Mùng Một tháng Năm, cuối cùng cũng có tin mới nhất vể Hà Y truyền tới. Ngày mùng Năm tháng Năm, cuộc hẹn tỉ kiếm sẽ tiến hành như đã định.
Thần Nông trấn sớm đã đầy ắp kiếm khách từ các nơi khác tới xem trận đấu. Các danh môn đại phái cũng sôi nổi phái những đệ tử đắc ý nhất của mình tới. Tất cả các khách điếm đều chật cứng, đến các nhà dân ven phố cũng đem giường thừa trong nhà ra cho thuê.
Đương nhiên, trước trận tỉ thí lớn cũng có mười mấy vụ tỉ thí nhỏ. Đầu tiên chính là Côn Luân song kiếm bất ngờ chiến thắng Tạ Hách, kiếm khách thế hệ trẻ có thành tựu nhất của phái Võ Đang, nhảy vọt lên vị trí thứ mười hai trong Giang hồ danh nhân bảng. Thứ đến là đại đệ tử của Trung nguyên đệ nhất khoái kiếm Trần Thanh Đình năm xưa, Tạ Dật Thanh thua Thẩm Đồng một kiếm, bị trọng thương, Mộ Dung Vô Phong lại cự tuyệt không cứu, trơ mắt nhìn hắn chảy hết máu mà chết.
Sau đó, bất kể Tạ Đình Vân cố gắng thế nào, dù quật tung cả ba thước đất lên cũng tìm không ra chỗ Hạ Hồi và Sở Hà Y đang ở, chỉ thấy trên Giang hồ khoái báo, ngày nào cũng đưa tin mới. Người Hạ Hồi mời làm chứng đều là nhũng nhân sĩ hiển hách trên giang hổ, một vị là đương nhiệm chưởng môn của Võ Đang, Tiêu trưởng lão, vị kia là thủ tọa Đạt Ma viện của chùa Thiếu Lâm, được người đời xưng tụng là “Đạt Ma kiếm”, Nhất Không hòa thượng. Kiếm thuật của hai vị làm chứng này đương nhiên là số một, số hai, càng quan trọng hơn là những vị này đều là các bậc lão thành đức cao vọng trọng, địa vị cực kỳ tôn quý trên giang hồ. Còn người làm chứng cho Sở Hà Y lại là hai người lạ hoắc, chưa từng nghe thấy tên tuổi, một người gọi là Lý Đại Trung, một gọi lả Trâu Phú. Cho đến tận bây giờ, vẫn chưa có ai nhận ra đuợc rốt cuộc hai người này là thuộc môn phái nào. Phái Không Động cũng có một người tên là Lý Đại Trung, nhưng người này luôn miệng thề thốt không hề quen biết Sở Hà Y.
Chớp mắt đã tới mùng Năm tháng Năm.
Cuộc tỉ kiếm định vào giờ Tí hai khắc, cũng chính là canh ba.
Đầm lầy lúc đêm xuống, làn sương mỏng dần dần bao trùm, sau khoảng đất trống phía xa là một khu rừng. Gió đêm mang theo mùi cỏ héo. Lắng tai nghe kỹ còn có thể nghe thấy tiếng bọt nước trong lớp bùn cháy chầm chậm.
Phi Diên cốc quả là nơi rất tốt để tỉ kiếm.
Nơi đó có một khoảng đất rộng, bằng phẳng, khô ráo ở ngay giữa đầm lầy, lại ngăn cách với đám đông tới xem một khoảng đầm lầy rộng sâu không thấy đáy. Cho nên những kẻ đến gần quan chiến chỉ có thể là những cao thủ khinh công tuyệt đỉnh, hạng bình thường chỉ đành đứng xa xa nơi sườn núi mà quan sát.
Ngày hôm nay tâm tình của Mộ Dung Vô Phong lại bình tĩnh đến dị thường. Mọi thứ vẫn như cũ, chàng đúng giờ dậy sớm, đúng giờ phê duyệt bệnh án, đúng giờ đi thăm các phòng khám, đúng giờ tham gia y hội, đến chiều, hai bệnh nhân của chàng cũng đã qua cơn nguy kịch, chuyển tới chỗ Trần Sách chăm sóc.
Hoàng hôn, Quách Tất Viên còn đem sổ sách mấy tháng nay cho chàng xem. Lúc gặp chàng, chàng đang chống vịn lan can hành lang mà tán bộ trong viện. Người trong cốc đều biết chỉ cần Mộ Dung Vô Phong còn có thể đứng lên đi vài bước, dù là cực kỳ gắng gượng, thì điều này chứng tỏ, lúc ấy là lúc thân thể chàng khỏe nhất, tâm tính cũng tốt nhất.
“Sái đại phu và thuộc hạ cùng nhau đi. Vạn nhất có điều gì bất trắc, thuộc hạ nhất định sẽ đem Sở cô nương trở về”, trước khi đi Tạ Đình Vân nói với Mộ Dung Vô Phong.
Chàng gật đầu, không nói lấy một câu, cũng không dặn dò thêm gì. Tạ Đình Vân không nén nổi mà thầm lấy làm kinh ngạc. Ông ta vốn cho rằng, nhất định Mộ Dung Vô Phong sẽ đi, nhất định sẽ tìm cách gặp mặt Hà Y, có lẽ là lần cuối cùng.
Lúc ông ta ấp úng hỏi Mộ Dung Vô Phong, chàng chỉ lãnh đạm buông ra ba chữ:
“Ta không đi.”
Không ai hiểu nổi rốt cuộc trong lòng chàng đang nghĩ gì. Có lẽ chàng đã không còn cảm xúc nữa. Có lẽ chàng vốn đang muốn quên nàng đi. Đây chẳng qua chỉ là một cuộc tỉ kiếm mà thôi, cách nghề của chàng mười vạn tám ngàn dặm. Chàng chẳng phải người luyện kiếm, từ trước đến giờ cũng không có hứng thú gì với kiếm thuật.
Lúc rời đi, Tạ Đình Vân cảm thấy tâm sự nặng nề, ngập tràn nghi vấn.
Đầu giờ Hợi, đèn lồng dọc hành lang trong viện đã được thắp sáng từ trước.
Chàng nhẹ nhàng đóng cửa viện.
Thoáng chốc, cả trang viện như dứt khỏi hồng trần. Chàng đặt cây cổ cầm lên đùi, đẩy xe lăn tới cầu cửu khúc bên hồ. Đây là chỗ chàng thích nhất.
Đá Đại Lý sáng bóng tới mức có thể soi tỏ mặt người, bánh xe gỗ lăn nhanh trên mặt đá. Trên cầu cửu khúc, chàng phải không ngừng đổi hướng mới có thể tới tòa tiểu đình buông rèm xanh nhạt giữa hồ. Mặt hồ phẳng lặng như gương, im ắng không một gợn sóng. Trăng bạc tỏa sáng treo ngân hà, vừa trong sáng vừa sâu thẳm.
Lại chẳng biết đêm nay là đêm nào.
Vào giữa đình, chàng đặt cây cổ cầm lên bàn, đưa thêm một miếng hương Long Diên vào lò. Khói trà vấn vít bay lên, trà trong chén ngọc có màu tựa như hổ phách. Chàng nhấp một ngụm nhỏ. Là loại hồng trà mà nàng thích nhất, mùi vị quả nhiên vô cùng tinh khiết. Trước mắt chàng phảng phất xuất hiện một bóng áo đỏ, chân đi guốc mộc trong trời tuyết trắng giữa đồng hoang. Đôi mắt thông minh của nàng, trong lòng chàng, chẳng có nữ nhân nào khác có thể so sánh được. Nghĩ tới đây, trước mắt chàng chợt nhòe đi, đau lòng. Tựa như những thứ tốt đẹp đều đã được định sẵn phải rời xa chàng, vĩnh viễn không thuộc về chàng.
“Tinh” một tiếng, tiếng đàn du dương bắt đầu vang vọng khắp mặt hồ mênh mông trống trải. Đó chẳng qua là một khúc nhạc chàng quen tay gảy ra, vậy mà thê lương, mỹ lệ đến nhường ấy.
Các đại phu trong cốc từng nghe nói Mộ Dung Vô Phong tinh thông âm luật, có thể tự sáng tác nhạc khúc nhưng rất ít khi được nghe trọn vẹn tiếng đàn của chàng.
Ngô Du cũng thường gảy đàn nhưng vẫn luôn nói cầm kỹ của mình chẳng bằng một phần vạn của tiên sinh. Mọi người đều cho rằng đấy là nàng khiêm tốn. Nhưng tiếng đàn đêm nay cuối cùng cũng khiến họ hiểu được lời Ngô Du.
