Kiến Văn đế Chu Doãn Văn là Hoàng đế thứ hai của Minh triều, có cha Chu Tiêu là con trưởng của Chu Nguyên Chương hoàng đế, ngay từ nhỏ đã được lập làm thái tử, chẳng may qua đời vào tuổi trung niên. Chu Nguyên Chương theo truyền thống lễ pháp lập Chu Doãn Văn làm hoàng thái tôn. Khi Chu Nguyên Chương qua đời, Chu Doãn Văn kế vị, lấy quốc hiệu là “Kiến Văn”, sử xưng là “Kiến Văn đế”(Để dễ cho việc kể chuyện, sau này sử dụng Kiến Văn hoặc Chu Doãn Văn để gọi). Sau đó bốn năm, tứ thúc yến vương Chu Lệ, người mà sau này cũng là Minh Thành tổ đã phát động chiến dịch Tĩnh Nạn, cướp lấy ngôi Hoàng đế. Kiến Văn Đế được đại thần thân tín Diệp Hi Hiền cùng các bộ hạ bảo vệ chạy thoát khỏi kinh thành Ứng Thiên Phủ.
Ở phần trước, Dương Thu Trì trong lúc vô tình đã phá được dư đảng của Kiến Văn, được hoàng thượng Minh Thành Tổ trọng dụng, sắc phong làm Cẩm y vệ chỉ huy sứ, phụ trách phá án liên quan đến Kiến Văn, lập được nhiều kỳ công, sau này Minh thành tổ lại nhận được mật báo là quân của Kiến Văn đã chạy ra hải ngoại. Không ngờ, ông ta lại nhận được mật báo là Kiến Văn đã quay lại, còn liên kết với Uy khấu Nhật Bản và người Mông cổ, ý đồ đông sơn tái khởi, không khỏi làm cho ông ta lo lắng.
Minh thành tổ Chu Lệ là con trai thứ tư của Chu Nguyên Chương. Bởi vì đã có thái tử rồi, hơn nữa thái tử lại có con trai rồi cho nên ngôi vị hoàng đế dù thế nào cũng không thể đến lượt ông ta. Mặc dù Chu Nguyên Chương rất có tình cảm với đứa con thứ tư này, và cũng có ý nghĩ muốn chuyển ngôi vị hoàng đế cho, hơn nữa Chu Lệ cũng rõ ràng là thích hợp đương nhiệm ngôi hoàng đế hơn Kiến Văn, nhưng khổ nổi là không tìm được cớ thích hợp. Cho đến khi Chu Nguyên Chương quy tây tì tâm nguyện này đã không thể thành.
Nhưng Chu Lệ không tin vào số mệnh, cuối cùng ông ta dựa vào lời dạy của tổ tiên, cần tiêu diệt “gian thần” Tề Thái, Hoàng Tử Trừng, lấy cớ "tĩnh nạn" cho nước, tuyên thệ trước khi xuất binh, phát động chiến dịch tĩnh nạn, chung qui cũng là dùng võ lực để đọat lấy ngôi vị hoàng đế. Nhưng sau khi bên Kiến Văn đi rồi, ngôi vị Hoàng đế của Chu Lệ được cho là danh bất chính, ngôn bất thuận, nên vấn đề của Kiến Văn đã là khối tâm bệnh của ông ta. Ông ta một mặt tập hợp lực lượng hùng hậu nhất đả kích quân của Kiến Văn, mặt khác tầm nã Kiến Văn khắp nơi, sống thì phải thấy người, chết cũng phải thấy xác. Không ngờ đằng đẵng nhiều năm mà không có kết quả gì. Trong lúc đang buồn rầu lo lắng, ông trời đã phái tới một Dương Thu Trì phá án như thần, dẹp tan dư đảng của Kiến Văn. Minh thành tổ mừng rỡ vô cùng, thăng quan tiến chức cho Dương Thu Trì, hết lòng trọng dụng và phong thưởng. Bây giờ lại xuất hiện hành tung của Kiến Văn, Minh thành tổ đương nhiên muốn Dương Thu Trì xuất chinh trận này.
