải trắng đã tiệt trùng rồi cầm.lấy nó bước vào trong nhà. Minh cũng hiếu kỳ đi vào theo trong tiếng kể của ông.
Cháu biết không, thôn này tên là Khí thôn. Bước hai bước, ông dừng lại nói rõ Khí trong bỏ đi, không phải khí trong vũ khí. Cứ mỗi lần thiên mệnh xuất hiện, chúng ta phải bỏ thôn, toàn lực đi theo giúp đỡ.
Năm đó Cao Lỗ được phát hiện là thiên mệnh, cả thôn đều phải bái ông làm chủ, mất rất nhiều thời gian công sức, mới có thể có được nước Âu Lạc. Đến khi ông mất về tay kẻ thù, vì báo thù rửa hận cho ông hay là chống ngoại xâm đều là lý do khiến nhiều người trong thôn quyết tâm không rời bỏ Thục Phán. Kết quả là chúng ta chọn lựa một ít người lưu lại giữ gìn truyền thừa, còn lại hết lòng hết sức theo hắn chống giặc. Những người ở lại thì sống, tất cả những người ra đi, không một ai trở về, rất nhiều tài nguyên vốn dành cho thiên mệnh cũng bị phá mất. Mặc kệ cháu có tin hay không đó đều là vận mệnh của Khí Thôn. Mẫu thần đã ra tổ quy, chính là dù bọn ta rất muốn cũng không thể trái. Không phải vì bọn ta hèn nhát, mà vì Khí thôn phải tiếp tục tồn tại, vì tìm kiếm thiên mệnh mà tồn tại, và vì đời sau Văn Lang, Âu Lạc.
Thế nhưng Hai vị Vương... Minh theo phản xạ phản bác, nhưng hắn im lặng bất lực. Ký ức cho hắn biết là Hai Bà Trưng đều phải tuẫn quốc ở Sông Hát, mà theo sau hai bà biết bao nhân tài anh hùng của đất Lĩnh Nam cũng không thể thoát khỏi số phận bi ai này. Liệu trong đó có hay không Gia Hưng công chúa Trần Quốc và Bát Nạn Đại tướng quân, Khí Thôn truyền nhân Vũ Thị Thục, cùng nhiều người hắn quen biết?
Ông lão hơi dừng bước chân khi nghe Minh nói, rồi ông nhếch môi cười đi đến bên một tên thôn binh đang bất tỉnh, tay thành thạo băng bó vết thương dưới cái đùi đã cụt đến gối của hắn, ông nói Cháu có lẽ biết cái gì đó... . Sau khi băng bó xong, ông đứng dậy vặn vẹo cái lưng, như để tuyên bố mình thật đã già, sau đó lại lững thững đi ra ngoài hiên, ông nhoài người lên rào chắn, nheo mắt hưởng thụ ánh nắng rồi nói tiếp.
Cháu tin vào những thứ không bao giờ thấy sao? Như linh hồn, như ma quỷ, hoặc là số mệnh?
Minh mới định mở miệng theo bản năng nói không, lại không khỏi nghĩ đến chính mình kỳ lạ xuyên qua mà gật đầu nói. Cháu tin. Ông Âu Khanh nheo mắt nhìn hắn rồi nói
Là tin thật, thế là tốt! Lúc nãy ta nói gì? Họ chịu áp lực, đúng rồi họ chịu áp lực, cháu biết từ đâu sao? Thấy Minh không nói, lão tự kể.
Tin hay không cũng vậy, đấy là trong huyền sử của Thôn ghi lại.
Tất cả quốc gia thành lập lên, đều gắn liền với số mệnh của quốc gia đó. Quốc gia có số mệnh mạnh mẽ thì tồn tại lâu dài, quốc gia có số mệnh yếu đuối thì mau chóng suy tàn. Vì thế mà giữa các nước luôn chinh chiến không dừng, tất cả đều vì muốn chiếm đoạt số mệnh đối phương, làm giàu cho chính mình.
Khi xưa ở phía Nam dãy Ngũ Linh cùng sông Dương Tử, có một nhóm bộ lạc sinh sông, họ dùng phủ tài tình vô cùng, dần dà xung quanh mọi người gọi họ là người Việt, tộc họ là tộc Việt. Tộc Việt có số mệnh không yếu, là một loài chim lớn kỳ lạ. Bọn họ cử một người đàn ông họ Lạc tên Tục làm đại diện chăm sóc số mệnh này, vì đây là một việc vui mừng, nên về sau họ cùng gọi ông thành Lộc Tục. Số mệnh dưới sự chăm sóc của dân Việt lớn mạnh không ngừng, đã không kém cạnh gì các nước xung quanh, vì thế Lộc Tục bày với dân Việt cũng tự lập quốc gia của mình, gọi là Xích Quỷ.
Năm đó khi nước Xích Quỷ mừng ngày lễ lập quốc, Vua của Bắc quốc là Đế Minh đã cử con mình Đế Nghi đến chúc mừng vua của nước Xích Quỷ, Kinh Dương Vương Lộc Tục. Lúc đó nhiều vị vua hoặc sứ giả ở xung quanh cũng đến chúc mừng, không khí vui vẻ náo nhiệt không thôi. Ở buổi tiệc mừng, Đế Nghi lấy thân phận thiên quốc yêu cầu Lộc Tục lấy danh nghĩa làm thần tử mà thờ phụng hắn lên làm Đế của tất cả chư vương, lại hứa hẹn sẽ sắc phong ngài làm Việt Vương, hàng năm đều nên đi sứ tiến cống sản vật lấy làm đạo quân thần bền vững, nhưng bị ngài không chút suy nghĩ bác bỏ.
