Sân khấu kịch tọa Đông hướng Tây. Phòng riêng được chia làm hai dãy Nam và Bắc, mỗi dãy có bảy gian.
Phó Đồng Văn đưa cô đến phòng riêng hạng nhất có tầm nhìn đẹp nhất, bên cạnh vốn có ba hàng ghế, đã có người sắp xếp từ trước theo dặn dò nên bên trong có thêm chiếc bàn bát tiên sơn sáng bóng, trên đặt một hộp gỗ, không cần nhìn cũng biết chắc chắn đựng mạt chược. Người làm của nhà hát còn chỉ vào chiếc giường La Hán ở góc tường phía Đông, nói rằng chuẩn bị riêng cho Phó Đồng Văn.
Trên chiếc bàn dài bằng gỗ tử đàn đặt một đèn thuốc nhỏ, thuốc phiện sống và dụng cụ hút thuốc đều có đủ cả.
"Cậu ba đến thật đúng lúc, đêm qua ông chủ Mai¹ vừa diễn ở đây, đêm nay thì đến Cát Tường Viên, nhưng diễn viên hôm nay cũng được lắm, vở kịch rất hay." Người làm nhiệt tình chào mời, "Đều bước ra từ Phú Liên Thành², chắc chắn không tệ."
¹Tức Mai Lan Phương (1894-1961) là diễn viên Kinh kịch huyền thoại của TQ, là nam diễn viên song ông gần như chỉ hóa thân vào vai nữ khi bước lên sân khấu. Lần đầu tiên Mai Lan Phương lên sân khấu là ở nhà hát Quảng Hòa, diễn vở Trường Sinh Điện, đóng vai Chức Nữ.
²Đoàn Kinh kịch có quy mô lớn nhất, tạo ra nhiều nhân tài nhất trong lịch sử, hợp tác với nhà hát Quảng Hòa trong hơn ba mươi năm, tạo ra vô số bậc thầy, cũng tạo nên địa vị của nhà hát Quảng Hòa trong những năm 20, 30 của thế kỷ 20.
Phó Đồng Văn ném hai đồng Đại Dương ra, gã người làm nhặt lên, khom người ra ngoài.
Trong phòng chỉ còn lại hai người, Phó Đồng Văn mở chiếc hộp gỗ, thong thả nhặt quân mạt chược ra.
"Tối nay em ở trong phòng này, anh ở đệ nhị quan. Sẽ có rất nhiều ngưòi tới, bàn bài rất hỗn loạn, em phải thắng, cũng phải thua, nhưng hãy nhớ hai vị tiên sinh này." Phó Đồng Văn nói, "Người thứ nhất họ Phương, là thương nhân bột mì, người này phải thua em bốn mươi nghìn đồng Đại Dương."
"Thua em sao? Em còn phải lấy tiền ư?"
"Đúng, người này muốn mua chức quan ở Bộ Tài chính, cần anh giúp đỡ, do vậy người này sẽ đưa tiền cho chúng ta."
"Được." Cô ghi nhớ.
Không ngờ có một ngày cô trở thành người nhận hối lộ.
"Người còn lại họ Thẩm, từng là giáo sư đại học, sau đó do đắc tội với bạn đồng liêu mà bị đuổi khỏi trường. Ông ta được giới thiệu tới dạy học ở một trường cấp ba khác. Những điều này em phải nhớ, khi giới thiệu họ sẽ nói với em.
Là người cùng phe. Thẩm Hề gật đầu.
"Em phải thua ông ta một trăm sáu mươi nghìn đồng Đại Dương."
"Có phỉnh to như vậy ư? Người khác sẽ không nghi ngờ chứ?" Một trăm sáu mươi nghìn?
Lương mỗi tháng của giáo sư đại học không quá hai trăm đồng Đại Dương, một trăm sáu mươi nghìn là số tiền phải tích góp hơn bốn mươi năm, thắng được chỉ trong một đêm liệu có bị nghi ngờ?
"Chia thành mấy lần càng phức tạp, chiến sự đang cần gấp." Anh trả lời.
Cô gật đầu.
"Cái người vừa rồi nói dối không chớp mắt cũng sẽ ở đây." Phó Đồng Văn cười, "Tối nay cậu ta sẽ thua tới mức phải bán đất."
Là người đó? Thẩm Hề nhìn cậu ấm như tay chơi trác táng ấy bằng cặp mắt khác.
Giấc mộng cứu nước cứu dân, người bình thường có, kẻ cao sang cũng có.
Kịch dưới tầng sắp mở màn, gã người làm đứng trước tấm bình phong bằng gỗ đang giục người trong đoàn kịch, người bán chỗ ngồi đang rót trà. Ở đây không có vé vào cửa, một tách trà và thu tiền khi vào chính là quy tắc. Thẩm Hề nhìn ra ngoài cửa sổ, gã người làm trong phòng riêng đối diện đang chống cửa sổ bằng gỗ lên. Phía dưới, người đưa khăn khoác một chiếc giỏ tre, bên trong đựng những chiếc khăn bông cuộn tròn, len lỏi trong khu chính sảnh.
Thẩm Hề đứng bên cửa sổ, cảm thấy xa lạ như tựa núi ngắm biển.
Gió gào thét trong tàu điện ngầm New York, khí nóng khô hanh trong lòng đất như hiện ra trước mắt. Ở chốn non nước vạn dặm nơi đây, cô như người quay về sau mười kiếp luân hồi.
Trong nhà xưởng bỏ hoang ở New York, Phó Đồng Văn nói anh muốn có công nghiệp tư bản ở Trung Quốc, khi ấy cô nghe không hiểu, nhưng bây giờ có thể tưởng tượng ra, nếu một ngày nào đó cũng đào một đường sắt dưới lòng đất thành Bắc Kinh, người lên tàu sẽ là đào kép mang lớp trang điểm, người bình thường, đầy tớ sai dịch, là cậu ấm cô chiêu? Hay là người bán chỗ? Người đưa khăn?
"Anh ở bên cạnh, không có bác sĩ đi cùng không sao chứ?" Cô chợt nhớ tới một điều quan trọng.
"Không sao đâu." Anh cười.
Cô lầm bầm, lần nào cũng nói không sao cả.
Người không nhìn ra vui giận như Phó Đồng Văn, lúc vui thì cười, tức giận cũng cười, khó chịu lại càng cười, bây giờ cũng đang mỉm cười:"Nhưng một lát nữa ở phòng bên anh cũng phải làm liều." Anh hạ thấp giọng, "Anh ba bất đắc dĩ."