Nhưng không ngờ vào chính lúc này thì Dương Thu Trì đổ bệnh. Nếu đổi thành chuyện khác, Minh Thành tổ còn có thể xem xét đổi người hoặc để từ từ. Nhưng chuyện này thuộc về cơ mật của hoàng gia, có thể làm nhưng không thể nói ra. Trước kia đều là do Dương Thu Trì phụ trách làm, hơn nữa trong mắt của Minh thành tổ, kẻ có khả năng hoàn thành sứ mạng này ngòai Dương Thu Trì ra thì không còn người thứ hai nào nữa. Khi đến Dương phủ, nhìn thấy Dương Thu Trì vừa mới phun ra máu tươi, Minh Thành Tô biết chắc là lần này bệnh của hắn chắc chắn không nhẹ. Đương nhiên ông ta cũng không biết Dương Thu Trì vì ái thiếp Liễu Nhược Băng ra khỏi nhà mà trở nên như thế, còn tưởng rằng là do họ Dương uống rượu quá nhiều hành phòng quá độ mà sinh bệnh. Xét thấy mối lo ngại này cũng không đến nỗi lớn lao, nên cuối cùng đã đem tâm sự nói cùng Dương Thu Trì.
Dương Thu Trì trong lòng mừng thầm, bây giờ Minh Thành tổ muốn chính hắn tiếp tục điều tra vụ án dư đảng Kiến Văn, vậy đương nhiên phải rời khỏi kinh thành để tra xét rồi. Như vậy có thể thuận tiện tìm kiếm mẹ con Liễu Nhược Băng. Nghĩ là sự việc nhất cử lưỡng tiện, hắn liền gượng nhỏm người dậy, thở mệt nhọc nói: "Hoàng thượng, vi thần chịu ân của Người, rất mong sớm được đền đáp. Hôm nay, Hoàng thượng đã sai phái, đừng nói chỉ là uống chút rượu dẫn đến hại người thổ huyết, cho dù tay chân bị cắt hết, dù chỉ còn hơi thở cuối cùng thần cũng phải hoàn thành chuyện này!”
Mấy câu nói đó làm Minh thành tổ vui vẻ ra mặt, gật đầu a ha cười bảo: "Vậy tốt lắm, ngày mai khi lâm triều, trẫm sẽ hạ chỉ phong khanh làm Tuần phủ, thay trẫm xuất kinh tuần thú các tỉnh, rà soát bách quan, đề đốc các đạo, xét hỏi vụ án. Trẫm ban cho khanh thượng phương bảo kiếm, quan thất phẩm nghịch mệnh có quyền giết chết không tha, không cần bẩm báo, quan lục phẩm đến tứ phẩm vẫn được tiền trảm hậu tấu.”
Mặc dù Dương Thu Trì được phong làm trấn quốc công, thuộc về hàng siêu phẩm, nhưng đây chỉ là hư hàm. Chức vụ đích thực của hắn là Cẩm y vệ chỉ huy sứ, là hàm chánh tam phẩm. Năm xưa, khi Kỷ Cương được Minh Thành Tổ Chu Lệ thưởng thức, đề bạt làm chánh nhị phẩm đô đốc thiêm sự Cẩm y vệ chỉ huy sứ. Nhưng Dương Thu Trì vẫn chưa nhận được chức này, cho nên thực chức và phẩm trật chỉ là chánh tam phẩm. Bây giờ Minh thành tổ ban cho hắn sứ mệnh làm Tuần phủ vi hành, thuộc hàng tòng nhị phẩm. Mặc dù từ xưa thì Tuần phủ không phải là chức quan thường, nhưng làm quan từ xưa đến nay chỉ cần không phạm sai lầm, thì quy củ đều là có thăng chứ không thể giảm chức. Chức tòng nhị phẩm của hắn định xong, sau này về kinh phục mệnh, tự nhiên sẽ được bổ nhiệm vào quan chức đồng đẳng khác, như vậy là tương đương thăng quan rồi.
Luận về thực quyền thì Tuần phủ thay thế Hoàng thượng tuần thú địa phương, áp đảo các nơi kể cả “tam ti” (tam ti tức là chưởng quản quân vụ Đô chỉ huy sứ ti, chưởng quản địa phương chánh vụ chánh sứ ti cùng chưởng quản hình danh là án sát sứ ti hợp xưng lại gọi là “Tam ti”). Vốn ra thì tam ti thị là cơ quan quyền lực tối cao ở địa phương, nhưng Tuần phủ giá lâm coi như là với danh nghĩa thiên tử tuần thú các nơi, tam ti đều phải nghe theo lệnh. Huống chi hắn còn có thượng phương bảo kiếm đặc quyền tiền trảm hậu tấu của hoàng thượng ban cho.