Thấy Lộc Tục không đồng ý, Đế Nghi cũng không hề tỏ vẻ khó chịu. Y bèn sách lấy lời thệ rằng về sau dãy Ngũ Linh sẽ làm ranh giới, đất Nam người Bắc không ai phụ ai. Đồng thời vì chúc mừng nước Xích Quỷ, y lấy rất nhiều dị bảo tặng cho Kinh Dương Vương Đây được mọi người coi là điều tốt, họ cùng nhau tiến lên chúc mừng. Đế Nghi thấy mọi người vui mừng thì môi hơi nhếch, im lặng mà quan sát Lộc Tục.
Đêm đến, Đế Nghi nhân lúc Kinh Dương Vương ngủ say đã lén vào điện chứa vận mệnh. Ở đây y thấy có một con chim lạ có hai màu vàng xanh đan xen. Con chim này toàn thân do từng luồn khí lưu không ngừng chuyển động tạo thành. Mắt nhỏ màu đỏ, trên đầu có ba xoáy tròn tiến dần về sau, mỏ dài quá cổ, chân thon dài bằng thân, đuôi là chuỗi khí lưu sặc sỡ như cầu vồng. Khi chim bay nhảy thì muôn hoa gần đó đua nở, khi chim đậu lại thì dưới thác nước cá nhảy lên nhìn. Cánh chim dài hàng mấy trăm trượng, trên cánh kết đầy mây làm thành lông vũ, chim cao hàng mấy trăm trượng, mỗi lần chim kêu lên đều có muôn vàn ánh sáng giao thoa. Đó chính là chim Lạc, số mệnh của nước Xích Quỷ.
Thì ra trong số dị bảo mà y tặng có một loài quả mà chim rất thích ăn, y đem khí tức của mình, ẩn vào trong quả, để tìm cách biết được chỗ nuôi số mệnh, hòng lấy hết chúng. May mắn lúc ấy con trai của Lộc Tục là Lạc Lang Quân thấy có người lạ định thu số mệnh quốc gia thì giận lắm bèn lao vào cản. Tuy chàng võ nghệ cao cường vẫn khó lòng đánh lại Đế Nghi, số mệnh vì vậy cũng bị hắn xé làm hai. Kinh Dương Vương đang ngủ thấy tiếng động ồn ào ở cung điện bèn hoảng sợ quá nỗi, ngài lao đến trợ giúp Lạc Lang quân đánh bại Đế Nghi, khiến y trọng thương đành phải trốn vè đất Bắc.
Hóa ra cái được gọi là số mệnh quốc gia chính là gồm hai thứ tạo thành. Một là số mệnh của người đại diện cho lê dân, nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ muôn dân, mọi người gọi người đó là vua, vương, còn số mệnh của họ là tướng minh quân. Một thứ khác phiêu miễu khó dò, chính là vận khí dùng để kết nối lê dân với thiên địa vạn vật, nhờ đó giúp quốc gia thêm phồn vinh, dân chúng thêm mạnh mẽ, chính là tướng thiên mệnh.
Phần tướng minh quân gần gũi với dòng máu Việt tộc hơn nên sau khi bị Lạc Lang Quân nuốt đã dung nhập vào máu chàng, khiến chàng có sức mạnh vô địch và thần thông vô biên. Chàng vì thế trên đánh yêu quái, dưới hạ thuồng luồng giao long, nên về sau mọi người gọi chàng là Lạc Long Quân. Lộc Tục thấy vậy vui mừng, bèn truyền ngôi cho chàng.
Phần tướng thiên mệnh lại mông lung như ý trời, vừa bị chém đã bay mất, vì thế nước Xích Quỷ không có thiên mệnh mà vận khí nước dần mất.
Lạc Long Quân thấy khí số Xích Quỷ tàn lụi thì đau lòng, chàng lấy xương ngực làm kim chỉ đường, hòng kết nối với thiên mệnh, mất bao nhiêu trăc trở, tốn bao nhiêu thời gian công sức, giết bao nhiêu kẻ thù yêu quái mới tìm được Thiên mệnh nay đã hóa thân làm một cô gái họ Ấu, tên Cơ. Khi cả hai gặp nhau, hai tia khí tức liền cảm nhận được nhau, quyến luyến mãi không rời. Họ ở với nhau rồi sinh ra được một cái bọc trăm trứng, nở ra trăm người con.
Trong suốt thời gian ở chung, Lạc Long Quân và Âu Cơ tìm mọi cách để dung hợp lại hai luồng tướng mệnh, lại vô phép làm được, vì một đã hòa vào máu huyết chàng, một đã rời quá xa nhân gian. Lại vì thấy vận số Xích Quỷ đã hết mà cả hai đều buồn bã không thôi.