Cô "vâng" một tiếng, giả vờ so đo:"Học vợ chồng, học người yêu, học phong lưu, tầng tầng diễn xuất, mạn đàm gặp dịp thì chơi."
Thẩm Hề lại nhớ đến Cô Ấu Vi. Ghen là bản năng rồi, không che giấu được.
Phó Đồng Văn cười thành tiếng, kề sát mặt cô:"Biết học phải đi đôi với hành rồi nhỉ?"
Cửa sổ được chống lên, người dưới sân khấu ngước nhìn lên trên, chỉ biết cậu ba Phó và người đẹp đang tán tỉnh nhau đên cửa sổ.
Hơi thở ấm nóng của anh nặng dần, phả bên môi cô. Đầu óc Thẩm Hề choáng váng, nụ hôn đã lâu chưa gặp mở màn trên tầng hai nhà hát kịch. Không gần gũi đã hơn hai tháng nay, hai người như quay lại hồi còn ở trên tàu, trong ký ức với nụ hôn phớt ở phòng thay quần áo, là tâm tư vẫn chưa tỏ rõ, là con đường phía trước đầy khó khăn, mờ mịt. Bên ngoài và bên trong cửa sổ là hai thế giới khác nhau. Không biết có phải do sự đặc biệt của nơi này không mà cô bỗng nhớ lại cảnh năm ấy mình quỳ trước anh trong sân, cô nói:"Cảm ơn cậu ba đã cứu mạng." Anh đáp: "Người làm nghĩa lớn, không đáng bị kết cục tru di cứu tộc...""
Cô của ngày được cứu, cô của tuổi mười chín, giờ đây dựa vào lòng anh sau bao nhiêu năm, môi kề môi, ánh nước lấp lánh.
"Gặp dịp thì chơi đã lâu, tim cũng sẽ mệt mỏi." Anh thì thầm vào tai cô.
Tay anh đỡ gáy cô, bàn tay kia khi thì đặt sau lưng, khi thì trượt xuống đùi, mỗi nơi đi qua đều nóng rực như lửa đốt, cuối cùng, anh ôm đùi cô, dùng sức đặt dưới người mình. Cách một lớp váy, tất dài và quần âu của anh, nhưng hai người tựa như không mặc gì, quanh minh chính đại kề cận nhau.
Cảm nhận rõ ràng vô cùng.
Hai tháng không thân mật, cảm giác mới lạ dâng cao.
Nhưng sự mới lạ này lại giống như khi mới yêu. Anh chỉ mut nhẹ lên cánh môi thôi mà cô đã thấy trời đất quay cuồng. Tim đập điên cuồng, nhanh đến nỗi cô mơ màng.
Thân dưới của anh hình như chạm nhẹ vào đùi cô, cô xấu hổ thốt ra một tiếng "ôi chao". Trời ạ...
Anh cười, bắt đầu hôn sâu.
Từ tháng Bảy năm 1914 rời khỏi thành Bắc Kinh, cho đến hôm nay thoát khỏi giam lỏng, thế cục đã biến động rất lớn. Anh phải xây dựng lại mạng lưới quan hệ, lo lắng mỏi mệt, hôn ước với Cô Ấu Vi còn chắn ngang giữa hai người, anh cũng hổ thẹn với Thẩm Hề.
"Đã bao giờ thấy cảnh đánh cá chưa?" Anh hạ thấp giọng, "Kéo cá lên, tháo lưỡi câu, ném vào giỏ, con cá sẽ không cam lòng giãy mấy cái. Hai tháng này anh ba cũng giống thế, là con cá mắc cạn."
Thể xác không lừa nổi ai, càng hôn tim càng đập nhanh, cả người bị hút hết sức lực, muốn gần gũi hơn nữa, chỉ mong sao ở bên nhau được lâu hơn. Là niềm vui khi cá được về với nước nên mới biết tình cá nước sâu đậm.
Anh biết mọi người đều đang đợi mình, những người đêm nay có mục đích hay không có mục đích đều chờ bàn bài này của cậu ba Phó. Thắp một nén nhang, lật bộ mặt thật của quan lại, một trăm bốn mươi bốn quân mạt chược bằng ngà voi, hàng trăm đôi tay lách cách đêm đêm, bao nhiêu chức vị, bao nhiêu vàng bạc châu báu đều luân chuyển đến nơi cần đến.
Giờ đã điểm.
Đến lúc sắp phải đi, môi răng vẫn vấn vương mùi hương của nhau, tay không nỡ dừng.
Cuối cùng anh vẫn gọi "Vạn An", nhưng người vào lại là chàng trai lúc nãy giúp họ giải vây dưới tầng. Anh ta đoán Phó Đồng Văn đã nói trước với Thẩm Hề, cho nên lúc tán gẫu với cô có sự hiểu ngầm. Thiếu gia này họ Tứ, cha giữ chức quan cao cấp trong bộ lục quân, kể ra là người nắm thực quyền. Anh ta nói với Thẩm Hề được hai câu thì bắt đầu xưng bạn gọi bè, không đến mấy phút, "đệ nhất quan" được lấp đầy.
Sau khi căn dặn mấy câu, Phó Đồng Văn lấy cớ "trong người không thoải mái" để đến phòng bên cạnh.
Cách một bức tường, người của Phó lão gia theo dõi Phó Đồng Văn nghe kịch. Khoảng một tiếng sau, thương nhân bột mì họ Phương xuất hiện, khi vào cửa còn châm điếu thước cho người bên cạnh Thẩm Hề:"Cậu tư Từ."
Cậu chủ Từ "ừ" một tiếng, đạp vào ghế của người bên cạnh.
Chỗ ngồi đổi người.
"Vị này là người của cậu ba Phó." Cậu chủ Từ giới thiệu Thẩm Hề với người chơi.
Anh ta không nói nhiều, mà ngồi xuống ném xúc xắc ra. Bốn mươi nghìn tiền hối lộ, cho vào túi chỉ trong nửa tiếng.
Trên bàn mạt chược đổi người như đèn kéo quân, hết đợt này đến đợt khác, Thẩm Hề và cậu chủ Từ đều rời khỏi bàn nhường lại ghế, đến bốn giờ sáng vẫn không thấy giáo sư đại học xuất hiện.
Khi cậu chủ Từ đi hút điếu thuốc cho tỉnh táo, dưới tầng bỗng có người gào to, một món đồ màu trắng bị ném vào cửa sổ. Gã hầu trong phòng bắt được bèn mở ra, là mười chiếc khăn sạch nóng hổi. Gã hầu nhanh nhẹn chia khăn cho mọi người, cuốn mười đồng Đại Dương vào trong khăn rồi ném xuống qua cửa sổ.
