Lễ tang của quý tộc Băng Thổ là chỗ người ta đánh giá cái được mất do người chết mang lại, nước mắt chỉ rơi nơi huyệt mộ, còn cách đó dăm bước chân là tiếng thì thầm bàn tán đổi chác. Ông bà nội tôi, bạn của cha tôi, người chú trong họ, vị hoàng thân… tất cả đều ra đi trong khung cảnh như thế. Nó là một trong nhiều lý do làm tôi chán nản thân phận quý tộc. À, chào các vị, chúng ta lại cùng ngồi với nhau, tôi là Khai Y. Xin lỗi, tôi cần chút rượu, mong các vị thông cảm. Thật khó để nhớ về Khai Nhạn mà không có rượu, vả lại tôi cũng cần rượu cho câu chuyện sắp kể dưới đây.
Hôm tang lễ Khai Nhạn, mặt trời ló đầu qua mây hé tia ấm áp còn tuyết mơn man lạnh – quá đẹp cho một cuộc hẹn hò nhưng quá nhẫn tâm cho một cái chết. Giữa làn khói nồng gắt mùi thảo dược bốc ra từ chiếc lư hương đeo dây xích trên tay vị thánh sứ và lời cầu nguyện của ông ta, quan tài Khai Nhạn dần hạ huyệt mang theo trảng nắng vàng vọt ban trưa, bụi tuyết lơ thơ lẫn tiếng nức nở từ mẹ hai. Lần đầu tiên tôi thấy mẹ mình gần mẹ hai đến vậy. Hai người đàn bà luôn né tránh nhau suốt ba mươi năm giờ cùng khóc, cùng chung nỗi đau mất con. Tôi vẫn nhớ mẹ mình luôn vuốt tóc và hôn lên trán Khai Nhạn mỗi khi cậu về nhà, ở mặt nào đó mẹ yêu thương cậu hơn đứa con đẻ ngỗ ngược như tôi. Ngày ấy, vợ Khai Nhạn khóc ngất mấy lần còn con trai cậu vô cảm trong vòng tay tôi, thằng bé Khai Giã đang cứng rắn quá mức. Tôi dự cảm nếu không ở bên Khai Giã thường xuyên, đứa nhỏ sẽ trở thành khối băng vĩnh cửu, mãi mãi không thể tan dưới ánh mặt trời.
Người tham dự hôm ấy khá đông, một phần vì bạn bè lẫn đồng đội Khai Nhạn, phần khác là những con người muốn thấy viễn cảnh sau đám tang. Gia đình tôi thuộc chi trưởng họ Xuy Hạ, một lúc nào đấy tôi hoặc Khai Nhạn sẽ nắm quyền lãnh đạo dòng họ, dù mang thân phận con hoang song Khai Nhạn vẫn đầy đủ quyền thừa kế. Nhưng hiện người ta có thể chắc chắn rằng tôi sẽ tiếp quản cái ghế trưởng tộc trong tương lai gần. Quan tài yên vị, dòng người nối chân nhau bước quanh huyệt rồi thay phiên ném những cành Khúc Hối – một loại hoa nở ba bông trên một cành, mỗi bông hai tầng cánh màu huyết dụ – lên quan tài. Hoa lấp tuyết lấp nắng, lấp tấm kính che đi gương mặt Khai Nhạn như máu đổ, như đàn ông Băng Thổ chết nơi sa trường. Xong nghĩa vụ bày tỏ thương tiếc, đám người bắt đầu xì xầm về tôi. Cha tôi thường đảm nhận vai chính mỗi dịp tang gia nhưng hôm nay ông vắng mặt, chiến trường đang cần ông nên tôi bất đắc dĩ thế chỗ. Từng cá nhân rồi từng nhóm bắt đầu tiến về phía tôi, chìa tay cùng một nụ cười nhẹ “Thiếu gia Khai Y, tôi là…”. Họ, quý tộc, thương gia giàu có, tướng lĩnh quân đội, tiểu thư quyền quý… tất cả đều muốn tôi nhớ mình. Khung cảnh tang gia quen thuộc tái diễn, tôi phát điên và muốn đấm vỡ mặt từng kẻ bất kể đàn ông hay đàn bà. Điều duy nhất ngăn tôi làm vậy là Mục Á, em đứng phía xa, nép mình dưới tán cây bạch dương cùng ánh mắt luôn trông chừng tôi. Em sợ tôi phá hỏng tang lễ.
Rốt cục ngày đó chẳng có chuyện gì xảy ra. Sau lễ tang, gia đình tôi cùng về ăn tối. Nhưng sắp xếp hậu sự chu toàn cho Khai Nhạn chưa phải đã yên, một căn nhà với những người đàn bà buồn khổ mới là vấn đề. Bữa tối đầy lời than tiếng khóc, tôi nuốt không trôi. Những lời an ủi chỉ như liều thuốc giảm đau hiệu nghiệm trong ít phút để đánh lừa bộ não mà cơn đau vẫn ở nguyên đó. Tôi bắt đầu trách cứ ngôi nhà nơi mình sinh ra và lớn lên. Giá như nó bé như bao căn nhà truyền thống của người Băng Hóa với lò sưởi, bàn gỗ cho gia đình quây quần và những tấm thảm ấm áp lót sàn gỗ, hẳn không khí gia đình đã bớt tang tóc. Đằng này nó bề thế như một cung điện, nỗi buồn thảm được thể xô vào những cửa phòng mạ đồng, lan trên cầu thang khảm ngọc rồi tràn xuống phòng khách nguy nga cổ vật. Nó lênh láng khắp tòa biệt thự, bì bõm trên mặt sàn, ủng ùng ục dưới chân các cột trụ chống trần. Bất chấp tôi động viên khuyên nhủ, vợ Khai Nhạn không thôi thương nhớ người chồng và bỏ bữa suốt ngày hôm sau. Khai Giã chẳng nghe lời tôi nữa, rồi mẹ tôi, mẹ hai, họ không buồn trò chuyện dù tôi cố gợi. Rốt cục sự giàu sang chỉ cứu được khốn khổ thể xác chứ không cứu được khốn khổ tinh thần.
Mọi sự cứ vậy bốn ngày liền chưa kể mấy bận thành viên họ hàng qua hỏi thăm, người thực lòng, kẻ dò xét. Tôi phát chán ngôi nhà mà không thể bỏ đi. Nếu cha ở đây, cha sẽ làm gì? Ngày ông nội tôi bị ám sát, cha làm thế nào để giữ yên gia đình? Ngoài kia tôi là chiến binh tài năng, ở đây tôi chỉ là thằng nhóc Khai Y lóng ngóng việc nhà. Nếu không nhờ người quản gia sắp xếp công việc, tôi đã gục xuống từ lâu. Mệt mỏi lẫn chán chường, tôi tìm đến rượu và khói thuốc. Mục Á thì không muốn tôi trượt dài trong những chất kích thích. Em ôm vai tôi khuyên nhủ:
-Nhà chỉ còn đàn bà trẻ con, anh phải cứng rắn lên, Khai Y. Mẹ anh, mẹ hai, vợ con Khai Nhạn đang dựa vào anh đấy!
-Biết sao đây? – Tôi bóp trán – Mẹ hai khóc suốt, vợ Khai Nhạn nữa. Hình như Khai Giã ghét tôi rồi, thằng bé nghĩ tôi không có mặt đúng lúc để cứu cha nó. Tôi bất lực quá! Em bảo tôi phải làm gì đây, Mục Á?