Người con cả thấy cha mẹ không vui bèn hỏi thăm, khi biết đầu đuôi câu chuyện, chàng vái mà thưa rằng
-Nay tướng mệnh đã chia lìa không thể nối lại như xưa, như ly nước đã đổ không thể lấy lại được, thế nên cha mẹ đừng buồn. Nay con thấy nếu không cách nào hợp lại tướng mệnh, thì cứ chia ra, nhưng có thể thử dùng vật dẫn tiếp nối chúng lại với nhau, thông qua nó để phát huy mệnh đế vương.
Lạc Long Quân và Ấu Cơ nghe vậy mừng lắm, chàng bèn lấy đoạn xương kia rèn thành một cây kiếm, nàng thì bức lấy tim luyện thành một khối ngọc, khi hai thứ gắn vào nhau thì điều kỳ diệu phát sinh, ngọc nạm lên lưỡi kiếm, kiếm phát ánh quang huy, mệnh đế vương thông qua đó được phục hồi.
Hai người vui mừng lấy thanh kiếm trao cho người con cả, rồi nói
-Nay con đã có ý kiến hay, lại thành công, cha mẹ đưa con kiếm này, từ đây lấy làm tin. Phàm người tộc ta giữ kiếm này thì phải có thiên mệnh giúp đỡ mới có thể kích phát mệnh đế vương, từ đó làm vua tộc Việt, chăm nuôi lê dân.
Chàng lĩnh kiếm, rồi thay nước Xích Quỷ thành Văn Lang, lấy thiên mệnh nuôi nấng, truyền thừa được mười tám đời không dứt. Dân nước Văn Lang cũng tôn sùng Lạc Lông Quân làm cha, Âu Cơ làm mẹ, tự nhận mình là con rồng cháu tiên, lấy trăm trứng làm tên cho tộc mình là Bách Việt.
Kiếm ấy là Thuận Thiên Kiếm, khi mảnh ngọc rời kiếm là thiên mệnh lại ẩn đi. Ngọc gọi là Lạc Điểu ngọc, vì bản thể của tướng thiên mệnh là loài thần điểu này. Mà Ấu Cơ thân mang thiên mệnh bị tách vào ngọc, vì biết bản thân không thể mãi mãi giữ lấy tướng thiên mệnh, nên mới sai người con thứ hai lập nên Âu thôn, đời đời nuôi dưỡng, tìm kiếm thiên mệnh, đó chính là Khí Thôn này.
Nhờ có thiên mệnh và minh quân chỉ dẫn, người Việt sống trong cảnh ấm no, số mệnh đất nước ngày một gia cường, mà vì thế cũng khiến cho Bắc Quốc ngày càng thèm thuồng luồn khí vận này. Từ khi Đế Nghi bị thương về sau qua thời ngũ đế truyền đến Hạ, Ân, Chu....không có một triều đại nào không muốn lăm le vùng đất nam Ngũ Linh này. Nhưng không một triều nào thành công. Không nói những đời Vua Hùng đều có khí vận gia thân, thiên mệnh giúp đỡ, chỉ nói thanh Thuận Thiên Kiếm cũng đủ làm Bắc Quốc sợ hãi. Kiếm vừa ra, quỷ thần kinh sợ, giặc dã tan tác.
Vì vậy, giặc Ân nhờ quỷ thần che giấu, đã lẩn vào trong cung điện của Hùng Vương mà tìm hiểu bí mật kiếm thần. Tuy bị Hùng Vương phát giác đánh chết, chúng vẫn kịp làm thiên mệnh ẩn mất. May là lúc đó Âu Thôn vẫn còn rất mạnh mẽ, các tổ tiên nhanh chóng tìm được thiên mệnh ẩn trong một cậu bé ở làng Phù Đổng, đưa về chứng nhận. Lại có người trong thôn tên Âu Dã tinh thông rèn khí, rèn được một trăm bộ giáp bằng kim loại cứng, một trăm cái khôi, một trăm thanh kiếm, cùng một cây roi thô to hơn hai trượng (~8m) và một bộ khải giáp của chiến mã.
Nhờ có thiên mệnh gia thân mà cậu bé nhanh chóng trưởng thành, dẫn đạo quân chín mươi chín Văn Lang quân tinh nhuệ trang bị vũ khí áo giáp phá tan quân Ân. Loại kim loại đó, ngày sau được gọi là sắt, mà để ghi ơn vị thợ rèn kia, về sau mỗi đời thợ rèn trong thôn đạt đến trình độ đăng phong tạo cực đều đổi tên thành Âu Dã Tử. Mà bí mật Thuận Thiên Kiếm cùng thiên mệnh cũng bị truyền về Bắc quốc.
Cũng từ đó về sau, thiên mệnh đã bắt đầu không phải lúc nào cũng có. Càng ngày thiên mệnh lại càng khó tìm, phạm vi nó ẩn vào ngày càng rộng, cũng ngày càng mông lung không còn cụ thể nữa. Đến lần gần nhất, thiên mệnh ẩn mất. Có vị hậu duệ con trai thứ ba của Lạc Long Quân và Ấu Cơ tên là Thục Phán ở nước Tây Âu được truyền thừa tướng minh quân, sau đó lấy kiếm Thuận Thiên mà tìm thấy thiên mệnh ẩn vào Cao Lỗ. Nhờ đó chiếm được khí vận nước Văn Lang, chém con gà trắng mà xây Cổ Loa. Thục Phán sau đó đặt nước Âu Lạc. Số phận đất Nam do đó cũng thay đổi.