Giờ Hợi vừa hết, tiếng đàn chợt ngừng. Chàng tiện tay đem cây đàn quăng xuống hồ rổi yên lặng chìm vào làn gió đêm lãng đãng.
Những tấm rèm màu xanh lục bốn phía tiểu đình lướt qua mặt chàng, theo gió tung lên phấp phới. Chàng nhắm mắt lại, ngồi bất động, chờ đợi tin tức Tạ Đình Vân đem về cho mình. Chàng hận bản thân, bởi bất luận là thành hay bại, chàng đều chẳng thể làm gì.
Đợi rất lâu rất lâu, lâu lới mức chàng thấy tim mình dường như đã ngừng đập mới phát hiện, trống canh ba chưa gõ, còn chưa qua được một khắc. Cuộc tỉ kiếm chưa chính thức bắt đầu, chàng đã đứng ngồi không yên.
Nhìn bộ dạng mình, chàng không khỏi cười khổ. Người tàn phế đáng nhẽ phải ngồi được rất lâu mới đúng, nhưng bây giờ toàn thân chàng không tiện, ngồi cũng chẳng nổi nữa. Trong lúc lúng túng chàng nhặt đôi nạng bằng gỗ hồng dưới chân lên, tì bàn đứng dậy. Hai chân tàn phế đã lâu, gân mạch ở gót chân sớm đã co rút mất, lúc đứng dậy chàng chỉ có thể buông thõng chân xuống đất, còn đâu gần như hoàn toàn dựa vào sức hai vai chống nạng để chống đỡ trọng lượng cơ thể. Kể cả với kiểu đứng ấy, nếu không có ai dìu đỡ, chàng cũng không sao đứng được lâu. Còn may sau lưng còn có một cái cột đình, ít nhất chàng có thể dựa vào đấy. Tuy rất vất vả, nhưng cảm giác đứng dậy vẫn thật thoải mái, thực sự rất thoải mái. Chàng cúi đầu, sửa lại trang phục của mình, lúc ngẩng đầu lên trong đình chợt xuất hiện thêm hai người xa lạ. Thực ra cũng không phải là lạ mặt, chính là hai người khách một áo đen, một áo trắng mà chàng cùng Hà Y từng gặp trên đỉnh Thần Nữ hôm trước.
“Cô vợ nhỏ của ngươi đâu?”, người áo đen từ tốn đi vào ngồi bên bàn đá trong đình. Người áo trắng cũng theo vào nhưng không nói năng gì.
Mộ Dung Vô Phong nhíu mày, lạnh nhạt, không hề khách khí nói: “Đi ra”.
“Ngươi bảo bọn ta đi ra?”, người áo trắng cũng nhíu mày, dường như cả đời chưa từng gặp ai nói chuyện kiểu ấy với ông ta.
“Hôm nay cô vợ nhỏ của ngươi tỉ kiếm với Hạ Hồi, tên tiểu tử ngươi lo muốn chết, đúng không?”, người áo đen chỉ một câu đã nói trúng tim đen.
Mộ Dung Vô Phong dần không đứng nổi nữa, nhưng lại không muốn ngã xuống trước mặt hai người này, cho nên chàng không trả lời câu hỏi, chỉ nghiến răng nói: “Đây không phải là nơi để hai vị tới, đi ra”.
Chàng cứ đứng bất động, trên trán đã đầy mồ hôi.
Một luồng sức mạnh ập tới, cả người chàng nhẹ nhàng bay bổng lên rồi nhẹ nhàng đáp xuống chiếc xe lăn của mình.
Ống tay áo của người áo trắng mới chỉ khẽ động mà thôi.
Chàng chợt nhớ ra, Hà Y từng nói hai người này là tiền bối, võ công cao hơn nàng rất nhiều. Chàng không phải là người trong võ lâm, đương nhiên không tưởng tượng được “cao hơn rất nhiều” ý là làm sao, nhưng chí ít chàng cũng biết, một cái nhấc lên hạ xuống vừa rồi tuy nhanh nhưng bình ổn dị thường, tim của chàng hoàn toàn chịu đựng được.
Người áo đen nói: “Tiểu tử, ngươi có muốn bọn ta đưa ngươi tới gặp cô vợ nhỏ của ngươi không?”.
Chàng trầm mặc rất lâu, rồi lắc đầu.
Người áo đen nói: “Nhìn không ra ngươi tuổi còn nhỏ vậy mà lòng dạ thật sắt đá”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Có điều đúng là tôi có việc muốn nhờ hai vị giúp”.
Kiểu người như chàng nhìn là biết trước giờ không muốn nhờ ai giúp việc gì, vậy mà bây giờ lại nhờ vả, người áo đen không khỏi cao hứng, nói: “Nói đi, tiểu tử, ngươi muốn bọn ta giúp cái gì?”.
“Tránh xa tôi ra một chút”, chàng lãnh đạm nói.
Người áo đen ngây ra, tức đến mức kêu toáng lên, nói với người áo trắng: “Tính khí tên tiểu tử này thật là thối, ta hận không thể chẻ nó ra làm đôi”.
Người áo trắng lại chẳng hề bực tức, rất ôn hòa vỗ vỗ vai Mộ Dung Vô Phong nói: “Ngươi yên tâm, võ công của cô ấy không tệ. Ít nhất cũng không thua được”.
Trong lòng Mộ Dung Vô Phong mừng rỡ, thần sắc hòa hoãn lại hỏi: “Sao tiền bối biết?”.
Người áo trắng hứ một tiếng, nói: “Mấy thứ công phu mèo ba chân[1] của Phương Nhất Hạc thì có thế dạy ra thứ học trò giỏi gì?”.
[1] Tục ngữ Tam cước miêu, xuất hiện sớm nhất trong sách Nam thôn chuyết canh tập của Đào Tông Nghi cuối Nguyên đầu Minh. Sau dùng ám chỉ cho trình độ thấp, thô thiển.
Mộ Dung Vô Phong không nhịn được hỏi: “Trần Thanh Đình thì sao?”.
“Hắn bại dưới tay Phương Nhất Hạc, tất nhiên là còn chẳng bằng mèo ba chân rồi.”
“Thế sao?”, chàng có chút chán nản. Tính đi tính lại một hồi, có vẻ như Hà Y vẫn không phải là đối thủ của Hạ Hồi.
“Kiếm pháp cô vợ nhỏ của ngươi so với sư phụ nó còn hơn rất nhiều”, người áo đen đứng một bên nói: “Nếu bọn ta ở cạnh chỉ điểm một chút, lại càng tốt hơn”.
Mộ Dung Vô Phong nghĩ ngợi một chút, nói: “Tôi chỉ là một đại phu, hai vị lại là cao nhân tiền bối, đại khái… đại khái là sau này cũng chẳng thể bị thương. Dù hai vị có giúp tôi, tôi… tôi… cũng chẳng có gì báo đáp”.
“Mấy năm nay phong khí trên giang hồ biến đổi thật rồi, các tiểu cô nương đều thích đi tìm người ngoài nghề”, lão áo đen ngừng một chút rồi nói tiếp: “Có điều, tên tiểu tử này tính toán rạch ròi, ta thích. Ngươi chỉ cần nợ bọn ta một món nợ ân tình, về sau lúc nào bọn ta muốn ngươi trả, ngươi trả lại là được”.
“Vậy thì… vậy thì cứ thế đi”, chàng thận trọng nói: “Hai vị biết đường tới Phi Diên cốc chứ?”.
“Tiểu tử, lúc bọn ta đang ở đó, ngươi còn chưa ra đời đâu”, lão áo đen cười lớn một tiếng, chớp mắt hai người đó đã biến mất trong màn đêm thăm thẳm.
Ở Phi Diên cốc, người làm chứng với khán giả đều đã đợi tới sốt ruột rồi.
Hai người làm chứng của Hạ Hồi sớm đã có mặt.
Còn một khắc nữa là tới giờ tỉ kiếm, cuối cùng Hà Y và Hạ Hồi một trước một sau xuất hiện tại khoảng đất trống khô ráo kia. Đằng sau Hà Y còn có hai người đàn ông thậm thò thậm thụt. Theo trình tự ước định, Hà Y giới thiệu hai người làm chứng của mình trước.
“Vị này là Lý Đại Trung, ông chủ tiệm bán quan tài. Vị này là Trâu Phúc, bán bánh rán”, Hà Y nhấn mạnh nói.