Dù là người ném hay người đưa đều dùng sức vừa phải, nhắm chuẩn không sai một li.
Phải mất bao nhiêu năm mới luyện được vậy? Cô tò mò nhìn, gã đưa khăn tiếp tục ném từng bọc khăn vào phòng riêng khác. Cô nhìn ra phía sau, nhận ra cửa sổ "để nhị quan" đang đóng.
Anh không xem kịch ư?
Lúc này, rèm cửa trong phòng được mở ra, có người đưa ba diễn viên kịch đã tẩy trang vào, trong đó có một người chỉ khoảng tám, chín tuổi, thanh tú xinh xắn hành lễ với mấy vị thiếu gia, còn có ba người trông giống như dân trí thức, khi được giới thiệu bèn chào hỏi cậu chủ Từ:"Ba vị này đều là thầy giáo dạy trong trường đại học."
"Không hẳn, không hẳn thế." Một vị tiên sinh chừng bốn mươi tuổi khép tay áo, nho nhã làm lễ, "Hiện giờ tôi đang dạy trường cấp ba, Tết xong, nếu hoàng thượng dẹp xong phản loạn thì phải chuẩn bị về nhà rồi."
Cậu chủ Từ cười:"Thầy giáo nọ cười gượng, "Không thái bình."
Cậu chủ Từ chắp tay về phía Tử Cấm Thành xa xa, nói:"Hoàng thượng có đại quân trăm nghìn binh sĩ, nhánh quân của Thái Ngạc ở Tứ Xuyên chưa đến mười nghìn, lấy mười đánh một, cho dù không cần súng pháo, chỉ dùng chân tay cũng nắm chắc thắng lợi. Ông yên tâm đi, mạng Thái Ngạc không còn dài nữa đâu."
Mọi người đều cười ồ.
Bởi câu nói ấy mà thầy giáo nọ cũng bùi ngùi, nói Thái Tùng Pha quả là người suy nghĩ luẩn quẩn, bày mưu tính kế, bất chấp sống chết để chạy khỏi thành Bắc Kinh, một người bị bệnh lao phổi nặng, lênh đênh trên biển đến Nhật Bản, Đài Loan, cuối cùng trở về quê nhà Vân Nam, càng không biết đang mưu tính chuyện gì:"Lửa chiến tranh sắp lan đến Tứ Xuyên rồi."
Cậu chủ Từ mỉm cười, từ đầu đến cuối Thẩm Hề vẫn tựa bên cửa sổ nhìn sân khấu.
Anh ta quở trách:"Hai người biến đi, tôi và chị dâu ba sắp vào bàn rồi. Mấy người các ông cũng không mở mắt ra mà nhìn, khó được dịp anh ba giao người cho chúng ta chăm sóc, không muốn thua tiền chị dâu, mà còn chiếm chỗ nữa hả?" Nói xong, đá một cái ghế ra.
Lúc này mọi người mới sực tỉnh, vây tới vừa mời vừa ép Thẩm Hề về bàn mạt chược.
Thẩm Hề từ chối hai câu thì không khách sáo thêm, sau khi ngồi xuống liền đặt tay lên hơn trăm quân bài mạt chược, xoa vài cái.
Bốn con rồng dài được xếp bốn phía bàn.
Cậu chủ Từ hút được nửa điếu thuốc, mệt mỏi ngáp một cái: "Mấy giờ rồi? Đổi phỉnh lớn đi, nâng cao tinh thần."
Mấy người làm tay chân nhan nhẹn, nói dối bèn đổi, phỉnh ngà voi bên tay Thẩm Hề tăng lên gấp mười.
Một cậu ấm nhỏ không chịu nổi tiền cược lớn bèn nhường chỗ.
Cậu chủ Từ đưa hai con xúc xắc tới:"Đến lượt chị dâu."
Thẩm Hề nhận lấy, gieo xúc xắc.
Hai con xúc xắc màu trắng chấm đỏ xoay tròn trên mặt bàn trải vải nhung xanh, quân bài ngà voi chạm vào nhau tạo thành tiếng lách cách, nghe hồi lầu liền có cảm giác vui chơi thả cửa vào mạt thế. Trong phòng, mùi thuốc phiện thối nát xa xỉ bấy lâu nay chưa ngửi nhuốm dần bầu không khí lãng đãng khói mù, làm dây thần kinh cô đau nhói.
Đến năm rưỡi sáng, đống phỉnh bên tay Thẩm Hề còn một nửa.
Cô nhẩm thấy đã đủ, bèn rời khỏi bàn chơi bài, nhờ gã hầu của cậu chủ Từ đến phòng bên cạnh xem Phó Đồng Văn thế nào, gã hầu ra ngoài không lâu thì người được hỏi thăm vén rèm vào. Phó Đồng Văn mắt đỏ hoe, trong có vẻ khá buồn ngủ, khoác áo vest vào phòng, bước chân không vững. Mấy cậu ấm xung quanh đều cười chào:"Hiếm khi thấy anh ba, sao giờ này vẫn ở đây?"
Mọi người đều tưởng rằng Phó Đồng Văn đã rời khỏi Quảng Hòa, đến Thì Hoa Quán gần đây để ngủ.
Phó Đồng Văn trầm giọng trả lời, đón lấy khăn nóng mà diễn viên kịch nhỏ tuổi đưa, lau tay sạch sẽ. Vạn An chuyển một cái ghế tới bên Thẩm Hề, anh ngồi xuống, tựa vào lưng ghế, cánh tay khoác lên vai cô, cười tủm tỉm nhìn quân bài trước mặt cô:"Chơi đủ chưa?"
Thẩm Hề đặt một quân vào lòng bàn tay vân vê qua lại, chợt ngửi thấy mùi rượu, buồn bực nhìn anh. Có bất đắc dĩ cũng không được uống rượu, lần này về Đàm Khánh Hạng chắn chắn sẽ mắng hai người một trận ra trò.
Đã bị bệnh tim lại còn uống rượu...
Trong lòng cô lo lắng vì chuyện anh uống rượu, không muốn để ý đến anh.
Phó Đồng Văn cười cầu hòa với cô, đôi mắt long lanh nhìn cô không rời, lọt vào mắt người khác giống như anh đang dâng cả tâm can cho người đẹp. Cậu ba Phó thật sự trúng kế rồi.
Dưới tầng, kịch đang hát đến đêm hoa chúc trong vở Đào hoa phiến (1): "Một khắc đêm xuân mộng lâu dài, làm sao cởi cúc trước mặt ai. Mong đến đèn mờ tàn yến tiệc, đồng hồ sen (2) nhỏ tới sớm mai..."