Thục Phán tuy có tướng minh quân, nhưng không thể giữ lấy bản tâm một lòng không đổi, càng về già ngài càng phạm nhiều sai lầm. Trong đó có hai cái lớn nhất.
Một là để Trọng Thủy vào làm rể Âu Lạc. Hắn tìm cách áp chế khí vận, lợi dụng tấm lòng của Mị Châu mà làm hỏng một phần Thuận Thiên Kiếm bằng cách lấy đi Lạc Điểu ngọc được ngụy trang thành lẫy nỗ thần Kim Quy. Đồng thời lấy đi bí quyết chế tạo nổ liên châu từ Khí thôn, do đó Bắc quốc nỗ khí bỗng dưng phát triển mạnh mẽ.
Hai là ngài vì quá tự tin vào bản thân cùng quốc vận mà đuổi đi Cao Lỗ. Minh quân rời thiên mệnh, chính là điềm vận khí đại xuy. Vậy mà Thục Phán còn không hay biết, dẫn đến cái họa về sau.
Tuy sau khi Trọng Thủy chết, Khí thôn tốn sức chín trâu hai hổ lấy lại được ngọc thần, nhưng vì Cao Lỗ đã mất nên thiên mệnh lại ẩn đi. Mà Thuận Thiên Kiếm cũng bị phá hoại, không thể dùng để tìm kiếm thiên mệnh được nữa. Cho nên qua hàng trăm năm, tuy biết thiên mệnh vẫn luôn tồn tại mà chúng ta vẫn khó có thể tìm ra. Lại vì không có thiên mệnh nên dù mỗi đời minh quân đều cố gắng đến bao nhiêu cũng bị đàn áp trong biển máu. Ông Âu Khanh kết thúc câu chuyện trong tiếng thở dài
Thuận thiên kiếm... nãy giờ nghe Khí thôn trưởng thôn kể mà Minh không thể nào hoàn hồn. Huyền sử ông kể quả thật Minh nhớ man máng ở đời sau cũng có phiên bản tương tự, duy có nhiều tình tiết dị biệt mà thôi. Nhưng Thuận Thiên Kiếm quá nổi tiếng, đây là thanh kiếm của Lê Thái Tổ Lê Lợi, theo truyền thuyết là do thần Kim Quy ban tặng giúp ông chống giặc Minh. Không ngờ ở nơi này, hắn lại có thể biết được một nguồn gốc khác của thanh kiếm.
Bỗng dưng nhớ đến điều gì, Minh vội hỏi Ông ơi, thế bây giờ thanh thần kiếm đang ở nơi nào? Âu Khanh ngạc nhiên nhìn Minh mà đáp
Còn ở nơi nào? Đương nhiên do Khí thôn chúng ta bảo vệ, đây là trách nhiệm của chúng ta suốt bao nhiêu năm qua!
Không phải lưỡi kiếm và cán kiếm chia lìa sao? Không có thần Kim Quy đến tặng kiếm sao? Minh thầm nghĩ. Lông mày hắn chả mấy chốc mà nhíu lại thành một đoàn, hắn cố gắng lục lọi ký ức, lại mơ hồ khó có thể phân biệt đâu là đúng, đâu là sai, khiến hắn đau đầu không thôi. Âu Khanh thấy hắn nhíu mày mà không hiểu vì sao, ông thấy Minh dường như biết nhiều điều gì đó, cũng hiểu nhiều thứ mà ngay cả ông cũng không biết. Xong mỗi người đều có bí mật riêng của mình, là người từng trải ông sẽ không câu nệ những thứ đó. Nhẹ nhàng nhìn ra những cây thông cao lớn ngoài xa, ông khẽ ngâm nga một câu hát cổ nghe không rõ. Rồi chợt thấy nàng Quốc đang vội vàng lách người qua dày đặc quân y từ xa chạy lại, ông quay sang Minh, trịnh trọng nói.
Huyền sử nói cho cùng chỉ là huyền sử mà thôi. Rất nhiều thứ trong đó đã không thể nào kiểm chứng được, rất nhiều thứ khác lại được thần thánh hóa. Thế nhưng huyền sử cũng là sử, nó vẫn ghi lại rất nhiều sự thật, cũng giải thích rất nhiều điều khác.
Thưa ông? Ví dụ như? Minh hỏi dò.
Như cách kiểm nghiệm người có hay không tướng thiên mệnh!
Minh thờ thẫn lắc đầu, ánh mắt vẫn không rời khung cảnh bên dưới, suy nghĩ một lúc, hắn đoán mò Là vì cái tổ quy chết tiệt kia đi?
Tổ quy chết tiệt? Âu Khanh bật thốt, rồi hắn ha hả cười vang nói Đúng nó chết tiệt, cực kỳ, ta thật đồng ý với cháu! Lau nước mắt bằng bàn tay già nua, hắn kể. Khi thiên mệnh Cao Lỗ bị Triệu quân giết chết bằng chính thứ vũ khí mà chúng ta vất vả bao nhiêu năm liền mới chế tạo ra được dâng cho minh quân Thục Phán, Khí thôn đã từng có nhiều luồn tranh cãi về cái này tổ quy. Tình huống sao, không khác bây giờ là bao nhiêu... ông chậm rãi kể.