Mục Á cười:
-Khai Giã không ghét anh, không ai ghét anh cả. Đừng tự trách mình. Vấn đề là anh không chỉ sống với nỗi đau của mình, anh phải học cách sống với đau đớn của người khác. Chúng sẽ vĩnh viễn ở cùng ngôi nhà này, anh không thể làm khác.
-Vĩnh viễn? Vậy phải làm sao? An ủi họ? An ủi làm gì khi nỗi đau là vĩnh viễn?
-Nhưng anh vẫn phải làm, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác cho tới hết đời. Anh cần làm quen với nó.
Tôi ôm đầu còn Mục Á ôm lấy tôi vỗ về. Được một lát, em nhỏ giọng:
-Hai tháng nữa em mới phải về Cao Lầu, còn nhiều thời gian, em sẽ giúp anh. Cơ mà đừng uống rượu, được chứ?
Tôi gật gật rồi ôm Mục Á ngủ trên sô-pha dù không chắc em sẽ giúp thế nào. Nhưng tôi thừa nhận Mục Á hiểu nỗi đau hơn mình vì em đã sống với nó quá lâu, gần như là quen thuộc.
Hôm sau tôi nhận ra Mục Á không ở bên mình. Em dậy từ sớm và xin phép mẹ tôi chuẩn bị bữa sáng. Dưới bàn tay Mục Á, bữa sáng hôm đó lạ mắt và đầy màu sắc thay vì những món ăn đơn điệu từ nền ẩm thực nghèo nàn của Băng Thổ. Khí hậu Diệp quốc ôn hòa nên người xứ ấy dùng nhiều gia vị, thức ăn vì thế đậm đà hơn trong khi người Băng Thổ quen ăn nhạt. Nhưng ở chừng mực nào đó, nó làm cổ họng của người đau buồn đương lạt lẽo khô khốc bỗng chốc có sinh khí. Mọi người hỏi chuyện Mục Á, em cười tươi, trả lời thành thực rồi gợi ý những người đàn bà trong gia đình cùng chuẩn bị bữa trưa. Mọi người nghe theo em. Sau chuỗi ngày im lìm như bãi nghĩa trang, ngôi nhà xuất hiện tiếng nói dưới khu bếp, nỗi đau mất mát nhường chỗ cho đồ ăn cùng mấy chuyện phiếm kiểu phụ nữ, nỗi buồn khổ ảm đạm tạm rút khỏi mẹ hai lẫn vợ Khai Nhạn. Tôi bớt bận tâm về hai người.
Nhưng vẫn còn đó Khai Giã. Thằng bé ngày càng ương bướng. Nó liên tục bỏ bữa, cả ngày tha thẩn với đám chim chóc chó mèo ở khu vườn sau nhà. Mọi người hết nói nổi Khai Giã, mẹ nó quát tháo thì may ra. Chẳng ai muốn nặng lời với đứa nhỏ mất cha nhưng cũng chẳng ai tìm được cách dỗ dành. Biết tôi phiền lòng với Khai Giã, Mục Á bèn nhận trông nom nó. Không nhắc nhở cũng không khuyên nhủ, Mục Á làm bạn cùng thằng bé, hết đắp người tuyết lại trốn trong chiếc lều mà thằng bé gọi là “căn cứ”. Dĩ nhiên Khai Giã không thích, thậm chí to tiếng nhưng Mục Á chỉ cười và kiên nhẫn chờ đứa nhỏ chấp nhận mình là một “phần tử” trong trò chơi phiêu lưu quanh khu vườn. Rốt cục Khai Giã phải chịu, nó thà ở đây với người xa lạ còn hơn trở vào nhà. Thay vì nhọc công lôi kéo Khai Giã vào bữa như mẹ nó thường làm, Mục Á mang đồ ăn tới rồi cùng thằng nhỏ ăn trong cái lều “căn cứ” nọ, cười đùa đủ thứ chuyện linh tinh kiểu trẻ con. Tôi nể Mục Á, nếu là tôi thì chắc không chịu nổi quá hai ngày.
Độ non một tuần, tôi ngạc nhiên khi thấy Mục Á dắt thằng bé dạo phố, bằng một cách thần kỳ nào đó mà đứa nhỏ chịu để em bồng bế. Có vẻ Khai Giã quấn em. Sau đấy không lâu, Khai Giã cũng chịu vào nhà và xin lỗi mọi người. Nó vẫn không cười nhưng ít nhất đã biết nghe lời. Tôi hỏi chuyện Mục Á, em thở dài:
-Ngôi nhà đầy kỷ vật của Khai Nhạn, mọi người đều nói về cậu ấy trong nước mắt, anh nghĩ thằng bé chịu nổi không? Ngoài kia khác… – Em ngoảnh đầu về khu vườn phía sau nhà – …ở đấy toàn trò chơi vui vẻ, nó không vào nhà cũng phải.
-Em hiểu trẻ con nhỉ? – Tôi nói.
-Vì em cũng từng như thế sau đợt mẹ mất. – Mục Á thở dài – Em thường loanh quanh con sông gần nhà vì mẹ hay đi qua đấy. Cha dỗ dành nhiều lắm em mới chịu thôi.
Tôi mỉm cười. Nỗi đau sẽ lưu trú nơi đây vĩnh viễn nhưng chúng tôi bắt đầu chấp nhận nó như một thành viên gia đình. Tôi ôm lấy Mục Á thay lời cảm ơn. Em vuốt tóc vỗ về tôi “Được rồi Khai Y, khách đang tới kìa. Đừng để họ chờ.”. Có Mục Á ở đây, căn nhà lạnh lẽo này dần chấp nhận một cuộc sống không có Khai Nhạn.
Tạm yên chuyện gia đình, tâm trí tôi có chỗ trống để lo đám họ hàng phiền phức. Nhiều năm lưu lạc nên tôi chẳng rõ ai chú ai bác ai cô ai dì, ấy thực là cái tội cho đám họ hàng chì chiết. Chì chiết chán, họ ưỡn ngực cao giọng khuyên tôi phải gia nhập quân đội để rửa hận cho em trai như người họ Xuy Hạ đích thực. Nực cười ở chỗ mấy lời lẽ thống thiết đó lại tuôn ra từ miệng những kẻ thường coi khinh Khai Nhạn – mẹ tôi kể rằng họ luôn thì thầm gọi cậu là “con hoang”. Chẳng có thứ báo thù nào trong chiến tranh, họ chỉ muốn ngôi nhà này nhận thêm một chiếc quan tài nữa. Dù vậy tôi không muốn sinh sự lúc tang gia.
Nhưng có mấy thứ trên đời luôn quá đà: một là xe mất phanh, hai là những buổi nhậu nhẹt và ba là lời lẽ của đám họ hàng. Bao nhiêu người đến, bấy nhiêu người thọc mạch chuyện tôi yêu một Hạ Nga Chi, thậm chí họ không thèm gọi chữ “Hạ Nga Chi” hay “Hattabi”. “Yêu gái điếm thật sao, Khai Y? Cha con giống nhau vậy?” – Họ nói thế cùng cái vênh vênh cong cong khinh thường nơi khóe miệng. Cũng chừng ấy lần tôi kết thúc cuộc gặp theo cùng một lối:
-Vấn đề Khai Nhạn, quân đội sẽ lo, chiến trường không phải chỗ báo thù. Còn sống thế nào thì tự chúng tôi sắp xếp, không mượn mấy người quan tâm. Nếu đã hết chuyện thì xin mời về!