Người xung quanh nhất loạt ồ lên rồi cười lớn. Trong bầu không khí căng thẳng nhường này vậy mà có thể nhìn thấy ông chủ tiệm quan tài với anh bán bánh rán, dưới gầm trời này chỉ sợ chẳng có việc gì hài hước, buồn cười hơn nữa. Ngay cả hai vị Nhất Không hòa thượng và Tiêu trưởng lão tu dưỡng thâm sâu cũng đồng thời nhíu mày.
“A Di Đà Phật, Sở cô nương, hai vị chứng nhân này hoàn toàn không biết kiếm pháp”, Nhất Không hòa thượng nói.
“Biết ai thắng ai thua không phải là được rồi sao”, Hà Y khinh khỉnh, không vui nói.
“Nếu như cô nương không quen biết nhiều, không mời được người làm chứng phù hợp, bần đạo tình nguyện giới thiệu cho cô nương vài vị”, Tiêu trưởng lão nói.
“Tôi quen rất nhiều người và cảm thấy hai vị đây rất thích hợp”, Hà Y nhất định không chịu nợ nần gì ai.
Các cao thủ ở bên quan chiến trong lòng đểu cảm thấy không dễ chịu. Ở trước mặt võ lâm tiền bối, nói gì thì nói ít ra cũng nên khách khí một chút, nữ nhân này quả thực quá ngông cuồng.
“Đây là tỉ võ, không phải chuyện chơi”, một giọng nói lạnh lùng vang lên sau lưng nàng. Hà Y quay đầu lại, nhìn thấy một thanh niên áo xám đứng bên rừng, mi thanh mục tú, mặt mũi thư sinh, dáng người cao lớn, mắt sáng như sao, lưng đeo một thanh trường kiếm có chuôi kiểu cổ. Đuôi kiếm và tay chắn đểu có khắc hình bát quáì. Anh ta bước vào khoảng đất, cúi đầu thi lễ với Nhất Không hòa thượng và Tiêu trưởng lão.
“Hai vị đại sư, xin mời ngồi”, người này cúi mình, dùng ống tay áo phủi sạch nệm ghế hai chiếc thái sư kỉ, Nhất Không vầ Tiêu trưởng lão mỉm cười ngồi xuống. Cuối cùng bọn họ cũng nhờ tên tiểu bối thấu tình đạt lý này của phái Nga My mà tìm lại được cảm giác của người làm tiền bối.
Cử chỉ này của Hạ Hồi vốn là muốn để Hà Y thấy một nhân sĩ võ lâm có tu dưỡng thì nên có dáng vẻ như thế nào. Hà Y quay đầu, nói với Lý Đại Trung và Trâu Phúc còn đang đứng ngây ra: “Chỗ kia còn hai cái ghế, làm phiền hai vị cũng ngồi xuống đi”. Nghe nàng nói thế, mặt Tiêu trưởng lão trầm xuống. Nữ nhân này hôm nay tựa như cố tình đùa cợt bọn họ.
Lý Đại Trung đang rụt rè đi tới, bao kiếm của Hạ Hồi đã đặt ngang vai ông ta.
“Đây không phải là chỗ để các hạ ngồi, muốn ngồi thì ngồi xuống đất”, thanh kiếm nhẹ ấn xuống, chân Lý Đại Trung bỗng mềm nhũn, bịch một tiếng mông đã dập xuống đất.
Cả đám người đều cười ầm lên. Mọi người đểu không ngờ cuộc chiến này lại có mở đầu thú vị như thế.
“Nếu đã thiếu hai người làm chứng, đại thúc sẽ làm người làm chứng cho ngươi”, hai bóng người bước tới.
Hà Y đang tức tới run bắn người, nhìn thấy hai lão áo đen, áo trắng cũng chẳng cao hứng lên tí nào, lại còn cáu gắt mắng. “Ai cần các người làm chứng cho ta? Người làm chứng cho ta có đây rồi, chính là hai người này, nói thế nào ta cũng không đổi!”.
Lão áo đen vội nói: “Tâm tình cô vợ nhỏ hôm nay không tốt. Có phải thằng chồng nhỏ đắc tội gì với ngươi rổi không?”.
Hà Y giậm chân, nói: “Ông… ông chớ có nhắc tới hắn trước mặt ta, ta không quen hắn, ta không thèm đế ý tới hắn nữa!”
Hạ Hồi chắp tay nói: “Xin hỏi quý tính đại danh của hai vị tiền bối…”.
Lão áo đen trợn mắt nói: “Bọn ta chẳng qua là được người khác sai tới xem kịch vui thôi, không ‘quý tính’ cũng chẳng ‘cao danh’. Hai vị này đã là người làm chứng cho cô vợ nhỏ, vậy mời vào vị trí”, nói xong phất ống tay áo một cái hai người đang ngồi dưới đất không biết như thế nào lại bay lên, bịch một tiếng, ngồi ngay ngắn vào ghế.
Mọi người thấy ông ta trái một câu cô vợ nhỏ, phải một câu cô vợ nhỏ, cứ thế mà gọi thì trong lòng bất giác đều lấy làm ngạc nhiên.
Nhất Không hòa thượng nãy giờ không nói gì chợt lên tiếng: “Người làm chứng đã có đủ. đã đến giờ Tí hai khắc, xin mời bắt đầu”.
“Keng” một tiếng, Hạ Hồi rút kiếm, nói: “Sở cô nương, mời”.
Hà Y đáp: “Mời”.
Sương đêm mờ mịt trên hồ. Còn chưa tới mùa hoa sen nở, mùi lá sen đã đủ làm say lòng người.
Ngọn lửa than hồng “lách tách” cháy trong lò.
Bất tri bất gíác chàng đã uống cạn mấy chén hồng trà. Không ngờ thời gian lại trôi chậm nhường này. Cuối cùng, chàng nhìn thấy Tạ Đình Vân trong làn sương đêm.
“Cô ấy thắng rồi”, ông ta dứt khoát nói luôn.
Rốt cuộc cũng thoải mái thở ra một hơi, chàng gật đầu rồi chợt lo lắng hỏi tíếp một câu: “Cô ấy… không bị thương chứ?”.
“Một chút cũng không.”
Thần kinh đang căng ra giờ đã có thế thả lỏng, không biết tại sao chàng lại thở dài một tiếng nói: “Đa tạ ông mang tin tốt tới cho ta. Khuya lắm rồi, ông về nghỉ đi”.
Tạ Đình Vân cúi đầu lui ra ngoài.
Chàng vô thức nhấc chén chàng, nhấp một ngụm nhỏ. Một bóng trắng lóe lên, cạnh bàn trước mặt không biết từ bao giờ đã có thêm một người, chỉ thấy có hai bóng dáng mơ hồ đã khuất về phía xa, giọng lão áo đen kia còn vang vọng trong màn đêm:
“Tiểu tử, bọn ta mang cô vợ nhỏ của ngươi về cho ngươi rồi đấy nhé, chớ có giải huyệt đạo cho nó không thì nó lại chạy mất đấy!”
Chàng quay đầu, Hà Y đang ngồi bất động trước mặt chàng, mặt mũi đỏ bừng, trên trán hãy còn lưu lại mồ hôi của cuộc tỉ kiếm vừa rồi.
Không biết tại sao chàng lại thở dài một tiếng, nhấc tay đưa ngón trỏ điểm nhẹ, giải khai huyệt đạo trên người nàng.
Hai người nhìn nhau rất lâu, không ai mở miệng nói gì. Khuôn mặt Mộ Dung Vô Phong chợt đỏ lên một chút. Từ lần đầu tiên chàng nhìn thấy cô gái này, chỉ cần nàng tới gần một chút, thân thế chàng liền lập tức sản sinh ra một loại rung động không sao khống chế nổi. Sau đó chàng bắt đầu nghĩ ngợi linh tinh. Cho nên, Hà Y ngồi ngay trước mặt, chàng chỉ đành cúi đầu xuống mà thôi.
“Hà Y, nàng chịu… chịu quay lại gặp ta, ta… ta rất vui”, ngập ngừng một lát, cuối cùng chàng cũng khẽ nói.
Hà Y cắn môi, lạnh lùng nói: “Ta không hề muốn gặp chàng, là hai… hai tên tiền bối vô sỉ đáng ghét kia bắt ta đến đây”.
“Ta không hề muốn bọn họ bắt nàng… bắt nàng đến đây”, chàng nhỏ giọng nói: “Huyệt đạo của nàng đã được giải, lúc nào cũng có thể rời đi”.
Không đợi Hà Y tiếp lời, chàng đã cắn răng nói tiếp: “Nàng ở cùng với ta chẳng có được gì tốt, ngược lại hết lần này tới lần khác vì ta mà chịu thiệt. Nàng rời xa ta, nhất định sẽ có cuộc sống tốt hơn. Cho nên nàng muốn đi, ta sẽ không ngăn nàng”.