An Dương Vương? Cao Lỗ? Minh không thể không bị những cái tên này đánh đến choáng, hắn xác nhận.
Cháu không nghe lầm đâu. Là Cao Lỗ cùng Thục Phán. Ông gật đầu, đoạn bước sang cái nồi nước sôi, nhẹ nhành dùng chiếc đũa khuấy hai khuấy, lấy lên tấm vải trắng đã tiệt trùng rồi cầm.lấy nó bước vào trong nhà. Minh cũng hiếu kỳ đi vào theo trong tiếng kể của ông.
Cháu biết không, thôn này tên là Khí thôn. Bước hai bước, ông dừng lại nói rõ Khí trong bỏ đi, không phải khí trong vũ khí. Cứ mỗi lần thiên mệnh xuất hiện, chúng ta phải bỏ thôn, toàn lực đi theo giúp đỡ.
Năm đó Cao Lỗ được phát hiện là thiên mệnh, cả thôn đều phải bái ông làm chủ, mất rất nhiều thời gian công sức, mới có thể có được nước Âu Lạc. Đến khi ông mất về tay kẻ thù, vì báo thù rửa hận cho ông hay là chống ngoại xâm đều là lý do khiến nhiều người trong thôn quyết tâm không rời bỏ Thục Phán. Kết quả là chúng ta chọn lựa một ít người lưu lại giữ gìn truyền thừa, còn lại hết lòng hết sức theo hắn chống giặc. Những người ở lại thì sống, tất cả những người ra đi, không một ai trở về, rất nhiều tài nguyên vốn dành cho thiên mệnh cũng bị phá mất. Mặc kệ cháu có tin hay không đó đều là vận mệnh của Khí Thôn. Mẫu thần đã ra tổ quy, chính là dù bọn ta rất muốn cũng không thể trái. Không phải vì bọn ta hèn nhát, mà vì Khí thôn phải tiếp tục tồn tại, vì tìm kiếm thiên mệnh mà tồn tại, và vì đời sau Văn Lang, Âu Lạc.
Thế nhưng Hai vị Vương... Minh theo phản xạ phản bác, nhưng hắn im lặng bất lực. Ký ức cho hắn biết là Hai Bà Trưng đều phải tuẫn quốc ở Sông Hát, mà theo sau hai bà biết bao nhân tài anh hùng của đất Lĩnh Nam cũng không thể thoát khỏi số phận bi ai này. Liệu trong đó có hay không Gia Hưng công chúa Trần Quốc và Bát Nạn Đại tướng quân, Khí Thôn truyền nhân Vũ Thị Thục, cùng nhiều người hắn quen biết?
Ông lão hơi dừng bước chân khi nghe Minh nói, rồi ông nhếch môi cười đi đến bên một tên thôn binh đang bất tỉnh, tay thành thạo băng bó vết thương dưới cái đùi đã cụt đến gối của hắn, ông nói Cháu có lẽ biết cái gì đó... . Sau khi băng bó xong, ông đứng dậy vặn vẹo cái lưng, như để tuyên bố mình thật đã già, sau đó lại lững thững đi ra ngoài hiên, ông nhoài người lên rào chắn, nheo mắt hưởng thụ ánh nắng rồi nói tiếp.
Cháu tin vào những thứ không bao giờ thấy sao? Như linh hồn, như ma quỷ, hoặc là số mệnh?
Minh mới định mở miệng theo bản năng nói không, lại không khỏi nghĩ đến chính mình kỳ lạ xuyên qua mà gật đầu nói. Cháu tin. Ông Âu Khanh nheo mắt nhìn hắn rồi nói
Là tin thật, thế là tốt! Lúc nãy ta nói gì? Họ chịu áp lực, đúng rồi họ chịu áp lực, cháu biết từ đâu sao? Thấy Minh không nói, lão tự kể.
Tin hay không cũng vậy, đấy là trong huyền sử của Thôn ghi lại.
Tất cả quốc gia thành lập lên, đều gắn liền với số mệnh của quốc gia đó. Quốc gia có số mệnh mạnh mẽ thì tồn tại lâu dài, quốc gia có số mệnh yếu đuối thì mau chóng suy tàn. Vì thế mà giữa các nước luôn chinh chiến không dừng, tất cả đều vì muốn chiếm đoạt số mệnh đối phương, làm giàu cho chính mình.
Khi xưa ở phía Nam dãy Ngũ Linh cùng sông Dương Tử, có một nhóm bộ lạc sinh sông, họ dùng phủ tài tình vô cùng, dần dà xung quanh mọi người gọi họ là người Việt, tộc họ là tộc Việt. Tộc Việt có số mệnh không yếu, là một loài chim lớn kỳ lạ. Bọn họ cử một người đàn ông họ Lạc tên Tục làm đại diện chăm sóc số mệnh này, vì đây là một việc vui mừng, nên về sau họ cùng gọi ông thành Lộc Tục. Số mệnh dưới sự chăm sóc của dân Việt lớn mạnh không ngừng, đã không kém cạnh gì các nước xung quanh, vì thế Lộc Tục bày với dân Việt cũng tự lập quốc gia của mình, gọi là Xích Quỷ.