Đám họ hàng phát điên trước cái cách tôi tống tiễn họ, cãi vã nảy sinh, mỗi ngày dăm ba vụ lùm xùm. Đỉnh điểm là một tối nọ, tôi đấm lệch hàm người anh họ khi gã lẩm bẩm “Cha con giống nhau, đều lấy điếm làm vợ!”. Xui cho người anh họ là giọng gã hơi to, tôi nghe được hết. Đáng lẽ gã đã bệt xê lết trong bệnh viện nếu Mục Á không ngăn tôi lại. Dù không rõ ràng nhưng Mục Á cũng phong phanh hiểu tại sao tôi làm thế. Tôi liền trấn an Mục Á, khẳng định sẽ cưới và yêu em đến hết đời. Em cười thật tươi, nhưng đâu đó trong ánh mắt em có tia lo nghĩ.
Tang lễ Khai Nhạn được ba tuần thì cha tôi trở về. Ông tới nghĩa trang cùng bó hoa, cung cách giống chuyến viếng thăm của người xa lạ hơn một ông bố tiếc thương cho đứa con xấu số. Gương mặt sắt đá, ánh mắt cứng rắn, cha tôi là thế. Ngày ông nội mất, cha cũng như vậy, không chút đổi khác. Bởi cha quá tôn thờ tính cách mạnh mẽ kiểu Băng Thổ nên mọi sự xung quanh ông bị bê tông hóa từ đám vệ sĩ đến vật vô tri vô giác. Ví như khi ông ở nhà thì cả tòa biệt thự sẽ biến thành lô cốt, nên tôi lắm lúc khó chịu với ông. Lần này cũng vậy. Không thèm hỏi han chuyện gia đình và mặc định rằng tôi đã lo liệu ổn thỏa, cha gọi tôi ra một chỗ nói chuyện. Ông vẫn thế, vẫn lời lẽ chắc nịch cùng cái nắm đấm nhấn mạnh câu chữ, nhìn chẳng khác vị đại thống lĩnh đang ra quyết sách quân sự:
-Ta quyết định rồi, Khai Y. Anh phải cưới tiểu thư Xa Hạn Lý, Hạn Lý sẽ là con dâu chính thức họ Xuy Hạ. Nhưng ta không phản đối nếu anh mang Mục Á về đây làm vợ hai. Đó là một vinh dự… à không, đó là chuyện vui! Ta đảm bảo nhà này đối xử với Mục Á như con ruột và anh sẽ chẳng bao giờ phiền lòng chuyện bên trọng bên khinh. Ta thề trên danh dự, con trai à!
Cha khiến tôi khó hiểu. Cha có hàm ý gì trong từ “vinh dự”? Tại sao ông nói đối xử với Mục Á như con đẻ mà em không thể làm con dâu chính thức? Cha luôn rõ ràng song đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy lời của ông mập mờ bất nhất. Tuy vậy tôi không thắc mắc, chỉ đáp:
-Lần trước con nói rõ rồi. Con chỉ yêu một người, lấy một người và sống chung với người đó đến hết đời. Chuyện giữa con và tiểu thư Hạn Lý đã hết, không còn gì cả.
-Không được, anh phải nghe ta! – Cha cao giọng rồi chống tay xuống bàn – Anh thừa kế họ Xuy Hạ và sẽ là nhân vật lớn ở đất nước này, anh không thể đi khắp nơi với một người vợ có quá khứ là Hạ Nga Chi. Ta đâu ép buộc anh bỏ Mục Á? Ta nói rồi, ta chấp nhận cô gái đó, chỉ là Mục Á không thích hợp cho vị trí con dâu chính thức. Bớt cứng đầu đi con trai, anh không thể khư khư mãi một niềm tin được! Ta đang lo cho tương lai của anh!
-Con không cần tương lai đó. – Tôi giơ tay – Số phận của con không phải gia nhập quân đội hay làm nhân vật lớn gì gì đấy! Con thuộc về thế giới ngoài kia, chiến đấu cho ngài đại thánh sứ Tây Minh. Cha nghe thằng anh họ bị con đấm chưa? Đó! Mấy chuyện dòng họ gia tộc con không thạo! Cha tìm người khác đi!
Cha nghe xong liền nổi cơn tam bành, tôi không quá bất ngờ. Nhưng cứ trông ông tóc tai dựng ngược, răng nghiền kèn kẹt, bàn tay gân guốc bóp vụn chai rượu vang, hẳn rằng tâm trí cha tôi đã sôi sủi và chẳng còn vệt cặn kiên nhẫn nào kết tủa ở vỏ não.
-Đồ ngu! Anh là thằng ngu! – Cha tôi to tiếng – Biết ai giết em trai anh không? Là người Phi Thiên quốc! Bọn Sukka đó! Chúng đem đám chó săn Thổ Hành hỗ trợ bọn Mù Thủy để lục địa này luôn bất ổn. Chúng luôn thọc ngoáy chuyện người khác rồi rao giảng bài ca hòa bình nhân nghĩa. Người Phi Thiên là thế! Chúng giết Khai Nhạn! Chúng giết em trai anh! Chúng giết con trai ta! Anh muốn phục vụ kẻ thù hay sao?
Nhìn mắt cha long sòng sọc mà đỏ ngầu, tôi mới thấy nỗi đau của người đàn ông bị kẹt giữa công việc và đám tang con mình. Trái tim ông chưa hóa đá như vẻ bề ngoài. Ông căm thù người Phi Thiên, tôi thông cảm cho ông. Nhưng chừng ấy không thể khiến tôi ghét bỏ thầy Tây Minh vì nó quá cảm tính. Hôm ấy chúng tôi cãi nhau to, tưởng chừng có bão tố làm ngả nghiêng những cột chống trần.
Mấy ngày sau, thầy Tây Minh cùng Đại Bác qua thăm viếng (vì quá nể tôi nên Đại Bác mới đến, gã có thù với hầu hết gia đình quý tộc ở Băng Hóa thành). Tuy vẫn giữ cung cách lịch sự song cha tôi kém nhiệt thành với thầy Tây Minh, khác một trời một vực so với lần đầu gặp gỡ. Dù tôi không diễn giải quá nhiều vì sợ thầy khó nghĩ, nhưng thầy chỉ nhìn qua đã biết sự tình. Ngày ấy tóc thầy còn lâm râm đen chứ chưa trắng toát, râu chưa dài tới ngực, dáng điệu vẫn phong độ và chưa mắc bệnh tuổi già, chỉ duy giọng nói hóm hỉnh chẳng bao giờ thay đổi ở bất cứ thời gian hay không gian nào:
-Nghỉ việc hộ vệ thánh sứ đi, Khai Y. Đang thời điểm nhạy cảm, cứ thế này thì không tốt cho anh. Ta không muốn mang tiếng làm “hư hỏng” người thừa kế họ Xuy Hạ. Anh và Đại Bác làm hư hỏng các cô gái, ta thì làm hư hỏng các anh. Chúng ta là bộ ba tuyệt vời nhỉ?