Hà Y nhìn chàng, nhìn rất lâu, rồi nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt chàng, nói: “Ta… ta không hề vì chàng mà phải chịu thiệt thòi gì cả. Ta tình nguyện… chỉ cần chàng… chỉ cần chàng đồng ý cho ta một đứa con. Vô Phong, ta luôn muốn có một đứa con, con của chàng. Ta bằng lòng ngày ngày ở bên chàng”.
Chàng cúi đầu, trầm mặc không nói.
“Chàng không cần lo lắng quá nhiều”, nàng nắm lấy bàn tay lạnh buốt của chàng, dịu dàng nói: “Thứ nhất, đứa bé này là do ta sinh, không phải do chàng sinh. Thứ hai, nó sẽ không sao đâu. Nhất định không. Chúng ta không thể thiếu may mắn tới thế đâu. Thứ ba, cho dù… cho dù thân thể nó không tốt còn có chúng ta chăm sóc cho nó, nó cũng sẽ không phải chịu thiệt thòi gì cả”.
Chàng vẫn trầm mặc.
“Vô Phong, chàng nói gì đi!”
Chàng ngẩng đầu, nhìn nàng, lạnh lùng mà kiên quyết nói: “Không. Ta vĩnh viễn không muốn có con”.
Hà Y sững người, chợt cảm thấy toàn thân mình đang không ngừng run lên.
Sau đó nàng đứng đậy, run rẩy nói: “Chàng đã không muốn, ta cũng không thể ép chàng”.
Chàng lãnh đạm nói: “Trên đời có rất nhiều nam nhân, ta chẳng qua chỉ là một kẻ tàn phế, không đáng để nhắc tới. Nàng sẽ nhanh chóng quên được ta thôi”.
Hà Y giận đến cứng người, quát: “Mộ Dung Vô Phong, chàng… chàng dám… ta… ta giết chàng!”.
Nàng đột nhiên rút kiếm, đè lên cổ chàng, mắt đẫm lệ nói: “Ta… ta…”.
Tay hơi run, thanh kiếm trên tay đã vạch trên cổ chàng một vết thương dài cả tấc. Máu nhỏ xuống từng giọt, từng giọt, Mộ Dung Vô Phong vẫn không hề cử động.
Hà Y ném thanh kiếm sang một bên, hoảng hốt lấy khăn tay bịt lấy vết thương của chàng, khóc lóc: “Chàng chảy máu rồi, ta… không phải ta cố tình muốn chàng bị thương. Không ở cùng nhau thì không ở cùng nhau, thế cũng không… không sao cả. Chúng ta… chúng ta vốn không hề quen biết”.
Nói xong, nàng cười thê lương nói: “Ta đi rồi, chàng phải tự chăm sóc bản thân cho tốt”. Bóng dáng nàng biết mất trong sương đêm.
Chàng dõi theo lưng nàng, nhẹ nhàng chạm vào vết thương trên cổ. :
Đêm đã khuya lắm, vầng trăng khuyết tĩnh mịch treo trên cao. Không gian trong mát, những vì sao màu tím nhạt giăng đầy trời.
Chàng ngồi rất lâu trong màn đêm, mãi sau mới đẩy bánh xe, đi tới lan can cạnh đình. Lan can này có thể di chuyển, bên trên có một cái chốt cài. Chàng mở chốt, đẩy nhẹ một cái, lan can như một cánh cửa nhỏ mở sang một bên, bên dưới còn mấy bậc đá dẫn thẳng xuống nước. Sắc trời mịt mùng, nhưng chàng biết hai bên cầu thang có tay vịn, bên kia tay vịn có buộc một chiếc thuyền nhỏ. Ông ngoại chàng thích câu cá, trước đây thường dong thuyền từ đây ra hồ buông câu.
Chàng chống nạng gắng sức đứng lên, cảm thấy đầu nặng, chân nhẹ, hai chân loạng choạng. Chàng định thần, vịn lan can, từ từ chuyển người tới bậc thang. Bậc thang rất trơn, bên trên toàn là rong rêu, chàng không thể không cẩn thận giữ thăng bằng thật tốt. Còn may là đường không dài, chỉ ba bậc thôi, lan can hai bên cũng rất chắc chắn, cuối cùng cũng xuống được bậc cuối. Tuy không cảm thấy gì nhưng chẳng biết chân mình đã ở trong làn nước hổ lạnh như băng. Chàng cúi mình, tháo dây neo thuyền, kéo chiếc thuyền gỗ đang bập bềnh bên kia đến chân mình rồi bắt đầu nghĩ, làm thế nào mới có thể ngồi lên thuyển đây.
Đẩu tiên chàng kéo đôi chân trong nước lên, đặt vào mạn thuyền, sau đó vịn chặt đôi nạng, nhẹ nhàng nhấc mình lên, mặc dù cực kỳ vụng về, cuối cùng cũng đưa được bản than “ngã” vào thuyền.
Trên thuyền có hai mái chèo, chàng bò tới đuôi thuyền, đưa hai mái chèo xuống nước rồi dùng sức khua một cái, chiếc thuyền con lướt nhẹ tới giữa hồ.
Đây là lần đầu tiên tự mình chèo thuyền, chàng chợt phát hiện ra kỳ thực chèo thuyền là một việc rất dễ dàng.
Gió bấc nhè nhẹ thổi trên mặt hồ, sức của chàng hiển nhiên không đủ, phải chèo hơn nửa canh giờ mới đưa thuyền ra được giữa hồ. Chàng biết ở nơi đây chàng có thể có được sự tĩnh mịch chân chính. Tòa tiểu đình nhỏ trên hồ đã cách xa tới mức chỉ còn thấy được vài đốm sáng đèn lồng ờ đó. Rặng liễu ven hổ tựa như đã biến mất vào sương đêm mờ ảo. Đã có bờ dương liễu, trăng tàn gió sớm. Sao cứ phải nắm tay nhìn nhau lệ đẫm, không nói gì chỉ biết nghẹn ngào[2]? Chàng khẽ cười, trong khung cảnh đặc biệt này sao lại quên mang theo một bầu rượu?
[2] Tác giả dùng từ trong bài từ Vũ Lâm Linh của đại từ nhân Liễu Vĩnh (987-1053) thời Tống.
Nghỉ một chút, chàng dứt khoát rành mạch làm điều chàng muốn làm. Đầu thuyền có một cái tủ nhỏ, trong đó có một ít đồ câu cá đã cũ, một cái đục đã rỉ và một cái búa nhỏ. Chàng đặt cái đục và cái búa nhỏ bên người rồi đem dây buộc thuyền cuốn lấy hai chân mình, từng cái một, sau đó buộc vào với nhau, thắt ba cái nút. Lâm đại phu, chàng đã từng nghiên cứu qua các phương pháp thắt dây, vốn nghĩ rằng khi cần khâu cho bệnh mới đem ra dùng, không ngờ bây giờ lại dùng ở đây.
Chàng biết chân mình rất nhỏ, rất trơn, cho nên đã nghĩ tới mấy trường hợp có thế tuột ra, cuối cùng chọn một cách thắt dây tuy không đặc biệt lắm nhưng rất chắc.
Làm xong mọi thứ, chàng đục trong lòng thuyền một lỗ nhỏ để nước ào ào ộc vào thuyền sau đó đem mái chèo cùng nạng của mình quăng xuống nước.
Cảm ơn trời đất, từ giờ trở đi chàng sẽ không còn phải dùng tới những thứ ấy nữa rồi.
Chàng yên lặng nằm trên thuyền, một lúc sau nước dần dần dâng lên, thấm ướt lưng chàng.
Hướng lên trời cao, ánh trăng tim tím chiếu lên khuôn mặt bình thản của chàng.
Thời khắc này, vẻ mỹ lệ của bầu trời sao thật không có cách nào tả xiết.
Thuyền từ từ chìm xuống, thân thể chàng dần bồng bềnh trong nước. Sau đó thân dưới của chàng bị kéo căng, thân thuyền đã chìm xuống đang nhẹ nhàng níu lấy chân chàng.
Chàng không hề vùng vẫy.
Đây chính là điều chàng muốn, đã tính toán rất tốt, mọi thứ đều như ý, cho nên không cần gì phải vùng vẫy nữa.
Vào khoảnh khắc cuối cùng chìm vào mặt hồ, chàng cố gắng mở mắt, nhìn lần cuối bầu trời sao xán lạn trên đầu. Trong đó có hai ngôi lấp lánh lạ thường, tựa như mắt nàng vậy.