Tuần phủ vốn khi xuất tuần thì ăn mặc bình thường để thị sát dân tình. Đó cũng là để xem xét sự vụ cụ thể như thế nào kịp thời hồi kinh phục mệnh, hoặc trong phạm vi nhất định (chủ yếu là biên giới trọng địa), trấn an quân dân. Dương Thu Trì tuần phủ các nơi vậy là không hạn định thời gian, địa điểm, trong cả triều Minh chỉ có mình hắn là hưởng thụ sự đãi ngộ này mà thôi.
Minh thành tổ dừng lại một chút rồi nói: ”Mặt khác, mùa xuân này, bọn Uy khấu lại xâm phạm biên ải, nhất là ba phủ vùng duyên hải và Chiết Giang, bọn chúng đã giết hại dân ta, cướp bóc tài vật, gian dâm vô đạo không chỗ nào tha thứ được. Thậm chí khi triều đình viện trợ cho quân đội thì cũng đã bị bọn chúng cướp bóc. Mặc dù quân đội bảo vệ miền ven biển và thường dân đã tiêu diệt vô số, nhận thấy hành động này lặp đi lặp lại nhiều lần, nhưng bọn Uy khấu vẫn nổi dậy hết lần này đến lần khác, không ngừng giết chóc. Hơn nữa, nương vào đường biển để trốn thoát, tàu bè cũng không phát hiện tung tích gì, điều này đã làm trẫm thật sự đau đầu. Khanh lần này thay trẫm xuất tuần, tiện thể đến vùng Chiết Giang để dò la tình hình trước, nghĩ được cách diệt trừ bọn Uy khấu này là giải tỏa nổi họa lớn trong lòng trẫm rồi!”
“Dạ! Vi thần lĩnh mệnh!” Dương Thu Trì đứng dậy đáp ứng lệnh, hắn suy nghĩ một chút, lại nói: ”Như vi thần được biết, quyền thần của Nhật Bản là Túc Lợi Nghĩa Mãn chẳng phải là đã quy phục Đại Minh ta, hàng năm tiến cống, lại còn vào triều chầu phục, thế thì bằng cách nào mà bọn Uy khấu lại hung hăng như vậy?”
“Ừ. Lúc Túc Lợi Nghĩa Mãn còn, bọn tiểu phỉ này thực lực không nhiều, sự uy hiếp của Uy khấu có thể bỏ qua. Đáng tiếc, ba năm trước y qua đời, trẫm đã phái người đi tế lễ và sắc phong con là Nguyên Nghĩa làm chinh di đại tướng quân. Thất đáng tiếc là tài năng và uy vọng của Nguyên Nghĩa kém xa thân phụ của hắn. Từ đó về sau, bọn Nhật Bổn ngày một lớn mạnh, hoành hành duyên hải. Trong khi đó Tam Bảo bí mật báo về nói rằng Kiến Văn và bọn Uy khấu có dấu hiệu liên kết với nhau. Nếu đó là sự thật thì hậu quả khôn lường”.
Nhớ tới cuộc sống lúc nhỏ khi còn ở thời hiện đại, Dương Thu Trì không khỏi tránh được sự phẫn nộ, nhảy dựng lên nhịn không được mắng: ”Bọn tiểu Nhật Bổn thật đáng ghét, nếu để vi thần lãnh binh, nhất định sẽ đánh bại bọn Nhật Bổn nhỏ bé đó!”
Minh thành tổ cười nói: ”Ái khanh quả có hùng tâm. Trẫm rất lấy làm vui mừng vì điều đó. Nhưng vào lúc này, bọn Thát Đát, Ngõa Thích ở phía Bắc lại xâm phạm biên giới, cần tập trung toàn lực ứng phó, không nên cùng lúc khai chiến với cả hai bên, rơi vào thể trước mặt sau lưng đều thụ địch. Hơn nữa, bọn Nhật Bổn thần phục triều ta, chỉ là bọnn hải khấu vi phạm vùng biển, không đến nỗi phải vì thế mà khai chiến. Nếu Dương ái khanh muốn tham gia xuất chinh, đó là chuyện tốt, sau này, trẫm xuất chinh Mạc Bắc, sẽ để khanh làm tiên phong!”