Tuy đang buồn chuyện Khai Nhạn nhưng nghe vậy thì tôi phì cười, thầy Tây Minh luôn biết cách động viên người khác. Đáp lại, tôi viện đủ lý do nhằm giữ lấy công việc hộ vệ thánh sứ. Thầy không để ý lắm mà hướng ánh mắt ra ngoài cửa sổ rồi trông xuống khu vườn sau nhà, ở đấy thằng bé Khai Giã đang chơi trò đắp người tuyết với Mục Á. Nhìn một hồi, thầy cắt ngang lời tôi:
-Ta có nghe Đại Bác kể chuyện của anh. Làm hộ vệ cho ta, anh sẽ đỡ vướng bận trách nhiệm gia đình và thoải mái cưới cô Hạ Nga Chi đó, đúng không?
Nói rồi thầy hướng về phía Mục Á. Tôi cười trừ. Thầy nói không sai. Tuy không phải chính yếu nhưng “cưới Mục Á” là một lý do quan trọng để tôi tiếp tục công việc hộ vệ. Lát sau Mục Á mang trà vào phòng; vừa nhận ra thầy, em cả mừng đoạn cúi thấp người bày tỏ lòng ngưỡng mộ lẫn kính trọng. Thầy cũng đáp lễ bằng cách hôn tay Mục Á như đối xử với một tiểu thư quyền quý. Hai người trò chuyện ít lâu, thầy Tây Minh chợt hỏi:
-Tôi có hơi tò mò về xuất thân của cha cô. Khai Y kể với tôi cha cô từng là quý tộc tự thân trước khi chuyển sang nghề Đạo Chích Không Trung, vậy ông ấy là người Băng Hóa hay đến từ đâu? Thứ lỗi về sự đường đột này, chỉ là tôi lo lắng cho học trò. Khai Y với tôi như con đẻ vậy, thằng nhóc hay làm người khác phiền lòng lắm!
Mục Á cúi đầu cười song im lặng. Em luôn tránh đề cập thân thế cha mình với bất cứ ai kể cả tôi, dường như là muốn đem nó vùi sâu vĩnh viễn dưới dòng chảy thời gian. Nhưng có vẻ vì quá ngưỡng mộ thầy Tây Minh mà em phá lệ:
-Thưa ngài, cha tôi thực ra không phải người Băng Hóa chính gốc mà là dân nhập tịch. Ông đến từ một vùng hẻo lánh ở miền tây bắc lục địa. Cha kể nơi ấy toàn núi tuyết, những ngọn núi… chúng không hẳn là núi mà giống những phế tích. Người ở đấy thường sống trong những hang núi, đôi khi tụ tập dưới những phế tích… Xin lỗi đại thánh sứ, cha không kể rõ ràng nên tôi cũng không rõ lắm.
-Đó là “Vương Quốc Cũ”… – Thầy Tây Minh gãi cằm, chòm râu rung rung theo ngón tay – Nơi ấy từng là một đất nước cổ thời phi cơ giới, sau này bị chiến tranh hủy diệt. Các nhà thám hiểm hoặc dân khảo cổ thường đến đó nghiên cứu. Nhưng khí hậu khắc nghiệt nên ít người sống ở Vương Quốc Cũ, chỉ có vài bộ tộc nhỏ. Cha của quý cô thú vị đấy!
Mục Á mỉm cười, trông không có vẻ gì là muốn nghe tiếp về mảnh đất Vương Quốc Cũ. Thầy Tây Minh cũng không căn vặn thêm. Họ trò chuyện vui vẻ rồi kết thúc bằng việc chụp hình lưu niệm. Từ hồi quen tôi, Mục Á luôn hỏi về thầy và giờ em được toại nguyện. Sau cuộc gặp, thầy Tây Minh chẳng đả động chuyện Mục Á cũng không đưa ra lời khuyên nào cho tôi. Thầy im lặng. Giảng giải mấy triết lý huyền bí sâu xa khó hiểu rồi liên hệ cuộc sống thực – thầy luôn như thế mỗi khi dạy dỗ hoặc giúp tôi gỡ rối. Nhưng biểu hiện lúc này của thầy làm tôi khó hiểu.
Về nhà ít hôm, cha trở lại chiến tuyến và phó mặc toàn bộ việc nhà cho tôi. Họ hàng khách khứa nườm nượp ra vào tòa biệt thự, tôi hầu như chẳng có thời gian ngơi nghỉ. Họ tiếc thương Khai Nhạn thì ít mà tra tấn tôi thì nhiều, hỏi han đủ thứ chiến tranh chính trị, nhỏ to chuyện hôn nhân, thậm chí nhờ cậy việc quan trọng dù tôi chẳng có mối quan hệ quyền lực nào tại Băng Hóa thành. Qua vài ngày tôi chợt hiểu vấn đề. Không tự dưng cha rời đi dù vẫn còn ngày nghỉ phép, ông ngầm ý rằng chính tôi sẽ thừa kế họ Xuy Hạ mà thái độ của các vị khách là minh chứng. Cha đang ép tôi vào khuôn khổ bằng cách quàng lên cổ tôi trách nhiệm gia đình. Nhưng mọi nỗ lực của ông đều vô ích, tôi sẽ đưa Mục Á quay lại Hoàng Hôn Cảng và tiếp tục làm hộ vệ thánh sứ. Gia đình phiền lòng về tôi, ngay cả Mục Á cũng không đồng tình:
-Em thấy không ổn, Khai Y à… – Mục Á thỏ thẻ – Khai Nhạn mất rồi, cha anh ngoài mặt trận, giờ anh đi nốt thì lấy ai quán xuyến gia đình? Ngôi nhà cần người đàn ông, anh đi như vậy…
-Đã có người quản gia. – Tôi ngắt lời Mục Á – Toàn là bác ấy sắp xếp mọi việc, tôi chỉ làm theo mà thôi! Bác phục vụ ba đời họ Xuy Hạ rồi, coi như là người thân trong gia đình vậy. Đừng lo, Mục Á, đâu sẽ vào đó. Đợi chuyện buồn qua đi, tôi sẽ cưới em. Khai Nhạn từng nhờ chúng ta phải làm cha mẹ đỡ đầu cho Khai Giã, tôi phải giữ lời với cậu ấy. Tôi cũng phải giữ lời với em nữa.
Mục Á toan nói song ngừng lại. Em cười hiền rồi dịu dàng vuốt tóc tôi tỏ ý hoàn toàn tin tưởng, nhưng ánh mắt em lại hơi lệch nhịp với những cử chỉ đó. Lo âu, suy nghĩ, tính toán… nhiều thứ cứ tràn ra từ đôi mắt của Mục Á. Chúng bao lấy em, xô đẩy quần áo lẫn thân thể em thành những hình hài bồn chồn ở ngón tay xăn văn nhau hay đôi chân nhấp nhôm thấp thỏm. Chợt nhớ Mục Á hay quy kết chính mình là nguyên nhân rắc rối, tôi vội lảng chủ đề khác nhằm ngăn suy nghĩ đó sinh sôi trong đầu em.