“Đẹp quá”, trong lòng chàng thầm nhủ.
Thần Nông trấn sớm đã đầy ắp kiếm khách từ các nơi khác tới xem trận đấu. Các danh môn đại phái cũng sôi nổi phái những đệ tử đắc ý nhất của mình tới. Tất cả các khách điếm đều chật cứng, đến các nhà dân ven phố cũng đem giường thừa trong nhà ra cho thuê.
Đương nhiên, trước trận tỉ thí lớn cũng có mười mấy vụ tỉ thí nhỏ. Đầu tiên chính là Côn Luân song kiếm bất ngờ chiến thắng Tạ Hách, kiếm khách thế hệ trẻ có thành tựu nhất của phái Võ Đang, nhảy vọt lên vị trí thứ mười hai trong Giang hồ danh nhân bảng. Thứ đến là đại đệ tử của Trung nguyên đệ nhất khoái kiếm Trần Thanh Đình năm xưa, Tạ Dật Thanh thua Thẩm Đồng một kiếm, bị trọng thương, Mộ Dung Vô Phong lại cự tuyệt không cứu, trơ mắt nhìn hắn chảy hết máu mà chết.
Sau đó, bất kể Tạ Đình Vân cố gắng thế nào, dù quật tung cả ba thước đất lên cũng tìm không ra chỗ Hạ Hồi và Sở Hà Y đang ở, chỉ thấy trên Giang hồ khoái báo, ngày nào cũng đưa tin mới. Người Hạ Hồi mời làm chứng đều là nhũng nhân sĩ hiển hách trên giang hổ, một vị là đương nhiệm chưởng môn của Võ Đang, Tiêu trưởng lão, vị kia là thủ tọa Đạt Ma viện của chùa Thiếu Lâm, được người đời xưng tụng là “Đạt Ma kiếm”, Nhất Không hòa thượng. Kiếm thuật của hai vị làm chứng này đương nhiên là số một, số hai, càng quan trọng hơn là những vị này đều là các bậc lão thành đức cao vọng trọng, địa vị cực kỳ tôn quý trên giang hồ. Còn người làm chứng cho Sở Hà Y lại là hai người lạ hoắc, chưa từng nghe thấy tên tuổi, một người gọi là Lý Đại Trung, một gọi lả Trâu Phú. Cho đến tận bây giờ, vẫn chưa có ai nhận ra đuợc rốt cuộc hai người này là thuộc môn phái nào. Phái Không Động cũng có một người tên là Lý Đại Trung, nhưng người này luôn miệng thề thốt không hề quen biết Sở Hà Y.
Chớp mắt đã tới mùng Năm tháng Năm.
Cuộc tỉ kiếm định vào giờ Tí hai khắc, cũng chính là canh ba.
Đầm lầy lúc đêm xuống, làn sương mỏng dần dần bao trùm, sau khoảng đất trống phía xa là một khu rừng. Gió đêm mang theo mùi cỏ héo. Lắng tai nghe kỹ còn có thể nghe thấy tiếng bọt nước trong lớp bùn cháy chầm chậm.
Phi Diên cốc quả là nơi rất tốt để tỉ kiếm.
Nơi đó có một khoảng đất rộng, bằng phẳng, khô ráo ở ngay giữa đầm lầy, lại ngăn cách với đám đông tới xem một khoảng đầm lầy rộng sâu không thấy đáy. Cho nên những kẻ đến gần quan chiến chỉ có thể là những cao thủ khinh công tuyệt đỉnh, hạng bình thường chỉ đành đứng xa xa nơi sườn núi mà quan sát.
Ngày hôm nay tâm tình của Mộ Dung Vô Phong lại bình tĩnh đến dị thường. Mọi thứ vẫn như cũ, chàng đúng giờ dậy sớm, đúng giờ phê duyệt bệnh án, đúng giờ đi thăm các phòng khám, đúng giờ tham gia y hội, đến chiều, hai bệnh nhân của chàng cũng đã qua cơn nguy kịch, chuyển tới chỗ Trần Sách chăm sóc.
Hoàng hôn, Quách Tất Viên còn đem sổ sách mấy tháng nay cho chàng xem. Lúc gặp chàng, chàng đang chống vịn lan can hành lang mà tán bộ trong viện. Người trong cốc đều biết chỉ cần Mộ Dung Vô Phong còn có thể đứng lên đi vài bước, dù là cực kỳ gắng gượng, thì điều này chứng tỏ, lúc ấy là lúc thân thể chàng khỏe nhất, tâm tính cũng tốt nhất.
“Sái đại phu và thuộc hạ cùng nhau đi. Vạn nhất có điều gì bất trắc, thuộc hạ nhất định sẽ đem Sở cô nương trở về”, trước khi đi Tạ Đình Vân nói với Mộ Dung Vô Phong.
Chàng gật đầu, không nói lấy một câu, cũng không dặn dò thêm gì. Tạ Đình Vân không nén nổi mà thầm lấy làm kinh ngạc. Ông ta vốn cho rằng, nhất định Mộ Dung Vô Phong sẽ đi, nhất định sẽ tìm cách gặp mặt Hà Y, có lẽ là lần cuối cùng.
Lúc ông ta ấp úng hỏi Mộ Dung Vô Phong, chàng chỉ lãnh đạm buông ra ba chữ:
“Ta không đi.”
Không ai hiểu nổi rốt cuộc trong lòng chàng đang nghĩ gì. Có lẽ chàng đã không còn cảm xúc nữa. Có lẽ chàng vốn đang muốn quên nàng đi. Đây chẳng qua chỉ là một cuộc tỉ kiếm mà thôi, cách nghề của chàng mười vạn tám ngàn dặm. Chàng chẳng phải người luyện kiếm, từ trước đến giờ cũng không có hứng thú gì với kiếm thuật.
Lúc rời đi, Tạ Đình Vân cảm thấy tâm sự nặng nề, ngập tràn nghi vấn.
Đầu giờ Hợi, đèn lồng dọc hành lang trong viện đã được thắp sáng từ trước.
Chàng nhẹ nhàng đóng cửa viện.
Thoáng chốc, cả trang viện như dứt khỏi hồng trần. Chàng đặt cây cổ cầm lên đùi, đẩy xe lăn tới cầu cửu khúc bên hồ. Đây là chỗ chàng thích nhất.
Đá Đại Lý sáng bóng tới mức có thể soi tỏ mặt người, bánh xe gỗ lăn nhanh trên mặt đá. Trên cầu cửu khúc, chàng phải không ngừng đổi hướng mới có thể tới tòa tiểu đình buông rèm xanh nhạt giữa hồ. Mặt hồ phẳng lặng như gương, im ắng không một gợn sóng. Trăng bạc tỏa sáng treo ngân hà, vừa trong sáng vừa sâu thẳm.
Lại chẳng biết đêm nay là đêm nào.
Vào giữa đình, chàng đặt cây cổ cầm lên bàn, đưa thêm một miếng hương Long Diên vào lò. Khói trà vấn vít bay lên, trà trong chén ngọc có màu tựa như hổ phách. Chàng nhấp một ngụm nhỏ. Là loại hồng trà mà nàng thích nhất, mùi vị quả nhiên vô cùng tinh khiết. Trước mắt chàng phảng phất xuất hiện một bóng áo đỏ, chân đi guốc mộc trong trời tuyết trắng giữa đồng hoang. Đôi mắt thông minh của nàng, trong lòng chàng, chẳng có nữ nhân nào khác có thể so sánh được. Nghĩ tới đây, trước mắt chàng chợt nhòe đi, đau lòng. Tựa như những thứ tốt đẹp đều đã được định sẵn phải rời xa chàng, vĩnh viễn không thuộc về chàng.
“Tinh” một tiếng, tiếng đàn du dương bắt đầu vang vọng khắp mặt hồ mênh mông trống trải. Đó chẳng qua là một khúc nhạc chàng quen tay gảy ra, vậy mà thê lương, mỹ lệ đến nhường ấy.
Các đại phu trong cốc từng nghe nói Mộ Dung Vô Phong tinh thông âm luật, có thể tự sáng tác nhạc khúc nhưng rất ít khi được nghe trọn vẹn tiếng đàn của chàng.
Ngô Du cũng thường gảy đàn nhưng vẫn luôn nói cầm kỹ của mình chẳng bằng một phần vạn của tiên sinh. Mọi người đều cho rằng đấy là nàng khiêm tốn. Nhưng tiếng đàn đêm nay cuối cùng cũng khiến họ hiểu được lời Ngô Du.