Năm đó khi nước Xích Quỷ mừng ngày lễ lập quốc, Vua của Bắc quốc là Đế Minh đã cử con mình Đế Nghi đến chúc mừng vua của nước Xích Quỷ, Kinh Dương Vương Lộc Tục. Lúc đó nhiều vị vua hoặc sứ giả ở xung quanh cũng đến chúc mừng, không khí vui vẻ náo nhiệt không thôi. Ở buổi tiệc mừng, Đế Nghi lấy thân phận thiên quốc yêu cầu Lộc Tục lấy danh nghĩa làm thần tử mà thờ phụng hắn lên làm Đế của tất cả chư vương, lại hứa hẹn sẽ sắc phong ngài làm Việt Vương, hàng năm đều nên đi sứ tiến cống sản vật lấy làm đạo quân thần bền vững, nhưng bị ngài không chút suy nghĩ bác bỏ.
Thấy Lộc Tục không đồng ý, Đế Nghi cũng không hề tỏ vẻ khó chịu. Y bèn sách lấy lời thệ rằng về sau dãy Ngũ Linh sẽ làm ranh giới, đất Nam người Bắc không ai phụ ai. Đồng thời vì chúc mừng nước Xích Quỷ, y lấy rất nhiều dị bảo tặng cho Kinh Dương Vương Đây được mọi người coi là điều tốt, họ cùng nhau tiến lên chúc mừng. Đế Nghi thấy mọi người vui mừng thì môi hơi nhếch, im lặng mà quan sát Lộc Tục.
Đêm đến, Đế Nghi nhân lúc Kinh Dương Vương ngủ say đã lén vào điện chứa vận mệnh. Ở đây y thấy có một con chim lạ có hai màu vàng xanh đan xen. Con chim này toàn thân do từng luồn khí lưu không ngừng chuyển động tạo thành. Mắt nhỏ màu đỏ, trên đầu có ba xoáy tròn tiến dần về sau, mỏ dài quá cổ, chân thon dài bằng thân, đuôi là chuỗi khí lưu sặc sỡ như cầu vồng. Khi chim bay nhảy thì muôn hoa gần đó đua nở, khi chim đậu lại thì dưới thác nước cá nhảy lên nhìn. Cánh chim dài hàng mấy trăm trượng, trên cánh kết đầy mây làm thành lông vũ, chim cao hàng mấy trăm trượng, mỗi lần chim kêu lên đều có muôn vàn ánh sáng giao thoa. Đó chính là chim Lạc, số mệnh của nước Xích Quỷ.
Thì ra trong số dị bảo mà y tặng có một loài quả mà chim rất thích ăn, y đem khí tức của mình, ẩn vào trong quả, để tìm cách biết được chỗ nuôi số mệnh, hòng lấy hết chúng. May mắn lúc ấy con trai của Lộc Tục là Lạc Lang Quân thấy có người lạ định thu số mệnh quốc gia thì giận lắm bèn lao vào cản. Tuy chàng võ nghệ cao cường vẫn khó lòng đánh lại Đế Nghi, số mệnh vì vậy cũng bị hắn xé làm hai. Kinh Dương Vương đang ngủ thấy tiếng động ồn ào ở cung điện bèn hoảng sợ quá nỗi, ngài lao đến trợ giúp Lạc Lang quân đánh bại Đế Nghi, khiến y trọng thương đành phải trốn vè đất Bắc.
Hóa ra cái được gọi là số mệnh quốc gia chính là gồm hai thứ tạo thành. Một là số mệnh của người đại diện cho lê dân, nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy dỗ muôn dân, mọi người gọi người đó là vua, vương, còn số mệnh của họ là tướng minh quân. Một thứ khác phiêu miễu khó dò, chính là vận khí dùng để kết nối lê dân với thiên địa vạn vật, nhờ đó giúp quốc gia thêm phồn vinh, dân chúng thêm mạnh mẽ, chính là tướng thiên mệnh.
Phần tướng minh quân gần gũi với dòng máu Việt tộc hơn nên sau khi bị Lạc Lang Quân nuốt đã dung nhập vào máu chàng, khiến chàng có sức mạnh vô địch và thần thông vô biên. Chàng vì thế trên đánh yêu quái, dưới hạ thuồng luồng giao long, nên về sau mọi người gọi chàng là Lạc Long Quân. Lộc Tục thấy vậy vui mừng, bèn truyền ngôi cho chàng.
Phần tướng thiên mệnh lại mông lung như ý trời, vừa bị chém đã bay mất, vì thế nước Xích Quỷ không có thiên mệnh mà vận khí nước dần mất.
Lạc Long Quân thấy khí số Xích Quỷ tàn lụi thì đau lòng, chàng lấy xương ngực làm kim chỉ đường, hòng kết nối với thiên mệnh, mất bao nhiêu trăc trở, tốn bao nhiêu thời gian công sức, giết bao nhiêu kẻ thù yêu quái mới tìm được Thiên mệnh nay đã hóa thân làm một cô gái họ Ấu, tên Cơ. Khi cả hai gặp nhau, hai tia khí tức liền cảm nhận được nhau, quyến luyến mãi không rời. Họ ở với nhau rồi sinh ra được một cái bọc trăm trứng, nở ra trăm người con.