Những ngày tháng yên bình trôi qua, sự hiện diện của Mục Á khiến gia đình tôi vơi bớt nỗi tiếc thương Khai Nhạn. Thằng bé Khai Giã thì quấn chân Mục Á cả ngày, thậm chí nó còn giành giật em khỏi tay tôi và coi đấy như thú vui. Vài lần tôi thoáng thấy Khai Giã nhếch mép cười. Thằng lỏi láu cá! Ha ha! Nhưng tôi không giận đứa nhỏ, nó cần được bù đắp sau nỗi đau mất cha. Vả lại thời gian của Mục Á không còn nhiều, em sắp phải về Cao Lầu như thỏa thuận hợp đồng. Mấy ngày đó, tôi cũng nói rõ ý định tương lai với gia đình. Dĩ nhiên chẳng ai đồng tình nhưng tôi thây kệ. Phiền nỗi tôi không hề biết đó là khởi nguồn cho cơn bão sắp ập xuống ngôi nhà.
Mà cơn bão nọ chẳng phải thứ nào khác ngoài cha tôi. Dù luôn ủng hộ tôi hết mực nhưng người quản gia không thể làm ngơ, bác gọi điện cho cha để thông báo tình hình. Nhanh hơn cả tố lốc, cha tức tốc quay về nhà chỉ sau nửa ngày. Ông vẫn mặc quân phục, chẳng mang theo bất cứ hành trang nào ngoài những lời chửi mắng thậm tệ dành cho tôi. Tòa biệt thự rung chuyển vì tiếng quát tháo. Tuy đã cố nhún nhường nhưng khốn thay, tôi thừa hưởng nhiều đặc tính từ cha mà thứ tệ nhất là “mất bình tĩnh”. Và chẳng gì tệ bằng việc người cha sỉ nhục quan điểm sống lẫn ước mơ của đứa con trai. Hai cha con tôi to tiếng rồi cãi nhau ầm ĩ, tiếp đến đồ vật xung quanh đổ vỡ loảng xoảng tựa thể có giông bão quét qua. Những người phụ nữ, người quản gia rồi đám vệ sĩ cố gắng can ngăn nhưng chẳng ai có thể chen giữa chúng tôi, càng không thể ngăn cú đấm của cha. Cha đấm tôi. Đấm thật. Cú đấm nặng nề, đau đớn và không chút do dự như dành cho kẻ thù, tuyệt không phải dạy dỗ đứa con trai. Tôi bắn vào góc tường, sách vở trên giá đổ ập xuống người, đầu óc lơ mơ nghe thấy tiếng hét của mẹ và Mục Á. Mắt tôi lem nhem máu, khung cảnh trở nên nhập nhòe, chỉ thấy cha đang vùng vẫy giữa những cánh tay của đám vệ sĩ lẫn bác quản gia. Cha chỉ mặt tôi, không ngừng rủa xả:
-Mày là thằng ngu, Khai Y! Tao muốn tốt cho mày nhưng mày chẳng hiểu gì hết! Tại sao mày luôn cãi lời người cha này? Em mày bị người Phi Thiên giết, giờ mày muốn phục vụ kẻ thù? Thằng ngu!
-Vì tôi không giống cha! Ông già chết tiệt! – Tôi nổi khùng – Cha chỉ quan tâm thể diện thôi! Cha cố tình đưa Khai Nhạn vào đội viễn chinh để tỏ ra không thiên vị người nhà, để tỏ ra công tâm chính trực! Biết gì không, cha yêu quý? Cha dùng mọi người như miếng đánh phấn, như chiếc son môi, như gương trang điểm, như bút chì tô vẽ lông mày, như hộp kem dưỡng da để trang điểm mặt mình cho bóng bẩy hào nhoáng. Cha như mụ đàn bà ngày ngày chỉ quan tâm mình trong mắt người khác có đẹp hay không. Ông già chết tiệt!
Cha điên tiết, mắt mũi trợn ngược như thú dữ lồng lộn phá cũi, người quản gia lẫn đám vệ sĩ cố lắm mới ghì được ông xuống. Ông vùng vằng bước vào phòng làm việc, lát sau trở ra cùng mảnh giấy có đóng dấu triện gia huy họ Xuy Hạ bằng sáp nến. Cha vứt nó trước mặt tôi, rít lên:
-Ký vào, nhanh lên! Ký vào, mày sẽ được tự do như mày muốn! Nhưng cả đời này mày đừng hòng bước về nhà! Ký nhanh, ký nhanh, mày sẽ không mang họ Xuy Hạ nữa! Ký rồi cút khỏi đây!
Chẳng cần đọc tôi cũng biết nó là giấy từ mặt. Kết cục xấu nhất đã xảy ra, tôi sẽ mất tất cả tài sản liên quan đến gia đình lẫn danh hiệu quý tộc. Nhưng chỉ bọn công tử bột mới sợ hãi chuyện đó, tôi khác họ. Đọc mảnh giấy xong, tôi liền đặt bút ký roẹt bất chấp mọi người can ngăn. Chữ ký rõ ràng thẳng tắp cắt ngọt quan hệ giữa cha con. Ngay hôm ấy tôi thu dọn đồ đạc rồi đưa Mục Á về Hoàng Hôn Cảng. Một ngày rối bời lộn xộn, cả gia đình tôi lẫn ngôi nhà tưởng chửng đổ sụp. Tòa biệt thự, tiếng mẹ gào thét với cha, người quản gia hối hả chạy theo tôi khuyên can, những cung đường rủ tán bạch dương trĩu tuyết, ga tàu điện vắng người, đôi mắt lo lắng của Mục Á, tường thành cổ cùng những ngọn tháp pháo khổng lồ bao quanh Băng Hóa thành… mọi thứ ào ào trôi qua mắt tôi như cơn lũ trong khi máu vẫn chảy lèm nhèm nửa mặt. Ở khoảnh khắc ấy, tôi hoàn toàn không hối tiếc.
Nực cười ở chỗ sự hối tiếc chẳng bao giờ quan tâm kẻ nóng giận. Chỉ khi người ấy bình tĩnh thì sự hối tiếc mới đến hỏi thăm, nó gõ cửa rồi tự động bước vào mà chẳng quan tâm chủ nhà đồng ý hay không. Nếu được, có lẽ tôi đã không ký vào tờ giấy nhàu nhĩ đầy những con chữ nguệch ngoạc nọ. Mẹ và mẹ hai hẳn lại khóc hết nước mắt như hồi làm tang Khai Nhạn, cả thằng nhóc Khai Giã… Có lẽ thằng bé vẫn không hiểu tại sao ông nội lại đấm bác nó giữa phòng khách. Nhưng cứ nghĩ đến căn nhà rộng khủng khiếp cùng đám khách khứa cười nói như cái máy, tôi không thể chịu nổi. Từng cung bậc cảm xúc trải dưới chân tôi mà mỗi lần bước là mỗi lần thêm chông chênh, chỉ chực rơi xuống vực thẳm đầy mùi rượu bia. Có lẽ tôi đã rơi thật nếu Mục Á không ở bên. Cả ngày hôm ấy em chăm sóc tôi, băng bó vết thương hoặc ngăn tôi tìm đến quán rượu. Em không nói nhiều cũng không bảo tôi nên quay lại Băng Hóa thành nhưng đôi mắt rơm rớm suốt, đôi lần khóc thành tiếng.