Giờ Hợi vừa hết, tiếng đàn chợt ngừng. Chàng tiện tay đem cây đàn quăng xuống hồ rổi yên lặng chìm vào làn gió đêm lãng đãng.
Những tấm rèm màu xanh lục bốn phía tiểu đình lướt qua mặt chàng, theo gió tung lên phấp phới. Chàng nhắm mắt lại, ngồi bất động, chờ đợi tin tức Tạ Đình Vân đem về cho mình. Chàng hận bản thân, bởi bất luận là thành hay bại, chàng đều chẳng thể làm gì.
Đợi rất lâu rất lâu, lâu lới mức chàng thấy tim mình dường như đã ngừng đập mới phát hiện, trống canh ba chưa gõ, còn chưa qua được một khắc. Cuộc tỉ kiếm chưa chính thức bắt đầu, chàng đã đứng ngồi không yên.
Nhìn bộ dạng mình, chàng không khỏi cười khổ. Người tàn phế đáng nhẽ phải ngồi được rất lâu mới đúng, nhưng bây giờ toàn thân chàng không tiện, ngồi cũng chẳng nổi nữa. Trong lúc lúng túng chàng nhặt đôi nạng bằng gỗ hồng dưới chân lên, tì bàn đứng dậy. Hai chân tàn phế đã lâu, gân mạch ở gót chân sớm đã co rút mất, lúc đứng dậy chàng chỉ có thể buông thõng chân xuống đất, còn đâu gần như hoàn toàn dựa vào sức hai vai chống nạng để chống đỡ trọng lượng cơ thể. Kể cả với kiểu đứng ấy, nếu không có ai dìu đỡ, chàng cũng không sao đứng được lâu. Còn may sau lưng còn có một cái cột đình, ít nhất chàng có thể dựa vào đấy. Tuy rất vất vả, nhưng cảm giác đứng dậy vẫn thật thoải mái, thực sự rất thoải mái. Chàng cúi đầu, sửa lại trang phục của mình, lúc ngẩng đầu lên trong đình chợt xuất hiện thêm hai người xa lạ. Thực ra cũng không phải là lạ mặt, chính là hai người khách một áo đen, một áo trắng mà chàng cùng Hà Y từng gặp trên đỉnh Thần Nữ hôm trước.
“Cô vợ nhỏ của ngươi đâu?”, người áo đen từ tốn đi vào ngồi bên bàn đá trong đình. Người áo trắng cũng theo vào nhưng không nói năng gì.
Mộ Dung Vô Phong nhíu mày, lạnh nhạt, không hề khách khí nói: “Đi ra”.
“Ngươi bảo bọn ta đi ra?”, người áo trắng cũng nhíu mày, dường như cả đời chưa từng gặp ai nói chuyện kiểu ấy với ông ta.
“Hôm nay cô vợ nhỏ của ngươi tỉ kiếm với Hạ Hồi, tên tiểu tử ngươi lo muốn chết, đúng không?”, người áo đen chỉ một câu đã nói trúng tim đen.
Mộ Dung Vô Phong dần không đứng nổi nữa, nhưng lại không muốn ngã xuống trước mặt hai người này, cho nên chàng không trả lời câu hỏi, chỉ nghiến răng nói: “Đây không phải là nơi để hai vị tới, đi ra”.
Chàng cứ đứng bất động, trên trán đã đầy mồ hôi.
Một luồng sức mạnh ập tới, cả người chàng nhẹ nhàng bay bổng lên rồi nhẹ nhàng đáp xuống chiếc xe lăn của mình.
Ống tay áo của người áo trắng mới chỉ khẽ động mà thôi.
Chàng chợt nhớ ra, Hà Y từng nói hai người này là tiền bối, võ công cao hơn nàng rất nhiều. Chàng không phải là người trong võ lâm, đương nhiên không tưởng tượng được “cao hơn rất nhiều” ý là làm sao, nhưng chí ít chàng cũng biết, một cái nhấc lên hạ xuống vừa rồi tuy nhanh nhưng bình ổn dị thường, tim của chàng hoàn toàn chịu đựng được.
Người áo đen nói: “Tiểu tử, ngươi có muốn bọn ta đưa ngươi tới gặp cô vợ nhỏ của ngươi không?”.
Chàng trầm mặc rất lâu, rồi lắc đầu.
Người áo đen nói: “Nhìn không ra ngươi tuổi còn nhỏ vậy mà lòng dạ thật sắt đá”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Có điều đúng là tôi có việc muốn nhờ hai vị giúp”.
Kiểu người như chàng nhìn là biết trước giờ không muốn nhờ ai giúp việc gì, vậy mà bây giờ lại nhờ vả, người áo đen không khỏi cao hứng, nói: “Nói đi, tiểu tử, ngươi muốn bọn ta giúp cái gì?”.
“Tránh xa tôi ra một chút”, chàng lãnh đạm nói.
Người áo đen ngây ra, tức đến mức kêu toáng lên, nói với người áo trắng: “Tính khí tên tiểu tử này thật là thối, ta hận không thể chẻ nó ra làm đôi”.
Người áo trắng lại chẳng hề bực tức, rất ôn hòa vỗ vỗ vai Mộ Dung Vô Phong nói: “Ngươi yên tâm, võ công của cô ấy không tệ. Ít nhất cũng không thua được”.
Trong lòng Mộ Dung Vô Phong mừng rỡ, thần sắc hòa hoãn lại hỏi: “Sao tiền bối biết?”.
Người áo trắng hứ một tiếng, nói: “Mấy thứ công phu mèo ba chân[1] của Phương Nhất Hạc thì có thế dạy ra thứ học trò giỏi gì?”.
[1] Tục ngữ Tam cước miêu, xuất hiện sớm nhất trong sách Nam thôn chuyết canh tập của Đào Tông Nghi cuối Nguyên đầu Minh. Sau dùng ám chỉ cho trình độ thấp, thô thiển.
Mộ Dung Vô Phong không nhịn được hỏi: “Trần Thanh Đình thì sao?”.
“Hắn bại dưới tay Phương Nhất Hạc, tất nhiên là còn chẳng bằng mèo ba chân rồi.”
“Thế sao?”, chàng có chút chán nản. Tính đi tính lại một hồi, có vẻ như Hà Y vẫn không phải là đối thủ của Hạ Hồi.
“Kiếm pháp cô vợ nhỏ của ngươi so với sư phụ nó còn hơn rất nhiều”, người áo đen đứng một bên nói: “Nếu bọn ta ở cạnh chỉ điểm một chút, lại càng tốt hơn”.
Mộ Dung Vô Phong nghĩ ngợi một chút, nói: “Tôi chỉ là một đại phu, hai vị lại là cao nhân tiền bối, đại khái… đại khái là sau này cũng chẳng thể bị thương. Dù hai vị có giúp tôi, tôi… tôi… cũng chẳng có gì báo đáp”.
“Mấy năm nay phong khí trên giang hồ biến đổi thật rồi, các tiểu cô nương đều thích đi tìm người ngoài nghề”, lão áo đen ngừng một chút rồi nói tiếp: “Có điều, tên tiểu tử này tính toán rạch ròi, ta thích. Ngươi chỉ cần nợ bọn ta một món nợ ân tình, về sau lúc nào bọn ta muốn ngươi trả, ngươi trả lại là được”.
“Vậy thì… vậy thì cứ thế đi”, chàng thận trọng nói: “Hai vị biết đường tới Phi Diên cốc chứ?”.
“Tiểu tử, lúc bọn ta đang ở đó, ngươi còn chưa ra đời đâu”, lão áo đen cười lớn một tiếng, chớp mắt hai người đó đã biến mất trong màn đêm thăm thẳm.
Ở Phi Diên cốc, người làm chứng với khán giả đều đã đợi tới sốt ruột rồi.
Hai người làm chứng của Hạ Hồi sớm đã có mặt.
Còn một khắc nữa là tới giờ tỉ kiếm, cuối cùng Hà Y và Hạ Hồi một trước một sau xuất hiện tại khoảng đất trống khô ráo kia. Đằng sau Hà Y còn có hai người đàn ông thậm thò thậm thụt. Theo trình tự ước định, Hà Y giới thiệu hai người làm chứng của mình trước.
“Vị này là Lý Đại Trung, ông chủ tiệm bán quan tài. Vị này là Trâu Phúc, bán bánh rán”, Hà Y nhấn mạnh nói.
Người xung quanh nhất loạt ồ lên rồi cười lớn. Trong bầu không khí căng thẳng nhường này vậy mà có thể nhìn thấy ông chủ tiệm quan tài với anh bán bánh rán, dưới gầm trời này chỉ sợ chẳng có việc gì hài hước, buồn cười hơn nữa. Ngay cả hai vị Nhất Không hòa thượng và Tiêu trưởng lão tu dưỡng thâm sâu cũng đồng thời nhíu mày.