Dương Thu Trì giật nảy mình, đánh trận không thể so sánh với việc phá án bằng pháp y, nếu mà không cẩn thận gặp thất bại trong chiến đấu cũng chính là tự mình làm mất mặt mình, lại còn liên lụy đến tính mạng của vô số tướng sĩ, có thể bị trị tội. Hắn cười khan nói: "Vi thần không biết đánh trận...”
"Sợ cái gì! Ai sanh ra đời mà biết đánh trận liền chứ? Hơn nữa còn có trẫm đây, trẫm viễn chinh Mạc Bắc, cho đến bây giờ đều giành được thắng lợi, khanh chỉ có thành công thôi, yên tâm được rồi! ha ha...”
Dương thu trì nghe được nhiệt huyết sôi trào, nhưng mà chiến tranh không phải là trò chơi, nên chỉ cười khan, không dám nói tiếp nữa.
Minh thành tổ cười cho qua, bảo: “Chuyện này sau này rồi hãy nói, lần này khanh đến tuần phủ quân dân vùng duyên hải Chiết Giang, là Đề đốc quân vụ, nếu có cơ hội thì tiêu diệt bọn Uy khấu đi. Tuy nhiên, khanh còn chưa có quân quyền, chỉ dựa vào Cẩm y vệ của khanh không đủ để ứng đối. Hay là như vầy đi, trẫm cấp cho khanh "điều binh hổ phù", khi tiêu diệt Uy khấu hoặc là dư đảng của Kiến Văn có thể dễ dàng làm việc!”
Minh triều nắm quân đội trong tay rất chắc, ngày thường không có chiến sự thì quân quan chỉ có quyền huấn luyện quân đội ở đại phương, không được điều động quân đội. Khi có chiến sự thì do Hoàng thượng làm chủ, phái ra tướng quân, mang quân phù huy động quân đội tiến hành tác chiến. Cho nên, Minh Thành tổ quyết định cho Dương Thu Trì điều tập quân đội chinh chiến này là không phải việc nhỏ, đương nhiên mục đích chỉ giới hạn vào việc để tiêu diệt bọn Uy khấu và dư đảng Kiến Văn .
Nhưng bây giờ đối với Dương Thu Trì mà nói, quyền lực có lớn đến đâu cũng không át được nổi đau khổ khắc cốt ghi tâm vì sự ra đi của Liễu Nhược Băng. Tuy nhiên, biểu hiện bên ngoài thì vẫn phải làm, không thể thiếu được. Cho nên hắn cố gắng bò dậy, quỳ gối trên giường tạ ơn Hoàng thượng. Lần này, Minh thành tổ cũng không ngăn trở, đợi cho hắn khấu đầu lạy xong, lại an ủi một phen, bảo hắn lo nghỉ ngơi cho bình phục đi rồi xuất hành, sau đó mới khởi giá về cung.
Ở phần trước, Dương Thu Trì trong lúc vô tình đã phá được dư đảng của Kiến Văn, được hoàng thượng Minh Thành Tổ trọng dụng, sắc phong làm Cẩm y vệ chỉ huy sứ, phụ trách phá án liên quan đến Kiến Văn, lập được nhiều kỳ công, sau này Minh thành tổ lại nhận được mật báo là quân của Kiến Văn đã chạy ra hải ngoại. Không ngờ, ông ta lại nhận được mật báo là Kiến Văn đã quay lại, còn liên kết với Uy khấu Nhật Bản và người Mông cổ, ý đồ đông sơn tái khởi, không khỏi làm cho ông ta lo lắng.
Minh thành tổ Chu Lệ là con trai thứ tư của Chu Nguyên Chương. Bởi vì đã có thái tử rồi, hơn nữa thái tử lại có con trai rồi cho nên ngôi vị hoàng đế dù thế nào cũng không thể đến lượt ông ta. Mặc dù Chu Nguyên Chương rất có tình cảm với đứa con thứ tư này, và cũng có ý nghĩ muốn chuyển ngôi vị hoàng đế cho, hơn nữa Chu Lệ cũng rõ ràng là thích hợp đương nhiệm ngôi hoàng đế hơn Kiến Văn, nhưng khổ nổi là không tìm được cớ thích hợp. Cho đến khi Chu Nguyên Chương quy tây tì tâm nguyện này đã không thể thành.