Cơ mà sự đã rồi thì chẳng thể thay đổi, tôi cần cuộc sống mới. Giấy từ mặt chỉ tước đi danh hiệu quý tộc chứ không làm mất những mối quan hệ hay số dư tài khoản của tôi. Tôi không có đám bạn bè quyền lực như cha, nhưng tôi có những người sẵn sàng giúp đỡ mình lúc khó khăn và không đòi hỏi kiểu bánh ít cho đi bánh quy cho lại. Sau dăm cuộc gọi nhờ người quen, tôi tìm được một căn hộ ở Hoàng Hôn Cảng. Nó thậm chí chẳng bằng một nửa phòng ngủ ở tòa biệt thự nhưng tôi thích sự nhỏ nhắn này. Bớt chút thời gian dọn dẹp, căn hộ hiện lên với vẻ ấm cúng mà tôi hằng khao khát. Ở căn nhà nhỏ, niềm vui luôn lớn hơn và nỗi buồn sẽ thu bé lại. Mục Á cũng tới giúp tôi khi xong việc ở Cao Lầu. Em tự tay trang trí căn hộ bằng những gam màu mà em thích và dĩ nhiên không thể thiếu hoa trà. Đang mùa trà kép, căn hộ lúc nào cũng tràn đầy sắc rực rỡ, niềm vui dần quay trở lại trái tim tôi. Một tối nọ, tôi ôm Mục Á, ngắm hoa trà kép nở sắc đỏ rực giữa mưa tuyết trắng bên ngoài cửa kính. Hợp đồng của Mục Á chỉ còn tính từng ngày, tôi bắt đầu nghĩ về tương lai:
-Vậy là em không thể làm “bà Khai Y” rồi, Mục Á. Em phải chờ tôi trở thành quý tộc tự thân thôi. Mười năm, thậm chí hai mươi năm, lâu đấy!
Mục Á lặng lẽ trông chốn xa xăm vô định giữa màn đêm thành phố. Được một lát thì em ôm lấy tay tôi, từng ngón tay bấu chặt như muốn tôi, thời gian, không gian hay cả khung cảnh này dừng lại. Rồi Mục Á quay vào lòng tôi khóc rấm rứt, tôi ngạc nhiên:
-Sao vậy? Em sao thế?
-Không, chỉ là vui quá thôi! – Em cười, giọng nghèn nghẹn – Chúng ta kết hôn rồi sống ở đây nhỉ?
-Ừ! – Tôi bật cười đoạn vuốt tóc Mục Á – Tôi sẽ đến gặp ông chủ Cao Lầu và chuộc em. Từ giờ em cứ sống ở đây…
-Để sau khi anh trở về, được không? Anh trở lại làm việc, giờ lo cả chuyện của em thì cập rập lắm! – Mục Á chen ngang – Đợi anh về, lúc ấy thừa thời gian, chúng ta sắp xếp chu đáo hơn. Nhìn xem, căn hộ còn thiếu nhiều thứ lắm, mình em ở đây không lo hết được. Với cả… chuộc xong rồi, em phải chờ mấy tháng nữa mới đến lễ cưới sao? Khó chịu lắm!
-Tôi biết ghen đấy, Mục Á! – Tôi nhíu mày – Tôi muốn đưa em ra khỏi Cao Lầu càng nhanh càng tốt. Em cứ làm Hạ Nga Chi mãi, tôi đau lắm!
Mục Á cười rũ, dụi đầu vào ngực tôi rồi nài nỉ dời ngày chuộc em khỏi Cao Lầu. Nghe em nói, tôi mới thấy lắm chuyện bất cập. Hiện giờ Mục Á là người của Đông Môn Cao Lầu, không ai ở Hoàng Hôn Cảng được phép chạm vào em. Nhưng khi rời khỏi đó, tin tức một Hạ Nga Chi được giải phóng sẽ lan truyền khắp nơi và Mục Á dễ gặp nguy hiểm với lũ đàn ông háo sắc. Khéo thay Vạn Thế sắp đặt, nơi an toàn nhất là nhà tôi thì tôi chẳng thể về. Tôi định đưa Mục Á quay lại quê hương Diệp quốc nhưng em từ chối, nói rằng lúc này chưa thích hợp. Hết cách, tôi đành nghe theo Mục Á. Dù sao tôi cũng đã quen việc chờ đợi. Nghĩ ngợi vẩn vơ một lúc, tôi nói:
-Tôi để ý thành phố này có một nhà hát nhạc kịch. Em không thích mấy thứ nghệ thuật, đúng không? Nhưng thử một lần xem sao? Có một vở tên là “Trà Hoa Nữ” dựa theo câu chuyện cổ xưa, tôi nghĩ em sẽ thích.
-“Trà Hoa Nữ”… nó kể cái gì vậy? – Mục Á hỏi.
-Giống chuyện của chúng ta. – Tôi nháy mắt – Em sẽ biết thôi!
Em đồng ý, hẹn khi tôi trở về sẽ cùng xem. Mấy ngày kế tiếp, Mục Á đòi tôi ở lại căn hộ thay vì đi chơi, chừng như muốn tận hưởng sớm cuộc sống gia đình. Một đám cưới, vài vật dụng linh tinh và thêm một đứa trẻ con, nơi này sẽ trở thành “nhà” thực sự. Trước hôm tôi đi, em có tặng tôi một đóa trà kép màu đỏ rực. Tôi liền ép khô cánh hoa và đặt nó ở ngăn bìa cuốn nhật ký hành trình làm vật trang trí.
Nửa tháng sau, tôi theo chân thầy Tây Minh đến vùng đất hoang vu phía tây lục địa Hoa Thổ để giúp một tiểu quốc tái thiết sau thời kỳ chiến tranh tài nguyên. Như thường lệ, mỗi khi rảnh rỗi là tôi gọi điện cho Mục Á. Nhưng đợt này, cuộc trò chuyện giữa chúng tôi cùng lắm chỉ được năm, sáu phút, không hơn. Mục Á nói đang là cuối năm 7502, Hoàng Hôn Cảng nhiều khách gấp đôi bình thường nên em không thể trò chuyện lâu. Thực tình tôi khá khó chịu nhưng vì hạnh phúc tương lai nên tạm cho qua. Đại Bác có hỏi chuyện tôi chuộc Mục Á hay chưa, tôi trả lời thành thực. Nghe xong, gã gãi gãi chiếc cằm lún phún râu:
-Kỳ quặc nhỉ?! Sắp được ra khỏi Cao Lầu mà cô ấy không muốn? Cổ đâu phải trẻ lên ba không biết tự lo cho mình, sao phải sợ mấy thằng háo sắc? Cậu làm như cả thế giới này suy đồi lắm không bằng! Mà nếu cậu sợ thì đưa cổ về Diệp quốc. Sao? Không được á? Thế mấy ông bạn đàng hoàng của chúng ta đâu? Cậu có thể gửi Mục Á ở chỗ bọn họ, họ nợ cậu kia mà?! Thế còn tôi thì cậu để đâu? Ồ, cậu sợ “thằng ngựa giống” này đánh chén bạn gái mình à? Cậu làm tôi tổn thương đấy, hi hi hi! Được rồi, đừng làm bộ mặt đó, tôi đùa thôi! Nhưng có chắc Mục Á muốn cưới không vậy?