(1)Vở hí kịch của Khổng Thượng Nhiệm (1648-1718), là cháu đời thứ 63 của Khổng Tử, một kịch tác giả cuối thời Minh đầu thơi Thanh. Đoạn kịch trên miêu tả cảnh động phòng.
(2)Một dụng cụ đo thời gian ở cổ đại, hình giống hoa sen, xuất hiện vào khoảng thời Bắc Tống.
Phó Đồng Văn nheo mắt lại, chăm chú nghe kịch:"Em nghe kỹ mà xem, đều là lời muốn nói trong lòng anh ba."
Mọi người trong phòng đều cười.
Nhà hát Quảng Hòa quy định không cho phụ nữ vào nghe kịch vì phần lớn ca từ đều lả lơi táo tợn.
Một thiếu niên trẻ tuổi cố ý hỏi diễn viên kịch nhỏ tuổi:"Này, vở kịch này thầy cậu đã dạy chưa? Học hát hai câu, chính là hai câu vừa rồi."
Phó Đồng Văn cười như không cười, đưa tay cảnh cáo người nọ.
Người nọ vội vàng chắp tay xin lỗi, không dám l0 mãng.
Cậu chủ Từ lật bài trong tay ra:"Anh ba mắc bệnh tương tư rồi, giải tán thôi, đến ngõ Thiểm Tây."
Nói xong, một gã hầu vội vã vén rèm lên, nói thầm vào tai anh ta rồi đưa tới một tấm danh thiếp.
Cậu chủ Từ không nói không rằng, chỉ chau mày ném tấm danh thiếp lên bàn:"Không thăm dò xem trong phòng nào có những ai à?"
Lời còn chưa dứt, hai sĩ quan cầm súng bước vào, một già một trẻ. Hai người tỏ ý khiêm nhường nói với tất cả:"Các vị thiếu gia, làm phiền rồi."
Người lớn tuổi hơn rõ ràng có quen với Phó Đồng Văn, đặc biệt chu đáo hỏi thăm:"Cậu ba."
Anh nhớ đây chính là quan tham mưu quân cảnh vệ phủ tổng thống ba năm trước từng tới phủ, từng có duyên gặp mặt. Ngày ấy anh nhận được tin Tống Giáo Nhân bị ám sát, trong lòng bức bối, ông ta lại đến đúng lúc đó, nên vẫn còn ấn tượng.
Cậu chủ Từ cười:"Nghe nói hai người canh cửa đến hơn nửa đêm chỉ để chờ chúng tôi?"
Người nọ cười xòa:"Không dám làm phiền nhã hứng của các vị, chờ tan cuộc rồi chúng tôi mới vào hỏi một câu, thuận tiện đưa một người đi."
"Đưa ai?" Có người hỏi.
"Người của quân Điền, quân phản loạn."
Tim Thẩm Hề thót lại. Không lẽ là... Thẩm tiên sinh?
Quan tham mưu nhân lúc mấy cậu ấm chưa kịp trả lời, nhanh chóng bảo binh lính phía sau vào. Hai tên lính ngó quanh bốn phía, nhìn chằm chằm vào ba vị giáo sư ở góc phòng phía Đông. Vừa nhìn họ vừa bước tới:"Là anh."Ngón tay chỉ vào người trẻ tuổi bên cạnh Thẩm tiên sinh.
May mà không phải ông ấy...
Bàn tay đang nắm chặt quân bài của Thẩm Hề thả lỏng ra.
Hai binh sĩ không cho phân bua, bịt mồm người nọ, bẻ ngoặt cánh tay. Người thanh niên không kêu được thành tiếng, những tiếng ú ớ bật ra từ cổ họng truyền đến tai làm lòng Thẩm Hề hốt hoảng. Người bị giải ra ngoài, tiếng bước chân hỗn loạn xuống tầng.
"Cậu ba Phó, cậu chủ Từ, đắc tội với các vị rồi." Quan tham mưu lại cúi người, định lui ra ngoài.
Có người cười khẩy một tiếng.
Người đàn ông hút thuốc phiện trên giường La Hán chống người dậy:"Bàn mạt chược hôm nay là cậu ba tổ chức, ông chỉ nói một câu đắc tội là muốn xong chuyện hả?"
Cậu chủ Từ nháy mắt, hai gã hầu đóng cửa lại.
Sĩ quan trẻ tuổi định lấy súng, nhưng tay vừa mới chạm tới súng thì bị quan tham mưu đoạt mất. Nếu lấy súng ra thật thì càng khó nói. Người trong này có vị nào không mang súng đâu? Cơn tức của mấy thiếu gia mà xông lên thật, ai cũng có thể lấy súng bắn chết họ. Dù sao người ở đây đều là anh em tụ tập vui chơi, cuối cùng chắc chắn sẽ bao che cho nhau, bỏ qua coi như xong chuyện.
"Các vị thiếu gia, tôi cũng bất đắc dĩ mà thôi." Quan tham mưu xin lỗi.
Lại có người cười.
"Cậu ba, anh là người thấu tình đạt lý, anh nói mấy câu với thằng em này đi." Ông ta nhìn Phó Đồng Văn.
Phó Đồng Văn hơi khom người xuống, Vạn An giúp anh khoác áo vest lên vai. Khí chất anh trước sau như một, khi sau rượu vẫn không hề thay đổi, bình tĩnh ôn hòa nói với "người quen cũ":"Vốn tôi chỉ muốn thấu tình đạt lý với phụ nữ, nhưng bây giờ uống say quá, ngay cả phụ nữ cũng lười nói."
Tầng dưới, vở kịch đang hát về cây ngọc Kim Lăng (1), đinh nước Tần Hoài (2), nơi này lại là kinh thành đông đúc, vương hầu hiển hách.
(1)Tên khác của Nam Kinh, TQ. Khi mới thống nhất thiên hạ, Tần Thủy Hoàng đóng đô tại kinh thành Hàm Dương, vì nghe lời thầy phong thủy, lo sợ dương khí của một vùng đất nhỏ ở phía Nam Đế quốc Đại Tần-chính là Nam Kinh ngày nay- sẽ hun đúc một vị hoàng để khác soán ngôi mình, Tần Thủy Hoàng đã cho chôn vàng và cúng tế hàng tháng trời để dập tắt luồng dương khí nọ. Chính vì chuyện chôn vàng phá núi này mà người ta đặt cho nơi đây cái tên dân gian là "Kim Lăng".
(2)Một nhánh của sông Trường Gian, sông Hoài với chiều dài 110km chảy qua thành phố Nam Kinh. Từ thời kỳ Tần Thủy Hoàng cai trị, sông đã được đổi tên thành Tần Hoài. Đây là dòng sông rộng nhất ở Nam Kinh.