“A Di Đà Phật, Sở cô nương, hai vị chứng nhân này hoàn toàn không biết kiếm pháp”, Nhất Không hòa thượng nói.
“Biết ai thắng ai thua không phải là được rồi sao”, Hà Y khinh khỉnh, không vui nói.
“Nếu như cô nương không quen biết nhiều, không mời được người làm chứng phù hợp, bần đạo tình nguyện giới thiệu cho cô nương vài vị”, Tiêu trưởng lão nói.
“Tôi quen rất nhiều người và cảm thấy hai vị đây rất thích hợp”, Hà Y nhất định không chịu nợ nần gì ai.
Các cao thủ ở bên quan chiến trong lòng đểu cảm thấy không dễ chịu. Ở trước mặt võ lâm tiền bối, nói gì thì nói ít ra cũng nên khách khí một chút, nữ nhân này quả thực quá ngông cuồng.
“Đây là tỉ võ, không phải chuyện chơi”, một giọng nói lạnh lùng vang lên sau lưng nàng. Hà Y quay đầu lại, nhìn thấy một thanh niên áo xám đứng bên rừng, mi thanh mục tú, mặt mũi thư sinh, dáng người cao lớn, mắt sáng như sao, lưng đeo một thanh trường kiếm có chuôi kiểu cổ. Đuôi kiếm và tay chắn đểu có khắc hình bát quáì. Anh ta bước vào khoảng đất, cúi đầu thi lễ với Nhất Không hòa thượng và Tiêu trưởng lão.
“Hai vị đại sư, xin mời ngồi”, người này cúi mình, dùng ống tay áo phủi sạch nệm ghế hai chiếc thái sư kỉ, Nhất Không vầ Tiêu trưởng lão mỉm cười ngồi xuống. Cuối cùng bọn họ cũng nhờ tên tiểu bối thấu tình đạt lý này của phái Nga My mà tìm lại được cảm giác của người làm tiền bối.
Cử chỉ này của Hạ Hồi vốn là muốn để Hà Y thấy một nhân sĩ võ lâm có tu dưỡng thì nên có dáng vẻ như thế nào. Hà Y quay đầu, nói với Lý Đại Trung và Trâu Phúc còn đang đứng ngây ra: “Chỗ kia còn hai cái ghế, làm phiền hai vị cũng ngồi xuống đi”. Nghe nàng nói thế, mặt Tiêu trưởng lão trầm xuống. Nữ nhân này hôm nay tựa như cố tình đùa cợt bọn họ.
Lý Đại Trung đang rụt rè đi tới, bao kiếm của Hạ Hồi đã đặt ngang vai ông ta.
“Đây không phải là chỗ để các hạ ngồi, muốn ngồi thì ngồi xuống đất”, thanh kiếm nhẹ ấn xuống, chân Lý Đại Trung bỗng mềm nhũn, bịch một tiếng mông đã dập xuống đất.
Cả đám người đều cười ầm lên. Mọi người đểu không ngờ cuộc chiến này lại có mở đầu thú vị như thế.
“Nếu đã thiếu hai người làm chứng, đại thúc sẽ làm người làm chứng cho ngươi”, hai bóng người bước tới.
Hà Y đang tức tới run bắn người, nhìn thấy hai lão áo đen, áo trắng cũng chẳng cao hứng lên tí nào, lại còn cáu gắt mắng. “Ai cần các người làm chứng cho ta? Người làm chứng cho ta có đây rồi, chính là hai người này, nói thế nào ta cũng không đổi!”.
Lão áo đen vội nói: “Tâm tình cô vợ nhỏ hôm nay không tốt. Có phải thằng chồng nhỏ đắc tội gì với ngươi rổi không?”.
Hà Y giậm chân, nói: “Ông… ông chớ có nhắc tới hắn trước mặt ta, ta không quen hắn, ta không thèm đế ý tới hắn nữa!”
Hạ Hồi chắp tay nói: “Xin hỏi quý tính đại danh của hai vị tiền bối…”.
Lão áo đen trợn mắt nói: “Bọn ta chẳng qua là được người khác sai tới xem kịch vui thôi, không ‘quý tính’ cũng chẳng ‘cao danh’. Hai vị này đã là người làm chứng cho cô vợ nhỏ, vậy mời vào vị trí”, nói xong phất ống tay áo một cái hai người đang ngồi dưới đất không biết như thế nào lại bay lên, bịch một tiếng, ngồi ngay ngắn vào ghế.
Mọi người thấy ông ta trái một câu cô vợ nhỏ, phải một câu cô vợ nhỏ, cứ thế mà gọi thì trong lòng bất giác đều lấy làm ngạc nhiên.
Nhất Không hòa thượng nãy giờ không nói gì chợt lên tiếng: “Người làm chứng đã có đủ. đã đến giờ Tí hai khắc, xin mời bắt đầu”.
“Keng” một tiếng, Hạ Hồi rút kiếm, nói: “Sở cô nương, mời”.
Hà Y đáp: “Mời”.
Sương đêm mờ mịt trên hồ. Còn chưa tới mùa hoa sen nở, mùi lá sen đã đủ làm say lòng người.
Ngọn lửa than hồng “lách tách” cháy trong lò.
Bất tri bất gíác chàng đã uống cạn mấy chén hồng trà. Không ngờ thời gian lại trôi chậm nhường này. Cuối cùng, chàng nhìn thấy Tạ Đình Vân trong làn sương đêm.
“Cô ấy thắng rồi”, ông ta dứt khoát nói luôn.
Rốt cuộc cũng thoải mái thở ra một hơi, chàng gật đầu rồi chợt lo lắng hỏi tíếp một câu: “Cô ấy… không bị thương chứ?”.
“Một chút cũng không.”
Thần kinh đang căng ra giờ đã có thế thả lỏng, không biết tại sao chàng lại thở dài một tiếng nói: “Đa tạ ông mang tin tốt tới cho ta. Khuya lắm rồi, ông về nghỉ đi”.
Tạ Đình Vân cúi đầu lui ra ngoài.
Chàng vô thức nhấc chén chàng, nhấp một ngụm nhỏ. Một bóng trắng lóe lên, cạnh bàn trước mặt không biết từ bao giờ đã có thêm một người, chỉ thấy có hai bóng dáng mơ hồ đã khuất về phía xa, giọng lão áo đen kia còn vang vọng trong màn đêm:
“Tiểu tử, bọn ta mang cô vợ nhỏ của ngươi về cho ngươi rồi đấy nhé, chớ có giải huyệt đạo cho nó không thì nó lại chạy mất đấy!”
Chàng quay đầu, Hà Y đang ngồi bất động trước mặt chàng, mặt mũi đỏ bừng, trên trán hãy còn lưu lại mồ hôi của cuộc tỉ kiếm vừa rồi.
Không biết tại sao chàng lại thở dài một tiếng, nhấc tay đưa ngón trỏ điểm nhẹ, giải khai huyệt đạo trên người nàng.
Hai người nhìn nhau rất lâu, không ai mở miệng nói gì. Khuôn mặt Mộ Dung Vô Phong chợt đỏ lên một chút. Từ lần đầu tiên chàng nhìn thấy cô gái này, chỉ cần nàng tới gần một chút, thân thế chàng liền lập tức sản sinh ra một loại rung động không sao khống chế nổi. Sau đó chàng bắt đầu nghĩ ngợi linh tinh. Cho nên, Hà Y ngồi ngay trước mặt, chàng chỉ đành cúi đầu xuống mà thôi.
“Hà Y, nàng chịu… chịu quay lại gặp ta, ta… ta rất vui”, ngập ngừng một lát, cuối cùng chàng cũng khẽ nói.
Hà Y cắn môi, lạnh lùng nói: “Ta không hề muốn gặp chàng, là hai… hai tên tiền bối vô sỉ đáng ghét kia bắt ta đến đây”.
“Ta không hề muốn bọn họ bắt nàng… bắt nàng đến đây”, chàng nhỏ giọng nói: “Huyệt đạo của nàng đã được giải, lúc nào cũng có thể rời đi”.
Không đợi Hà Y tiếp lời, chàng đã cắn răng nói tiếp: “Nàng ở cùng với ta chẳng có được gì tốt, ngược lại hết lần này tới lần khác vì ta mà chịu thiệt. Nàng rời xa ta, nhất định sẽ có cuộc sống tốt hơn. Cho nên nàng muốn đi, ta sẽ không ngăn nàng”.