Có chắc Mục Á muốn cưới hay không? – Tôi lặp lại. Tuy Đại Bác không có ý xấu nhưng gã vô tình làm tôi băn khoăn. Nghĩ lại mấy cuộc gọi điện chóng vánh gần đây rồi cả thái độ khó hiểu của Mục Á khi ở căn hộ, tôi bỗng bứt rứt khôn tả. Suốt đợt đó tôi chỉ mong ngóng công việc kết thúc nhanh để mau chóng trở về. Sự nôn nóng ấy không qua được mắt thầy Tây Minh, nhưng thầy không dạy dỗ hay quở trách tôi điều gì. Cùng thời gian, mẹ gọi điện cho tôi đôi lần và có hỏi thăm Mục Á, không quên khuyên tôi trở về. Bà nói sau đợt đuổi tôi ra khỏi nhà, cha suy sụp tới nỗi bên quân đội phải ép ông nghỉ dưỡng nửa tháng. Cả ngày ông chỉ quanh quẩn với rượu, mọi việc giao hết cho người quản gia. Dù chạnh lòng nhưng bởi cái tôi quá lớn, tôi từ chối về nhà để xin cha tha thứ.
Bốn tháng làm việc kết thúc, tôi vội vã trở lại Hoàng Hôn Cảng. Đang dịp lễ hội, cả thành phố hầu như không ngủ, đêm nào cũng rực rỡ ánh đèn lẫn người qua lại. Trước lúc về căn hộ, tôi ghé qua khu chợ trời mua hoa trà làm quà cho Mục Á. Tôi không gọi điện báo trước vì muốn làm em bất ngờ. Tiền chuộc Mục Á, nơi tổ chức lễ cưới, những đồ đạc còn thiếu cho căn hộ – mọi thứ cho cuộc sống mới, tôi đều chuẩn bị đầy đủ.
Khốn thay, mọi chuyện không như tôi nghĩ. Vạn Thế vẫn thích trêu ngươi con người như vậy.
Khi nói về dự định tương lai, Mục Á luôn đề cập căn nhà sáng sủa với những bình hoa trà, em muốn tự tay chăm sóc và tô điểm chúng. Nhưng khung cảnh đang ập tới mắt tôi hoàn toàn trái ngược. Bước vào căn hộ, tôi ngửi thấy mùi ẩm thấp lẫn bụi bặm như thể lâu lắm không ai ghé thăm. Bụi khắp nơi, cuộn thành mảng trên sàn nhà hoặc đóng tầng đóng tảng ở góc phòng lẫn đồ đạc. Tấm rèm che cửa sổ vốn trắng tinh đã ngả màu nhờ nhợ, gian bếp sạch sẽ cáu cạnh cách đây mấy tháng giờ đầy mạng nhện lẫn phân chuột phân gián. Quan trọng hơn: ở đây không có hoa trà hay bất cứ sự hiện diện nào của Mục Á. Thất vọng lẫn bực bội nhảy chồm vào tâm trí rồi quậy phá lung tung viễn cảnh tươi đẹp mà tôi luôn mường tượng từ khi về đây tới lúc bước vào căn hộ. Cảm giác có chuyện không ổn, tôi liền gọi điện cho Mục Á. Hai cuộc gọi bất thành, tôi vừa lo lắng vừa tức giận. Mãi cuộc gọi thứ ba và nghe được giọng Mục Á, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Đầu dây bên kia đầy tiếng nhạc chát chúa của hộp đêm, tôi lớn giọng mấy lần, em mới nghe rõ. Tôi hẹn gặp ở nơi cũ.
Giống mấy lần trước, tôi phải chờ cả tiếng đồng hồ thì Mục Á xuất hiện. Nhưng khác ở chỗ em không còn chạy hay biểu hiện bất cứ dáng điệu gấp gáp nào như là muốn gặp tôi. Em vẫn đẹp, vẫn ngây ngất lòng người nhưng ánh mắt đã thay đổi. Từ ngày yêu tôi, mắt Mục Á luôn tràn đầy tia ấm áp và hiền dịu như vị nữ thần mang mặt trời đến thế giới này. Nhưng ngay lúc này, đang nhìn tôi là một đôi mắt sắc bén thấu triệt tâm can kẻ đối diện, hệt như lần đầu tôi gặp gỡ em ở Cao Lầu. Dù vậy tôi vẫn ôm Mục Á, em đáp lại bằng nụ cười lấy lệ:
-Anh đã về…
-Phải, tôi về rồi! Em nhớ tôi chứ?! – Tôi nói.
Mục Á ậm ừ, thái độ lạnh nhạt, có thể em giận vì tôi đi quá lâu. Tôi gãi đầu cười:
-Mà mấy tháng rồi em bận nên không ghé qua nhà hay sao? Tôi vừa ghé qua, nó bẩn quá! Được rồi, dù gì tôi cũng về, chúng ta cùng dọn dẹp nó nhé?
-Không. – Mục Á nói – Em không ghé qua không phải vì bận. Đơn giản là em chẳng muốn đến đó.
-Hả? – Tôi nhăn trán – Tại sao? Vì nó quá nhỏ? Nếu em không thích thì tôi có thể mua một căn hộ khác lớn hơn…
-Không phải nhỏ hay lớn, anh không hiểu sao, Khai Y? – Mục Á cắt ngang lời tôi – Em không còn cảm tình với nó nữa. Em không muốn sống ở đó.
Gió tuyết cắt ngang tôi và Mục Á. Một thứ vô hình gì đấy giữa chúng tôi vừa bị cắt đứt. Tôi không phải kẻ ngu ngốc mà không hiểu lời em. Định thần ít phút, tôi mở lời:
-Em nói thế tức là… chia tay? Sao vậy, Mục Á? Tôi đủ tiền chuộc em khỏi Cao Lầu, ngay hôm nay, ngay lập tức! Chuyện gì thế? Tại sao em thay đổi? Có phải cha tôi đã nói gì với em không?
Mục Á vuốt tóc, ánh nhìn lạnh băng, giọng nói lạnh lẽo:
-Không, gia đình anh không liên quan, chỉ là em thôi. Nhớ lời em không, Khai Y? Hạ Nga Chi là họa mi, họa mi biết chỗ đẹp mà đậu, biết chỗ nắng mà hót. Em không thể cưới một chàng kiếm sĩ bình thường, không có bất cứ địa vị hay quyền lực nào cả. Anh đã là người mà em mong muốn, nhưng anh tự tay đánh mất nó. Anh không còn là quý tộc nữa, thế nên…
Em nhún vai thay lời muốn nói. Cổ họng tôi nghẹn đầy tức giận, phải thở bớt mới đỡ nóng:
-Em vẫn còn lo chuyện quý tộc sao? Tôi nói rồi, chỉ cần thời gian, tôi sẽ trở thành quý tộc. Chỉ cần hai bàn tay này, tôi có thể làm mọi thứ!
-Vậy suốt thời gian đó, ai sẽ chăm sóc hai bàn tay của em? – Mục Á giơ tay – Ở Băng Thổ này, quý tộc tự thân không nhiều đâu, và không phải cứ dùng sức mạnh là đạt danh hiệu quý tộc. Em sẽ phải làm đủ thứ việc, cô đơn một mình, làm lụng một mình, cực khổ một mình. Này Khai Y, đôi tay của phụ nữ đẹp sinh ra không phải để làm những chuyện như vậy. Có một điều em đã nói dối anh: em vào Cao Lầu chẳng phải vì tổn thương tinh thần, chỉ là nếu trở thành Hạ Nga Chi, em khỏi đầu tắt mặt tối như những người phụ nữ làm việc ngoài chợ trời. Anh có thể đợi ngày mình trở thành quý tộc, em thì không.