Phó Đồng Văn đưa cô đến phòng riêng hạng nhất có tầm nhìn đẹp nhất, bên cạnh vốn có ba hàng ghế, đã có người sắp xếp từ trước theo dặn dò nên bên trong có thêm chiếc bàn bát tiên sơn sáng bóng, trên đặt một hộp gỗ, không cần nhìn cũng biết chắc chắn đựng mạt chược. Người làm của nhà hát còn chỉ vào chiếc giường La Hán ở góc tường phía Đông, nói rằng chuẩn bị riêng cho Phó Đồng Văn.
Trên chiếc bàn dài bằng gỗ tử đàn đặt một đèn thuốc nhỏ, thuốc phiện sống và dụng cụ hút thuốc đều có đủ cả.
"Cậu ba đến thật đúng lúc, đêm qua ông chủ Mai¹ vừa diễn ở đây, đêm nay thì đến Cát Tường Viên, nhưng diễn viên hôm nay cũng được lắm, vở kịch rất hay." Người làm nhiệt tình chào mời, "Đều bước ra từ Phú Liên Thành², chắc chắn không tệ."
¹Tức Mai Lan Phương (1894-1961) là diễn viên Kinh kịch huyền thoại của TQ, là nam diễn viên song ông gần như chỉ hóa thân vào vai nữ khi bước lên sân khấu. Lần đầu tiên Mai Lan Phương lên sân khấu là ở nhà hát Quảng Hòa, diễn vở Trường Sinh Điện, đóng vai Chức Nữ.
²Đoàn Kinh kịch có quy mô lớn nhất, tạo ra nhiều nhân tài nhất trong lịch sử, hợp tác với nhà hát Quảng Hòa trong hơn ba mươi năm, tạo ra vô số bậc thầy, cũng tạo nên địa vị của nhà hát Quảng Hòa trong những năm 20, 30 của thế kỷ 20.
Phó Đồng Văn ném hai đồng Đại Dương ra, gã người làm nhặt lên, khom người ra ngoài.
Trong phòng chỉ còn lại hai người, Phó Đồng Văn mở chiếc hộp gỗ, thong thả nhặt quân mạt chược ra.
"Tối nay em ở trong phòng này, anh ở đệ nhị quan. Sẽ có rất nhiều ngưòi tới, bàn bài rất hỗn loạn, em phải thắng, cũng phải thua, nhưng hãy nhớ hai vị tiên sinh này." Phó Đồng Văn nói, "Người thứ nhất họ Phương, là thương nhân bột mì, người này phải thua em bốn mươi nghìn đồng Đại Dương."
"Thua em sao? Em còn phải lấy tiền ư?"
"Đúng, người này muốn mua chức quan ở Bộ Tài chính, cần anh giúp đỡ, do vậy người này sẽ đưa tiền cho chúng ta."
"Được." Cô ghi nhớ.
Không ngờ có một ngày cô trở thành người nhận hối lộ.
"Người còn lại họ Thẩm, từng là giáo sư đại học, sau đó do đắc tội với bạn đồng liêu mà bị đuổi khỏi trường. Ông ta được giới thiệu tới dạy học ở một trường cấp ba khác. Những điều này em phải nhớ, khi giới thiệu họ sẽ nói với em.
Là người cùng phe. Thẩm Hề gật đầu.
"Em phải thua ông ta một trăm sáu mươi nghìn đồng Đại Dương."
"Có phỉnh to như vậy ư? Người khác sẽ không nghi ngờ chứ?" Một trăm sáu mươi nghìn?
Lương mỗi tháng của giáo sư đại học không quá hai trăm đồng Đại Dương, một trăm sáu mươi nghìn là số tiền phải tích góp hơn bốn mươi năm, thắng được chỉ trong một đêm liệu có bị nghi ngờ?
"Chia thành mấy lần càng phức tạp, chiến sự đang cần gấp." Anh trả lời.
Cô gật đầu.
"Cái người vừa rồi nói dối không chớp mắt cũng sẽ ở đây." Phó Đồng Văn cười, "Tối nay cậu ta sẽ thua tới mức phải bán đất."
Là người đó? Thẩm Hề nhìn cậu ấm như tay chơi trác táng ấy bằng cặp mắt khác.
Giấc mộng cứu nước cứu dân, người bình thường có, kẻ cao sang cũng có.
Kịch dưới tầng sắp mở màn, gã người làm đứng trước tấm bình phong bằng gỗ đang giục người trong đoàn kịch, người bán chỗ ngồi đang rót trà. Ở đây không có vé vào cửa, một tách trà và thu tiền khi vào chính là quy tắc. Thẩm Hề nhìn ra ngoài cửa sổ, gã người làm trong phòng riêng đối diện đang chống cửa sổ bằng gỗ lên. Phía dưới, người đưa khăn khoác một chiếc giỏ tre, bên trong đựng những chiếc khăn bông cuộn tròn, len lỏi trong khu chính sảnh.
Thẩm Hề đứng bên cửa sổ, cảm thấy xa lạ như tựa núi ngắm biển.
Gió gào thét trong tàu điện ngầm New York, khí nóng khô hanh trong lòng đất như hiện ra trước mắt. Ở chốn non nước vạn dặm nơi đây, cô như người quay về sau mười kiếp luân hồi.
Trong nhà xưởng bỏ hoang ở New York, Phó Đồng Văn nói anh muốn có công nghiệp tư bản ở Trung Quốc, khi ấy cô nghe không hiểu, nhưng bây giờ có thể tưởng tượng ra, nếu một ngày nào đó cũng đào một đường sắt dưới lòng đất thành Bắc Kinh, người lên tàu sẽ là đào kép mang lớp trang điểm, người bình thường, đầy tớ sai dịch, là cậu ấm cô chiêu? Hay là người bán chỗ? Người đưa khăn?
"Anh ở bên cạnh, không có bác sĩ đi cùng không sao chứ?" Cô chợt nhớ tới một điều quan trọng.
"Không sao đâu." Anh cười.
Cô lầm bầm, lần nào cũng nói không sao cả.
Người không nhìn ra vui giận như Phó Đồng Văn, lúc vui thì cười, tức giận cũng cười, khó chịu lại càng cười, bây giờ cũng đang mỉm cười:"Nhưng một lát nữa ở phòng bên anh cũng phải làm liều." Anh hạ thấp giọng, "Anh ba bất đắc dĩ."
Cô "vâng" một tiếng, giả vờ so đo:"Học vợ chồng, học người yêu, học phong lưu, tầng tầng diễn xuất, mạn đàm gặp dịp thì chơi."