Trong suốt thời gian ở chung, Lạc Long Quân và Âu Cơ tìm mọi cách để dung hợp lại hai luồng tướng mệnh, lại vô phép làm được, vì một đã hòa vào máu huyết chàng, một đã rời quá xa nhân gian. Lại vì thấy vận số Xích Quỷ đã hết mà cả hai đều buồn bã không thôi.
Người con cả thấy cha mẹ không vui bèn hỏi thăm, khi biết đầu đuôi câu chuyện, chàng vái mà thưa rằng
-Nay tướng mệnh đã chia lìa không thể nối lại như xưa, như ly nước đã đổ không thể lấy lại được, thế nên cha mẹ đừng buồn. Nay con thấy nếu không cách nào hợp lại tướng mệnh, thì cứ chia ra, nhưng có thể thử dùng vật dẫn tiếp nối chúng lại với nhau, thông qua nó để phát huy mệnh đế vương.
Lạc Long Quân và Ấu Cơ nghe vậy mừng lắm, chàng bèn lấy đoạn xương kia rèn thành một cây kiếm, nàng thì bức lấy tim luyện thành một khối ngọc, khi hai thứ gắn vào nhau thì điều kỳ diệu phát sinh, ngọc nạm lên lưỡi kiếm, kiếm phát ánh quang huy, mệnh đế vương thông qua đó được phục hồi.
Hai người vui mừng lấy thanh kiếm trao cho người con cả, rồi nói
-Nay con đã có ý kiến hay, lại thành công, cha mẹ đưa con kiếm này, từ đây lấy làm tin. Phàm người tộc ta giữ kiếm này thì phải có thiên mệnh giúp đỡ mới có thể kích phát mệnh đế vương, từ đó làm vua tộc Việt, chăm nuôi lê dân.
Chàng lĩnh kiếm, rồi thay nước Xích Quỷ thành Văn Lang, lấy thiên mệnh nuôi nấng, truyền thừa được mười tám đời không dứt. Dân nước Văn Lang cũng tôn sùng Lạc Lông Quân làm cha, Âu Cơ làm mẹ, tự nhận mình là con rồng cháu tiên, lấy trăm trứng làm tên cho tộc mình là Bách Việt.
Kiếm ấy là Thuận Thiên Kiếm, khi mảnh ngọc rời kiếm là thiên mệnh lại ẩn đi. Ngọc gọi là Lạc Điểu ngọc, vì bản thể của tướng thiên mệnh là loài thần điểu này. Mà Ấu Cơ thân mang thiên mệnh bị tách vào ngọc, vì biết bản thân không thể mãi mãi giữ lấy tướng thiên mệnh, nên mới sai người con thứ hai lập nên Âu thôn, đời đời nuôi dưỡng, tìm kiếm thiên mệnh, đó chính là Khí Thôn này.
Nhờ có thiên mệnh và minh quân chỉ dẫn, người Việt sống trong cảnh ấm no, số mệnh đất nước ngày một gia cường, mà vì thế cũng khiến cho Bắc Quốc ngày càng thèm thuồng luồn khí vận này. Từ khi Đế Nghi bị thương về sau qua thời ngũ đế truyền đến Hạ, Ân, Chu....không có một triều đại nào không muốn lăm le vùng đất nam Ngũ Linh này. Nhưng không một triều nào thành công. Không nói những đời Vua Hùng đều có khí vận gia thân, thiên mệnh giúp đỡ, chỉ nói thanh Thuận Thiên Kiếm cũng đủ làm Bắc Quốc sợ hãi. Kiếm vừa ra, quỷ thần kinh sợ, giặc dã tan tác.
Vì vậy, giặc Ân nhờ quỷ thần che giấu, đã lẩn vào trong cung điện của Hùng Vương mà tìm hiểu bí mật kiếm thần. Tuy bị Hùng Vương phát giác đánh chết, chúng vẫn kịp làm thiên mệnh ẩn mất. May là lúc đó Âu Thôn vẫn còn rất mạnh mẽ, các tổ tiên nhanh chóng tìm được thiên mệnh ẩn trong một cậu bé ở làng Phù Đổng, đưa về chứng nhận. Lại có người trong thôn tên Âu Dã tinh thông rèn khí, rèn được một trăm bộ giáp bằng kim loại cứng, một trăm cái khôi, một trăm thanh kiếm, cùng một cây roi thô to hơn hai trượng (~8m) và một bộ khải giáp của chiến mã.
Nhờ có thiên mệnh gia thân mà cậu bé nhanh chóng trưởng thành, dẫn đạo quân chín mươi chín Văn Lang quân tinh nhuệ trang bị vũ khí áo giáp phá tan quân Ân. Loại kim loại đó, ngày sau được gọi là sắt, mà để ghi ơn vị thợ rèn kia, về sau mỗi đời thợ rèn trong thôn đạt đến trình độ đăng phong tạo cực đều đổi tên thành Âu Dã Tử. Mà bí mật Thuận Thiên Kiếm cùng thiên mệnh cũng bị truyền về Bắc quốc.