Nhưng Chu Lệ không tin vào số mệnh, cuối cùng ông ta dựa vào lời dạy của tổ tiên, cần tiêu diệt “gian thần” Tề Thái, Hoàng Tử Trừng, lấy cớ "tĩnh nạn" cho nước, tuyên thệ trước khi xuất binh, phát động chiến dịch tĩnh nạn, chung qui cũng là dùng võ lực để đọat lấy ngôi vị hoàng đế. Nhưng sau khi bên Kiến Văn đi rồi, ngôi vị Hoàng đế của Chu Lệ được cho là danh bất chính, ngôn bất thuận, nên vấn đề của Kiến Văn đã là khối tâm bệnh của ông ta. Ông ta một mặt tập hợp lực lượng hùng hậu nhất đả kích quân của Kiến Văn, mặt khác tầm nã Kiến Văn khắp nơi, sống thì phải thấy người, chết cũng phải thấy xác. Không ngờ đằng đẵng nhiều năm mà không có kết quả gì. Trong lúc đang buồn rầu lo lắng, ông trời đã phái tới một Dương Thu Trì phá án như thần, dẹp tan dư đảng của Kiến Văn. Minh thành tổ mừng rỡ vô cùng, thăng quan tiến chức cho Dương Thu Trì, hết lòng trọng dụng và phong thưởng. Bây giờ lại xuất hiện hành tung của Kiến Văn, Minh thành tổ đương nhiên muốn Dương Thu Trì xuất chinh trận này.
Nhưng không ngờ vào chính lúc này thì Dương Thu Trì đổ bệnh. Nếu đổi thành chuyện khác, Minh Thành tổ còn có thể xem xét đổi người hoặc để từ từ. Nhưng chuyện này thuộc về cơ mật của hoàng gia, có thể làm nhưng không thể nói ra. Trước kia đều là do Dương Thu Trì phụ trách làm, hơn nữa trong mắt của Minh thành tổ, kẻ có khả năng hoàn thành sứ mạng này ngòai Dương Thu Trì ra thì không còn người thứ hai nào nữa. Khi đến Dương phủ, nhìn thấy Dương Thu Trì vừa mới phun ra máu tươi, Minh Thành Tô biết chắc là lần này bệnh của hắn chắc chắn không nhẹ. Đương nhiên ông ta cũng không biết Dương Thu Trì vì ái thiếp Liễu Nhược Băng ra khỏi nhà mà trở nên như thế, còn tưởng rằng là do họ Dương uống rượu quá nhiều hành phòng quá độ mà sinh bệnh. Xét thấy mối lo ngại này cũng không đến nỗi lớn lao, nên cuối cùng đã đem tâm sự nói cùng Dương Thu Trì.
Dương Thu Trì trong lòng mừng thầm, bây giờ Minh Thành tổ muốn chính hắn tiếp tục điều tra vụ án dư đảng Kiến Văn, vậy đương nhiên phải rời khỏi kinh thành để tra xét rồi. Như vậy có thể thuận tiện tìm kiếm mẹ con Liễu Nhược Băng. Nghĩ là sự việc nhất cử lưỡng tiện, hắn liền gượng nhỏm người dậy, thở mệt nhọc nói: "Hoàng thượng, vi thần chịu ân của Người, rất mong sớm được đền đáp. Hôm nay, Hoàng thượng đã sai phái, đừng nói chỉ là uống chút rượu dẫn đến hại người thổ huyết, cho dù tay chân bị cắt hết, dù chỉ còn hơi thở cuối cùng thần cũng phải hoàn thành chuyện này!”
Mấy câu nói đó làm Minh thành tổ vui vẻ ra mặt, gật đầu a ha cười bảo: "Vậy tốt lắm, ngày mai khi lâm triều, trẫm sẽ hạ chỉ phong khanh làm Tuần phủ, thay trẫm xuất kinh tuần thú các tỉnh, rà soát bách quan, đề đốc các đạo, xét hỏi vụ án. Trẫm ban cho khanh thượng phương bảo kiếm, quan thất phẩm nghịch mệnh có quyền giết chết không tha, không cần bẩm báo, quan lục phẩm đến tứ phẩm vẫn được tiền trảm hậu tấu.”