Thẩm Hề lại nhớ đến Cô Ấu Vi. Ghen là bản năng rồi, không che giấu được.
Phó Đồng Văn cười thành tiếng, kề sát mặt cô:"Biết học phải đi đôi với hành rồi nhỉ?"
Cửa sổ được chống lên, người dưới sân khấu ngước nhìn lên trên, chỉ biết cậu ba Phó và người đẹp đang tán tỉnh nhau đên cửa sổ.
Hơi thở ấm nóng của anh nặng dần, phả bên môi cô. Đầu óc Thẩm Hề choáng váng, nụ hôn đã lâu chưa gặp mở màn trên tầng hai nhà hát kịch. Không gần gũi đã hơn hai tháng nay, hai người như quay lại hồi còn ở trên tàu, trong ký ức với nụ hôn phớt ở phòng thay quần áo, là tâm tư vẫn chưa tỏ rõ, là con đường phía trước đầy khó khăn, mờ mịt. Bên ngoài và bên trong cửa sổ là hai thế giới khác nhau. Không biết có phải do sự đặc biệt của nơi này không mà cô bỗng nhớ lại cảnh năm ấy mình quỳ trước anh trong sân, cô nói:"Cảm ơn cậu ba đã cứu mạng." Anh đáp: "Người làm nghĩa lớn, không đáng bị kết cục tru di cứu tộc...""
Cô của ngày được cứu, cô của tuổi mười chín, giờ đây dựa vào lòng anh sau bao nhiêu năm, môi kề môi, ánh nước lấp lánh.
"Gặp dịp thì chơi đã lâu, tim cũng sẽ mệt mỏi." Anh thì thầm vào tai cô.
Tay anh đỡ gáy cô, bàn tay kia khi thì đặt sau lưng, khi thì trượt xuống đùi, mỗi nơi đi qua đều nóng rực như lửa đốt, cuối cùng, anh ôm đùi cô, dùng sức đặt dưới người mình. Cách một lớp váy, tất dài và quần âu của anh, nhưng hai người tựa như không mặc gì, quanh minh chính đại kề cận nhau.
Cảm nhận rõ ràng vô cùng.
Hai tháng không thân mật, cảm giác mới lạ dâng cao.
Nhưng sự mới lạ này lại giống như khi mới yêu. Anh chỉ mut nhẹ lên cánh môi thôi mà cô đã thấy trời đất quay cuồng. Tim đập điên cuồng, nhanh đến nỗi cô mơ màng.
Thân dưới của anh hình như chạm nhẹ vào đùi cô, cô xấu hổ thốt ra một tiếng "ôi chao". Trời ạ...
Anh cười, bắt đầu hôn sâu.
Từ tháng Bảy năm 1914 rời khỏi thành Bắc Kinh, cho đến hôm nay thoát khỏi giam lỏng, thế cục đã biến động rất lớn. Anh phải xây dựng lại mạng lưới quan hệ, lo lắng mỏi mệt, hôn ước với Cô Ấu Vi còn chắn ngang giữa hai người, anh cũng hổ thẹn với Thẩm Hề.
"Đã bao giờ thấy cảnh đánh cá chưa?" Anh hạ thấp giọng, "Kéo cá lên, tháo lưỡi câu, ném vào giỏ, con cá sẽ không cam lòng giãy mấy cái. Hai tháng này anh ba cũng giống thế, là con cá mắc cạn."
Thể xác không lừa nổi ai, càng hôn tim càng đập nhanh, cả người bị hút hết sức lực, muốn gần gũi hơn nữa, chỉ mong sao ở bên nhau được lâu hơn. Là niềm vui khi cá được về với nước nên mới biết tình cá nước sâu đậm.
Anh biết mọi người đều đang đợi mình, những người đêm nay có mục đích hay không có mục đích đều chờ bàn bài này của cậu ba Phó. Thắp một nén nhang, lật bộ mặt thật của quan lại, một trăm bốn mươi bốn quân mạt chược bằng ngà voi, hàng trăm đôi tay lách cách đêm đêm, bao nhiêu chức vị, bao nhiêu vàng bạc châu báu đều luân chuyển đến nơi cần đến.
Giờ đã điểm.
Đến lúc sắp phải đi, môi răng vẫn vấn vương mùi hương của nhau, tay không nỡ dừng.
Cuối cùng anh vẫn gọi "Vạn An", nhưng người vào lại là chàng trai lúc nãy giúp họ giải vây dưới tầng. Anh ta đoán Phó Đồng Văn đã nói trước với Thẩm Hề, cho nên lúc tán gẫu với cô có sự hiểu ngầm. Thiếu gia này họ Tứ, cha giữ chức quan cao cấp trong bộ lục quân, kể ra là người nắm thực quyền. Anh ta nói với Thẩm Hề được hai câu thì bắt đầu xưng bạn gọi bè, không đến mấy phút, "đệ nhất quan" được lấp đầy.
Sau khi căn dặn mấy câu, Phó Đồng Văn lấy cớ "trong người không thoải mái" để đến phòng bên cạnh.
Cách một bức tường, người của Phó lão gia theo dõi Phó Đồng Văn nghe kịch. Khoảng một tiếng sau, thương nhân bột mì họ Phương xuất hiện, khi vào cửa còn châm điếu thước cho người bên cạnh Thẩm Hề:"Cậu tư Từ."
Cậu chủ Từ "ừ" một tiếng, đạp vào ghế của người bên cạnh.
Chỗ ngồi đổi người.
"Vị này là người của cậu ba Phó." Cậu chủ Từ giới thiệu Thẩm Hề với người chơi.
Anh ta không nói nhiều, mà ngồi xuống ném xúc xắc ra. Bốn mươi nghìn tiền hối lộ, cho vào túi chỉ trong nửa tiếng.
Trên bàn mạt chược đổi người như đèn kéo quân, hết đợt này đến đợt khác, Thẩm Hề và cậu chủ Từ đều rời khỏi bàn nhường lại ghế, đến bốn giờ sáng vẫn không thấy giáo sư đại học xuất hiện.
Khi cậu chủ Từ đi hút điếu thuốc cho tỉnh táo, dưới tầng bỗng có người gào to, một món đồ màu trắng bị ném vào cửa sổ. Gã hầu trong phòng bắt được bèn mở ra, là mười chiếc khăn sạch nóng hổi. Gã hầu nhanh nhẹn chia khăn cho mọi người, cuốn mười đồng Đại Dương vào trong khăn rồi ném xuống qua cửa sổ.
Dù là người ném hay người đưa đều dùng sức vừa phải, nhắm chuẩn không sai một li.