Hà Y nhìn chàng, nhìn rất lâu, rồi nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt chàng, nói: “Ta… ta không hề vì chàng mà phải chịu thiệt thòi gì cả. Ta tình nguyện… chỉ cần chàng… chỉ cần chàng đồng ý cho ta một đứa con. Vô Phong, ta luôn muốn có một đứa con, con của chàng. Ta bằng lòng ngày ngày ở bên chàng”.
Chàng cúi đầu, trầm mặc không nói.
“Chàng không cần lo lắng quá nhiều”, nàng nắm lấy bàn tay lạnh buốt của chàng, dịu dàng nói: “Thứ nhất, đứa bé này là do ta sinh, không phải do chàng sinh. Thứ hai, nó sẽ không sao đâu. Nhất định không. Chúng ta không thể thiếu may mắn tới thế đâu. Thứ ba, cho dù… cho dù thân thể nó không tốt còn có chúng ta chăm sóc cho nó, nó cũng sẽ không phải chịu thiệt thòi gì cả”.
Chàng vẫn trầm mặc.
“Vô Phong, chàng nói gì đi!”
Chàng ngẩng đầu, nhìn nàng, lạnh lùng mà kiên quyết nói: “Không. Ta vĩnh viễn không muốn có con”.
Hà Y sững người, chợt cảm thấy toàn thân mình đang không ngừng run lên.
Sau đó nàng đứng đậy, run rẩy nói: “Chàng đã không muốn, ta cũng không thể ép chàng”.
Chàng lãnh đạm nói: “Trên đời có rất nhiều nam nhân, ta chẳng qua chỉ là một kẻ tàn phế, không đáng để nhắc tới. Nàng sẽ nhanh chóng quên được ta thôi”.
Hà Y giận đến cứng người, quát: “Mộ Dung Vô Phong, chàng… chàng dám… ta… ta giết chàng!”.
Nàng đột nhiên rút kiếm, đè lên cổ chàng, mắt đẫm lệ nói: “Ta… ta…”.
Tay hơi run, thanh kiếm trên tay đã vạch trên cổ chàng một vết thương dài cả tấc. Máu nhỏ xuống từng giọt, từng giọt, Mộ Dung Vô Phong vẫn không hề cử động.
Hà Y ném thanh kiếm sang một bên, hoảng hốt lấy khăn tay bịt lấy vết thương của chàng, khóc lóc: “Chàng chảy máu rồi, ta… không phải ta cố tình muốn chàng bị thương. Không ở cùng nhau thì không ở cùng nhau, thế cũng không… không sao cả. Chúng ta… chúng ta vốn không hề quen biết”.
Nói xong, nàng cười thê lương nói: “Ta đi rồi, chàng phải tự chăm sóc bản thân cho tốt”. Bóng dáng nàng biết mất trong sương đêm.
Chàng dõi theo lưng nàng, nhẹ nhàng chạm vào vết thương trên cổ. :
Đêm đã khuya lắm, vầng trăng khuyết tĩnh mịch treo trên cao. Không gian trong mát, những vì sao màu tím nhạt giăng đầy trời.
Chàng ngồi rất lâu trong màn đêm, mãi sau mới đẩy bánh xe, đi tới lan can cạnh đình. Lan can này có thể di chuyển, bên trên có một cái chốt cài. Chàng mở chốt, đẩy nhẹ một cái, lan can như một cánh cửa nhỏ mở sang một bên, bên dưới còn mấy bậc đá dẫn thẳng xuống nước. Sắc trời mịt mùng, nhưng chàng biết hai bên cầu thang có tay vịn, bên kia tay vịn có buộc một chiếc thuyền nhỏ. Ông ngoại chàng thích câu cá, trước đây thường dong thuyền từ đây ra hồ buông câu.
Chàng chống nạng gắng sức đứng lên, cảm thấy đầu nặng, chân nhẹ, hai chân loạng choạng. Chàng định thần, vịn lan can, từ từ chuyển người tới bậc thang. Bậc thang rất trơn, bên trên toàn là rong rêu, chàng không thể không cẩn thận giữ thăng bằng thật tốt. Còn may là đường không dài, chỉ ba bậc thôi, lan can hai bên cũng rất chắc chắn, cuối cùng cũng xuống được bậc cuối. Tuy không cảm thấy gì nhưng chẳng biết chân mình đã ở trong làn nước hổ lạnh như băng. Chàng cúi mình, tháo dây neo thuyền, kéo chiếc thuyền gỗ đang bập bềnh bên kia đến chân mình rồi bắt đầu nghĩ, làm thế nào mới có thể ngồi lên thuyển đây.
Đẩu tiên chàng kéo đôi chân trong nước lên, đặt vào mạn thuyền, sau đó vịn chặt đôi nạng, nhẹ nhàng nhấc mình lên, mặc dù cực kỳ vụng về, cuối cùng cũng đưa được bản than “ngã” vào thuyền.
Trên thuyền có hai mái chèo, chàng bò tới đuôi thuyền, đưa hai mái chèo xuống nước rồi dùng sức khua một cái, chiếc thuyền con lướt nhẹ tới giữa hồ.
Đây là lần đầu tiên tự mình chèo thuyền, chàng chợt phát hiện ra kỳ thực chèo thuyền là một việc rất dễ dàng.
Gió bấc nhè nhẹ thổi trên mặt hồ, sức của chàng hiển nhiên không đủ, phải chèo hơn nửa canh giờ mới đưa thuyền ra được giữa hồ. Chàng biết ở nơi đây chàng có thể có được sự tĩnh mịch chân chính. Tòa tiểu đình nhỏ trên hồ đã cách xa tới mức chỉ còn thấy được vài đốm sáng đèn lồng ờ đó. Rặng liễu ven hổ tựa như đã biến mất vào sương đêm mờ ảo. Đã có bờ dương liễu, trăng tàn gió sớm. Sao cứ phải nắm tay nhìn nhau lệ đẫm, không nói gì chỉ biết nghẹn ngào[2]? Chàng khẽ cười, trong khung cảnh đặc biệt này sao lại quên mang theo một bầu rượu?
[2] Tác giả dùng từ trong bài từ Vũ Lâm Linh của đại từ nhân Liễu Vĩnh (987-1053) thời Tống.
Nghỉ một chút, chàng dứt khoát rành mạch làm điều chàng muốn làm. Đầu thuyền có một cái tủ nhỏ, trong đó có một ít đồ câu cá đã cũ, một cái đục đã rỉ và một cái búa nhỏ. Chàng đặt cái đục và cái búa nhỏ bên người rồi đem dây buộc thuyền cuốn lấy hai chân mình, từng cái một, sau đó buộc vào với nhau, thắt ba cái nút. Lâm đại phu, chàng đã từng nghiên cứu qua các phương pháp thắt dây, vốn nghĩ rằng khi cần khâu cho bệnh mới đem ra dùng, không ngờ bây giờ lại dùng ở đây.
Chàng biết chân mình rất nhỏ, rất trơn, cho nên đã nghĩ tới mấy trường hợp có thế tuột ra, cuối cùng chọn một cách thắt dây tuy không đặc biệt lắm nhưng rất chắc.
Làm xong mọi thứ, chàng đục trong lòng thuyền một lỗ nhỏ để nước ào ào ộc vào thuyền sau đó đem mái chèo cùng nạng của mình quăng xuống nước.
Cảm ơn trời đất, từ giờ trở đi chàng sẽ không còn phải dùng tới những thứ ấy nữa rồi.
Chàng yên lặng nằm trên thuyền, một lúc sau nước dần dần dâng lên, thấm ướt lưng chàng.
Hướng lên trời cao, ánh trăng tim tím chiếu lên khuôn mặt bình thản của chàng.
Thời khắc này, vẻ mỹ lệ của bầu trời sao thật không có cách nào tả xiết.
Thuyền từ từ chìm xuống, thân thể chàng dần bồng bềnh trong nước. Sau đó thân dưới của chàng bị kéo căng, thân thuyền đã chìm xuống đang nhẹ nhàng níu lấy chân chàng.
Chàng không hề vùng vẫy.
Đây chính là điều chàng muốn, đã tính toán rất tốt, mọi thứ đều như ý, cho nên không cần gì phải vùng vẫy nữa.
Vào khoảnh khắc cuối cùng chìm vào mặt hồ, chàng cố gắng mở mắt, nhìn lần cuối bầu trời sao xán lạn trên đầu. Trong đó có hai ngôi lấp lánh lạ thường, tựa như mắt nàng vậy.
“Đẹp quá”, trong lòng chàng thầm nhủ.
/40
|