Mặc dù Dương Thu Trì được phong làm trấn quốc công, thuộc về hàng siêu phẩm, nhưng đây chỉ là hư hàm. Chức vụ đích thực của hắn là Cẩm y vệ chỉ huy sứ, là hàm chánh tam phẩm. Năm xưa, khi Kỷ Cương được Minh Thành Tổ Chu Lệ thưởng thức, đề bạt làm chánh nhị phẩm đô đốc thiêm sự Cẩm y vệ chỉ huy sứ. Nhưng Dương Thu Trì vẫn chưa nhận được chức này, cho nên thực chức và phẩm trật chỉ là chánh tam phẩm. Bây giờ Minh thành tổ ban cho hắn sứ mệnh làm Tuần phủ vi hành, thuộc hàng tòng nhị phẩm. Mặc dù từ xưa thì Tuần phủ không phải là chức quan thường, nhưng làm quan từ xưa đến nay chỉ cần không phạm sai lầm, thì quy củ đều là có thăng chứ không thể giảm chức. Chức tòng nhị phẩm của hắn định xong, sau này về kinh phục mệnh, tự nhiên sẽ được bổ nhiệm vào quan chức đồng đẳng khác, như vậy là tương đương thăng quan rồi.
Luận về thực quyền thì Tuần phủ thay thế Hoàng thượng tuần thú địa phương, áp đảo các nơi kể cả “tam ti” (tam ti tức là chưởng quản quân vụ Đô chỉ huy sứ ti, chưởng quản địa phương chánh vụ chánh sứ ti cùng chưởng quản hình danh là án sát sứ ti hợp xưng lại gọi là “Tam ti”). Vốn ra thì tam ti thị là cơ quan quyền lực tối cao ở địa phương, nhưng Tuần phủ giá lâm coi như là với danh nghĩa thiên tử tuần thú các nơi, tam ti đều phải nghe theo lệnh. Huống chi hắn còn có thượng phương bảo kiếm đặc quyền tiền trảm hậu tấu của hoàng thượng ban cho.
Tuần phủ vốn khi xuất tuần thì ăn mặc bình thường để thị sát dân tình. Đó cũng là để xem xét sự vụ cụ thể như thế nào kịp thời hồi kinh phục mệnh, hoặc trong phạm vi nhất định (chủ yếu là biên giới trọng địa), trấn an quân dân. Dương Thu Trì tuần phủ các nơi vậy là không hạn định thời gian, địa điểm, trong cả triều Minh chỉ có mình hắn là hưởng thụ sự đãi ngộ này mà thôi.
Minh thành tổ dừng lại một chút rồi nói: ”Mặt khác, mùa xuân này, bọn Uy khấu lại xâm phạm biên ải, nhất là ba phủ vùng duyên hải và Chiết Giang, bọn chúng đã giết hại dân ta, cướp bóc tài vật, gian dâm vô đạo không chỗ nào tha thứ được. Thậm chí khi triều đình viện trợ cho quân đội thì cũng đã bị bọn chúng cướp bóc. Mặc dù quân đội bảo vệ miền ven biển và thường dân đã tiêu diệt vô số, nhận thấy hành động này lặp đi lặp lại nhiều lần, nhưng bọn Uy khấu vẫn nổi dậy hết lần này đến lần khác, không ngừng giết chóc. Hơn nữa, nương vào đường biển để trốn thoát, tàu bè cũng không phát hiện tung tích gì, điều này đã làm trẫm thật sự đau đầu. Khanh lần này thay trẫm xuất tuần, tiện thể đến vùng Chiết Giang để dò la tình hình trước, nghĩ được cách diệt trừ bọn Uy khấu này là giải tỏa nổi họa lớn trong lòng trẫm rồi!”
“Dạ! Vi thần lĩnh mệnh!” Dương Thu Trì đứng dậy đáp ứng lệnh, hắn suy nghĩ một chút, lại nói: ”Như vi thần được biết, quyền thần của Nhật Bản là Túc Lợi Nghĩa Mãn chẳng phải là đã quy phục Đại Minh ta, hàng năm tiến cống, lại còn vào triều chầu phục, thế thì bằng cách nào mà bọn Uy khấu lại hung hăng như vậy?”
“Ừ. Lúc Túc Lợi Nghĩa Mãn còn, bọn tiểu phỉ này thực lực không nhiều, sự uy hiếp của Uy khấu có thể bỏ qua. Đáng tiếc, ba năm trước y qua đời, trẫm đã phái người đi tế lễ và sắc phong con là Nguyên Nghĩa làm chinh di đại tướng quân. Thất đáng tiếc là tài năng và uy vọng của Nguyên Nghĩa kém xa thân phụ của hắn. Từ đó về sau, bọn Nhật Bổn ngày một lớn mạnh, hoành hành duyên hải. Trong khi đó Tam Bảo bí mật báo về nói rằng Kiến Văn và bọn Uy khấu có dấu hiệu liên kết với nhau. Nếu đó là sự thật thì hậu quả khôn lường”.