Phải mất bao nhiêu năm mới luyện được vậy? Cô tò mò nhìn, gã đưa khăn tiếp tục ném từng bọc khăn vào phòng riêng khác. Cô nhìn ra phía sau, nhận ra cửa sổ "để nhị quan" đang đóng.
Anh không xem kịch ư?
Lúc này, rèm cửa trong phòng được mở ra, có người đưa ba diễn viên kịch đã tẩy trang vào, trong đó có một người chỉ khoảng tám, chín tuổi, thanh tú xinh xắn hành lễ với mấy vị thiếu gia, còn có ba người trông giống như dân trí thức, khi được giới thiệu bèn chào hỏi cậu chủ Từ:"Ba vị này đều là thầy giáo dạy trong trường đại học."
"Không hẳn, không hẳn thế." Một vị tiên sinh chừng bốn mươi tuổi khép tay áo, nho nhã làm lễ, "Hiện giờ tôi đang dạy trường cấp ba, Tết xong, nếu hoàng thượng dẹp xong phản loạn thì phải chuẩn bị về nhà rồi."
Cậu chủ Từ cười:"Thầy giáo nọ cười gượng, "Không thái bình."
Cậu chủ Từ chắp tay về phía Tử Cấm Thành xa xa, nói:"Hoàng thượng có đại quân trăm nghìn binh sĩ, nhánh quân của Thái Ngạc ở Tứ Xuyên chưa đến mười nghìn, lấy mười đánh một, cho dù không cần súng pháo, chỉ dùng chân tay cũng nắm chắc thắng lợi. Ông yên tâm đi, mạng Thái Ngạc không còn dài nữa đâu."
Mọi người đều cười ồ.
Bởi câu nói ấy mà thầy giáo nọ cũng bùi ngùi, nói Thái Tùng Pha quả là người suy nghĩ luẩn quẩn, bày mưu tính kế, bất chấp sống chết để chạy khỏi thành Bắc Kinh, một người bị bệnh lao phổi nặng, lênh đênh trên biển đến Nhật Bản, Đài Loan, cuối cùng trở về quê nhà Vân Nam, càng không biết đang mưu tính chuyện gì:"Lửa chiến tranh sắp lan đến Tứ Xuyên rồi."
Cậu chủ Từ mỉm cười, từ đầu đến cuối Thẩm Hề vẫn tựa bên cửa sổ nhìn sân khấu.
Anh ta quở trách:"Hai người biến đi, tôi và chị dâu ba sắp vào bàn rồi. Mấy người các ông cũng không mở mắt ra mà nhìn, khó được dịp anh ba giao người cho chúng ta chăm sóc, không muốn thua tiền chị dâu, mà còn chiếm chỗ nữa hả?" Nói xong, đá một cái ghế ra.
Lúc này mọi người mới sực tỉnh, vây tới vừa mời vừa ép Thẩm Hề về bàn mạt chược.
Thẩm Hề từ chối hai câu thì không khách sáo thêm, sau khi ngồi xuống liền đặt tay lên hơn trăm quân bài mạt chược, xoa vài cái.
Bốn con rồng dài được xếp bốn phía bàn.
Cậu chủ Từ hút được nửa điếu thuốc, mệt mỏi ngáp một cái: "Mấy giờ rồi? Đổi phỉnh lớn đi, nâng cao tinh thần."
Mấy người làm tay chân nhan nhẹn, nói dối bèn đổi, phỉnh ngà voi bên tay Thẩm Hề tăng lên gấp mười.
Một cậu ấm nhỏ không chịu nổi tiền cược lớn bèn nhường chỗ.
Cậu chủ Từ đưa hai con xúc xắc tới:"Đến lượt chị dâu."
Thẩm Hề nhận lấy, gieo xúc xắc.
Hai con xúc xắc màu trắng chấm đỏ xoay tròn trên mặt bàn trải vải nhung xanh, quân bài ngà voi chạm vào nhau tạo thành tiếng lách cách, nghe hồi lầu liền có cảm giác vui chơi thả cửa vào mạt thế. Trong phòng, mùi thuốc phiện thối nát xa xỉ bấy lâu nay chưa ngửi nhuốm dần bầu không khí lãng đãng khói mù, làm dây thần kinh cô đau nhói.
Đến năm rưỡi sáng, đống phỉnh bên tay Thẩm Hề còn một nửa.
Cô nhẩm thấy đã đủ, bèn rời khỏi bàn chơi bài, nhờ gã hầu của cậu chủ Từ đến phòng bên cạnh xem Phó Đồng Văn thế nào, gã hầu ra ngoài không lâu thì người được hỏi thăm vén rèm vào. Phó Đồng Văn mắt đỏ hoe, trong có vẻ khá buồn ngủ, khoác áo vest vào phòng, bước chân không vững. Mấy cậu ấm xung quanh đều cười chào:"Hiếm khi thấy anh ba, sao giờ này vẫn ở đây?"
Mọi người đều tưởng rằng Phó Đồng Văn đã rời khỏi Quảng Hòa, đến Thì Hoa Quán gần đây để ngủ.
Phó Đồng Văn trầm giọng trả lời, đón lấy khăn nóng mà diễn viên kịch nhỏ tuổi đưa, lau tay sạch sẽ. Vạn An chuyển một cái ghế tới bên Thẩm Hề, anh ngồi xuống, tựa vào lưng ghế, cánh tay khoác lên vai cô, cười tủm tỉm nhìn quân bài trước mặt cô:"Chơi đủ chưa?"
Thẩm Hề đặt một quân vào lòng bàn tay vân vê qua lại, chợt ngửi thấy mùi rượu, buồn bực nhìn anh. Có bất đắc dĩ cũng không được uống rượu, lần này về Đàm Khánh Hạng chắn chắn sẽ mắng hai người một trận ra trò.
Đã bị bệnh tim lại còn uống rượu...
Trong lòng cô lo lắng vì chuyện anh uống rượu, không muốn để ý đến anh.
Phó Đồng Văn cười cầu hòa với cô, đôi mắt long lanh nhìn cô không rời, lọt vào mắt người khác giống như anh đang dâng cả tâm can cho người đẹp. Cậu ba Phó thật sự trúng kế rồi.
Dưới tầng, kịch đang hát đến đêm hoa chúc trong vở Đào hoa phiến (1): "Một khắc đêm xuân mộng lâu dài, làm sao cởi cúc trước mặt ai. Mong đến đèn mờ tàn yến tiệc, đồng hồ sen (2) nhỏ tới sớm mai..."