Cũng từ đó về sau, thiên mệnh đã bắt đầu không phải lúc nào cũng có. Càng ngày thiên mệnh lại càng khó tìm, phạm vi nó ẩn vào ngày càng rộng, cũng ngày càng mông lung không còn cụ thể nữa. Đến lần gần nhất, thiên mệnh ẩn mất. Có vị hậu duệ con trai thứ ba của Lạc Long Quân và Ấu Cơ tên là Thục Phán ở nước Tây Âu được truyền thừa tướng minh quân, sau đó lấy kiếm Thuận Thiên mà tìm thấy thiên mệnh ẩn vào Cao Lỗ. Nhờ đó chiếm được khí vận nước Văn Lang, chém con gà trắng mà xây Cổ Loa. Thục Phán sau đó đặt nước Âu Lạc. Số phận đất Nam do đó cũng thay đổi.
Thục Phán tuy có tướng minh quân, nhưng không thể giữ lấy bản tâm một lòng không đổi, càng về già ngài càng phạm nhiều sai lầm. Trong đó có hai cái lớn nhất.
Một là để Trọng Thủy vào làm rể Âu Lạc. Hắn tìm cách áp chế khí vận, lợi dụng tấm lòng của Mị Châu mà làm hỏng một phần Thuận Thiên Kiếm bằng cách lấy đi Lạc Điểu ngọc được ngụy trang thành lẫy nỗ thần Kim Quy. Đồng thời lấy đi bí quyết chế tạo nổ liên châu từ Khí thôn, do đó Bắc quốc nỗ khí bỗng dưng phát triển mạnh mẽ.
Hai là ngài vì quá tự tin vào bản thân cùng quốc vận mà đuổi đi Cao Lỗ. Minh quân rời thiên mệnh, chính là điềm vận khí đại xuy. Vậy mà Thục Phán còn không hay biết, dẫn đến cái họa về sau.
Tuy sau khi Trọng Thủy chết, Khí thôn tốn sức chín trâu hai hổ lấy lại được ngọc thần, nhưng vì Cao Lỗ đã mất nên thiên mệnh lại ẩn đi. Mà Thuận Thiên Kiếm cũng bị phá hoại, không thể dùng để tìm kiếm thiên mệnh được nữa. Cho nên qua hàng trăm năm, tuy biết thiên mệnh vẫn luôn tồn tại mà chúng ta vẫn khó có thể tìm ra. Lại vì không có thiên mệnh nên dù mỗi đời minh quân đều cố gắng đến bao nhiêu cũng bị đàn áp trong biển máu. Ông Âu Khanh kết thúc câu chuyện trong tiếng thở dài
Thuận thiên kiếm... nãy giờ nghe Khí thôn trưởng thôn kể mà Minh không thể nào hoàn hồn. Huyền sử ông kể quả thật Minh nhớ man máng ở đời sau cũng có phiên bản tương tự, duy có nhiều tình tiết dị biệt mà thôi. Nhưng Thuận Thiên Kiếm quá nổi tiếng, đây là thanh kiếm của Lê Thái Tổ Lê Lợi, theo truyền thuyết là do thần Kim Quy ban tặng giúp ông chống giặc Minh. Không ngờ ở nơi này, hắn lại có thể biết được một nguồn gốc khác của thanh kiếm.
Bỗng dưng nhớ đến điều gì, Minh vội hỏi Ông ơi, thế bây giờ thanh thần kiếm đang ở nơi nào? Âu Khanh ngạc nhiên nhìn Minh mà đáp
Còn ở nơi nào? Đương nhiên do Khí thôn chúng ta bảo vệ, đây là trách nhiệm của chúng ta suốt bao nhiêu năm qua!
Không phải lưỡi kiếm và cán kiếm chia lìa sao? Không có thần Kim Quy đến tặng kiếm sao? Minh thầm nghĩ. Lông mày hắn chả mấy chốc mà nhíu lại thành một đoàn, hắn cố gắng lục lọi ký ức, lại mơ hồ khó có thể phân biệt đâu là đúng, đâu là sai, khiến hắn đau đầu không thôi. Âu Khanh thấy hắn nhíu mày mà không hiểu vì sao, ông thấy Minh dường như biết nhiều điều gì đó, cũng hiểu nhiều thứ mà ngay cả ông cũng không biết. Xong mỗi người đều có bí mật riêng của mình, là người từng trải ông sẽ không câu nệ những thứ đó. Nhẹ nhàng nhìn ra những cây thông cao lớn ngoài xa, ông khẽ ngâm nga một câu hát cổ nghe không rõ. Rồi chợt thấy nàng Quốc đang vội vàng lách người qua dày đặc quân y từ xa chạy lại, ông quay sang Minh, trịnh trọng nói.
Huyền sử nói cho cùng chỉ là huyền sử mà thôi. Rất nhiều thứ trong đó đã không thể nào kiểm chứng được, rất nhiều thứ khác lại được thần thánh hóa. Thế nhưng huyền sử cũng là sử, nó vẫn ghi lại rất nhiều sự thật, cũng giải thích rất nhiều điều khác.
Thưa ông? Ví dụ như? Minh hỏi dò.
Như cách kiểm nghiệm người có hay không tướng thiên mệnh!
/181
|