Nhớ tới cuộc sống lúc nhỏ khi còn ở thời hiện đại, Dương Thu Trì không khỏi tránh được sự phẫn nộ, nhảy dựng lên nhịn không được mắng: ”Bọn tiểu Nhật Bổn thật đáng ghét, nếu để vi thần lãnh binh, nhất định sẽ đánh bại bọn Nhật Bổn nhỏ bé đó!”
Minh thành tổ cười nói: ”Ái khanh quả có hùng tâm. Trẫm rất lấy làm vui mừng vì điều đó. Nhưng vào lúc này, bọn Thát Đát, Ngõa Thích ở phía Bắc lại xâm phạm biên giới, cần tập trung toàn lực ứng phó, không nên cùng lúc khai chiến với cả hai bên, rơi vào thể trước mặt sau lưng đều thụ địch. Hơn nữa, bọn Nhật Bổn thần phục triều ta, chỉ là bọnn hải khấu vi phạm vùng biển, không đến nỗi phải vì thế mà khai chiến. Nếu Dương ái khanh muốn tham gia xuất chinh, đó là chuyện tốt, sau này, trẫm xuất chinh Mạc Bắc, sẽ để khanh làm tiên phong!”
Dương Thu Trì giật nảy mình, đánh trận không thể so sánh với việc phá án bằng pháp y, nếu mà không cẩn thận gặp thất bại trong chiến đấu cũng chính là tự mình làm mất mặt mình, lại còn liên lụy đến tính mạng của vô số tướng sĩ, có thể bị trị tội. Hắn cười khan nói: "Vi thần không biết đánh trận...”
"Sợ cái gì! Ai sanh ra đời mà biết đánh trận liền chứ? Hơn nữa còn có trẫm đây, trẫm viễn chinh Mạc Bắc, cho đến bây giờ đều giành được thắng lợi, khanh chỉ có thành công thôi, yên tâm được rồi! ha ha...”
Dương thu trì nghe được nhiệt huyết sôi trào, nhưng mà chiến tranh không phải là trò chơi, nên chỉ cười khan, không dám nói tiếp nữa.
Minh thành tổ cười cho qua, bảo: “Chuyện này sau này rồi hãy nói, lần này khanh đến tuần phủ quân dân vùng duyên hải Chiết Giang, là Đề đốc quân vụ, nếu có cơ hội thì tiêu diệt bọn Uy khấu đi. Tuy nhiên, khanh còn chưa có quân quyền, chỉ dựa vào Cẩm y vệ của khanh không đủ để ứng đối. Hay là như vầy đi, trẫm cấp cho khanh "điều binh hổ phù", khi tiêu diệt Uy khấu hoặc là dư đảng của Kiến Văn có thể dễ dàng làm việc!”
Minh triều nắm quân đội trong tay rất chắc, ngày thường không có chiến sự thì quân quan chỉ có quyền huấn luyện quân đội ở đại phương, không được điều động quân đội. Khi có chiến sự thì do Hoàng thượng làm chủ, phái ra tướng quân, mang quân phù huy động quân đội tiến hành tác chiến. Cho nên, Minh Thành tổ quyết định cho Dương Thu Trì điều tập quân đội chinh chiến này là không phải việc nhỏ, đương nhiên mục đích chỉ giới hạn vào việc để tiêu diệt bọn Uy khấu và dư đảng Kiến Văn .
Nhưng bây giờ đối với Dương Thu Trì mà nói, quyền lực có lớn đến đâu cũng không át được nổi đau khổ khắc cốt ghi tâm vì sự ra đi của Liễu Nhược Băng. Tuy nhiên, biểu hiện bên ngoài thì vẫn phải làm, không thể thiếu được. Cho nên hắn cố gắng bò dậy, quỳ gối trên giường tạ ơn Hoàng thượng. Lần này, Minh thành tổ cũng không ngăn trở, đợi cho hắn khấu đầu lạy xong, lại an ủi một phen, bảo hắn lo nghỉ ngơi cho bình phục đi rồi xuất hành, sau đó mới khởi giá về cung.
/146
|