(1)Vở hí kịch của Khổng Thượng Nhiệm (1648-1718), là cháu đời thứ 63 của Khổng Tử, một kịch tác giả cuối thời Minh đầu thơi Thanh. Đoạn kịch trên miêu tả cảnh động phòng.
(2)Một dụng cụ đo thời gian ở cổ đại, hình giống hoa sen, xuất hiện vào khoảng thời Bắc Tống.
Phó Đồng Văn nheo mắt lại, chăm chú nghe kịch:"Em nghe kỹ mà xem, đều là lời muốn nói trong lòng anh ba."
Mọi người trong phòng đều cười.
Nhà hát Quảng Hòa quy định không cho phụ nữ vào nghe kịch vì phần lớn ca từ đều lả lơi táo tợn.
Một thiếu niên trẻ tuổi cố ý hỏi diễn viên kịch nhỏ tuổi:"Này, vở kịch này thầy cậu đã dạy chưa? Học hát hai câu, chính là hai câu vừa rồi."
Phó Đồng Văn cười như không cười, đưa tay cảnh cáo người nọ.
Người nọ vội vàng chắp tay xin lỗi, không dám l0 mãng.
Cậu chủ Từ lật bài trong tay ra:"Anh ba mắc bệnh tương tư rồi, giải tán thôi, đến ngõ Thiểm Tây."
Nói xong, một gã hầu vội vã vén rèm lên, nói thầm vào tai anh ta rồi đưa tới một tấm danh thiếp.
Cậu chủ Từ không nói không rằng, chỉ chau mày ném tấm danh thiếp lên bàn:"Không thăm dò xem trong phòng nào có những ai à?"
Lời còn chưa dứt, hai sĩ quan cầm súng bước vào, một già một trẻ. Hai người tỏ ý khiêm nhường nói với tất cả:"Các vị thiếu gia, làm phiền rồi."
Người lớn tuổi hơn rõ ràng có quen với Phó Đồng Văn, đặc biệt chu đáo hỏi thăm:"Cậu ba."
Anh nhớ đây chính là quan tham mưu quân cảnh vệ phủ tổng thống ba năm trước từng tới phủ, từng có duyên gặp mặt. Ngày ấy anh nhận được tin Tống Giáo Nhân bị ám sát, trong lòng bức bối, ông ta lại đến đúng lúc đó, nên vẫn còn ấn tượng.
Cậu chủ Từ cười:"Nghe nói hai người canh cửa đến hơn nửa đêm chỉ để chờ chúng tôi?"
Người nọ cười xòa:"Không dám làm phiền nhã hứng của các vị, chờ tan cuộc rồi chúng tôi mới vào hỏi một câu, thuận tiện đưa một người đi."
"Đưa ai?" Có người hỏi.
"Người của quân Điền, quân phản loạn."
Tim Thẩm Hề thót lại. Không lẽ là... Thẩm tiên sinh?
Quan tham mưu nhân lúc mấy cậu ấm chưa kịp trả lời, nhanh chóng bảo binh lính phía sau vào. Hai tên lính ngó quanh bốn phía, nhìn chằm chằm vào ba vị giáo sư ở góc phòng phía Đông. Vừa nhìn họ vừa bước tới:"Là anh."Ngón tay chỉ vào người trẻ tuổi bên cạnh Thẩm tiên sinh.
May mà không phải ông ấy...
Bàn tay đang nắm chặt quân bài của Thẩm Hề thả lỏng ra.
Hai binh sĩ không cho phân bua, bịt mồm người nọ, bẻ ngoặt cánh tay. Người thanh niên không kêu được thành tiếng, những tiếng ú ớ bật ra từ cổ họng truyền đến tai làm lòng Thẩm Hề hốt hoảng. Người bị giải ra ngoài, tiếng bước chân hỗn loạn xuống tầng.
"Cậu ba Phó, cậu chủ Từ, đắc tội với các vị rồi." Quan tham mưu lại cúi người, định lui ra ngoài.
Có người cười khẩy một tiếng.
Người đàn ông hút thuốc phiện trên giường La Hán chống người dậy:"Bàn mạt chược hôm nay là cậu ba tổ chức, ông chỉ nói một câu đắc tội là muốn xong chuyện hả?"
Cậu chủ Từ nháy mắt, hai gã hầu đóng cửa lại.
Sĩ quan trẻ tuổi định lấy súng, nhưng tay vừa mới chạm tới súng thì bị quan tham mưu đoạt mất. Nếu lấy súng ra thật thì càng khó nói. Người trong này có vị nào không mang súng đâu? Cơn tức của mấy thiếu gia mà xông lên thật, ai cũng có thể lấy súng bắn chết họ. Dù sao người ở đây đều là anh em tụ tập vui chơi, cuối cùng chắc chắn sẽ bao che cho nhau, bỏ qua coi như xong chuyện.
"Các vị thiếu gia, tôi cũng bất đắc dĩ mà thôi." Quan tham mưu xin lỗi.
Lại có người cười.
"Cậu ba, anh là người thấu tình đạt lý, anh nói mấy câu với thằng em này đi." Ông ta nhìn Phó Đồng Văn.
Phó Đồng Văn hơi khom người xuống, Vạn An giúp anh khoác áo vest lên vai. Khí chất anh trước sau như một, khi sau rượu vẫn không hề thay đổi, bình tĩnh ôn hòa nói với "người quen cũ":"Vốn tôi chỉ muốn thấu tình đạt lý với phụ nữ, nhưng bây giờ uống say quá, ngay cả phụ nữ cũng lười nói."
Tầng dưới, vở kịch đang hát về cây ngọc Kim Lăng (1), đinh nước Tần Hoài (2), nơi này lại là kinh thành đông đúc, vương hầu hiển hách.
(1)Tên khác của Nam Kinh, TQ. Khi mới thống nhất thiên hạ, Tần Thủy Hoàng đóng đô tại kinh thành Hàm Dương, vì nghe lời thầy phong thủy, lo sợ dương khí của một vùng đất nhỏ ở phía Nam Đế quốc Đại Tần-chính là Nam Kinh ngày nay- sẽ hun đúc một vị hoàng để khác soán ngôi mình, Tần Thủy Hoàng đã cho chôn vàng và cúng tế hàng tháng trời để dập tắt luồng dương khí nọ. Chính vì chuyện chôn vàng phá núi này mà người ta đặt cho nơi đây cái tên dân gian là "Kim Lăng".
(2)Một nhánh của sông Trường Gian, sông Hoài với chiều dài 110km chảy qua thành phố Nam Kinh. Từ thời kỳ Tần Thủy Hoàng cai trị, sông đã được đổi tên thành Tần Hoài. Đây là dòng sông rộng nhất ở Nam Kinh.
/71
|