Tôi nổi điên, răng nghiến kèn kẹt, bàn tay thu chặt thành nắm đấm:
-Em đang nói gì thế? Chẳng lẽ mọi thứ giữa chúng ta kết thúc chỉ vì một chữ “quý tộc” à?
-Và còn một việc nữa… – Mục Á cười – Thực ra em không thể trở lại Diệp quốc, ông bà ngoại biết chuyện em làm Hạ Nga Chi ở đây. Đó là việc không thể chấp nhận, họ không thể dung nạp một đứa cháu hèn hạ như vậy vào nhà. Em từng là tiểu thư ở bên Diệp quốc, nhưng giờ không còn nữa. Bởi vậy nếu kết hôn với một quý tộc, em sẽ có được địa vị như trước.
Tôi vung cú đấm vào gốc cây phía sau Mục Á, cây rung bần bật, tán lá lẫn tuyết rơi lả tả như mưa rào. Tôi gầm lên:
-ĐỪNG CÓ ĐÙA!
-Em nói rồi, Khai Y, đừng trông đợi vào tình yêu. Mỗi lần chia tay, em đều nói rằng em sẽ không quên anh bởi anh có tiền bạc và địa vị, nhớ không? Đó là những lời thật nhất, đáng tiếc anh lại không tin.
-Vậy còn những gì em làm cho gia đình tôi?
-Không khó để nhớ những kính ngữ đậm chất quý tộc, chỉ là mua đúng sách và bỏ thời gian nghiên cứu. Giờ người ta bán mọi thứ, quang tố còn bán được, huống hồ một quyển sách? – Mục Á cười – Em có trí nhớ tốt! Vả lại tốn công giúp đỡ gia đình anh cũng là cách lấy lòng mọi người. Đáng tiếc… đầu tư thất bại rồi!
Cơn giận dữ trong tôi lên đến đỉnh điểm nhưng rồi chuyển thành nỗi tuyệt vọng. Nực cười cho cuộc đời tôi luôn trốn chạy chữ “quý tộc”, giận dữ vì nó, đau khổ vì nó, và giờ đây gục ngã trước cánh cổng hạnh phúc cũng vì nó. Tôi buông tứ chi, tay thõng xuống, chân lún sâu trong tuyết. Mục Á thở dài:
-Xin lỗi Khai Y. Anh hấp dẫn, đẹp trai, nhưng chừng đó là chưa đủ với Hạ Nga Chi. Em cần nhiều hơn thế. Cứ quay lại Đông Môn Cao Lầu nếu anh đủ tiền và đủ thời gian, em sẽ trò chuyện với anh. Nhưng từ giờ tới cuối năm sau, e rằng khó đấy, em bận lắm, với cả em đang nhắm đối tượng khác. Vậy… tạm biệt nhé?!
Nói rồi Mục Á bỏ đi và không quay lại nhìn tôi một lần. Tôi bần thần đứng đó hàng tiếng đồng hồ, mãi xẩm tối mới về. Đêm đó, tôi gọi điện cho Mục Á mong tìm được cơ hội níu kéo nhưng em đã đổi số, hoặc là em đã bỏ chiếc điện thoại.
Một ngày đầu đông năm 7502, tôi và Mục Á chia tay.
Thực tình chia tay không phải thứ gì đó quá khủng khiếp, chỉ là cảm giác hẫng hụt như buộc phải từ bỏ một thói quen thường nhật nào đấy. Thay vì dùng rượu vang trước bữa ăn thì ta không được uống nữa vì lý do sức khỏe, đại khái vậy. Có chút khó chịu, có chút thèm muốn nhưng không quá nuối tiếc. Sau cuộc chia tay, tôi đến những thành phố khác, làm những thứ mà tôi đã bỏ bẵng từ lúc yêu Mục Á như uống rượu ngắm cảnh. Tôi ở Thung Lũng Tuyết Tan hẳn một tuần để trông chờ cảnh mặt trời mọc mỗi sáng. Lâu rồi mới thấy bình minh đẹp đến vậy!
Ngày qua ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ cho bản thân. Tôi chẳng còn là quý tộc, cũng không phải nhân vật nào đấy nổi tiếng, chỉ là một chiến binh bình thường không hơn không kém. Thập Kiếm đã không chọn tôi làm thành viên mới. Tôi gọi vài người bạn tới trò chuyện giải khuây nhưng tất cả đều lịch sự từ chối. Tôi bật cười, đám người đó đã biết tôi mất quyền thừa kế. Nhớ thuở trước họ liên tục mời tôi dự tiệc, lấy làm hãnh diện nếu tôi đồng ý. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi. Cứ đà này, tôi sẽ lóp ngóp dưới đáy thế giới chứ chưa đợi phấn đấu làm quý tộc, và còn đó thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt – bức tường không thể nào vượt qua. Tôi chọn bãi đất tuyết ven rừng gần Thung Lũng Tuyết Tan làm chốn luyện tập.
Một tháng qua đi, khu đất nơi tôi luyện tập gần như tan nát, không còn một cây lá kim hay tảng đá nào còn nguyên lành. Những con quái vật tàn ảnh nổi tiếng hung dữ cũng dần lánh xa khu vực này. Tàn ảnh thông minh, chúng biết sẽ gặp nguy hiểm nếu lảng vảng gần tầm mắt của tôi. Chúng biết một con quái vật mới mang tên Khai Y vừa đặt chân xuống đây. Từ bao giờ? Là từ bao giờ tôi trở thành quái vật? Tôi chợt nhận ra tất cả những hành động hay suy nghĩ của mình đều có dấu ấn “Mục Á”. Nỗi đau này không mạnh mẽ như thanh kiếm hay viên đạn xuyên lủng ngực, nó là chất độc ngấm dần xương thịt. Qua thời gian, nó lan khắp phủ tạng sau đấy tha hóa tâm trí, bấy giờ cơn đau mới phát tác toàn cơ thể. Tôi đã gọi điện về nhà và tra hỏi ngọn ngành, chẳng có tác động nào từ gia đình tôi mà Mục Á tự động chia tay. Em coi trọng địa vị hơn hết thảy. Em “đá” tôi chỉ vì nếu không có địa vị quý tộc, bàn tay thanh tú đầy đặn của em sẽ nổi vết chai sần vì lao động. Ồ, tôi quên mất, em là vũ nữ thần linh, em cần ở nơi đầy ánh đèn cho cả thế giới chiêm ngưỡng hâm mộ. Em làm đẹp để vừa lòng hàng ngàn kẻ xa lạ nhưng không chịu xấu xí cho một người yêu em.
Sự thật phũ phàng là tôi chưa bao giờ hiểu Mục Á. Sự thật đau đớn là tôi vẫn yêu em. Không phải thứ tình yêu điên dại tuổi trẻ. Không phải thứ tình yêu chiếm đoạt bản năng giống đực. Nó là câu chuyện của một gã đàn ông đặt hết niềm tin lẫn tuổi trẻ vào đó, sống vì nó, chiến đấu vì nó nhưng bị phản bội phút cuối cùng.
Có ba loại người ngây thơ nhất thế giới: trẻ lên ba, thiếu nữ mười lăm tuổi và gã đàn ông đang yêu.
Nhưng cũng có ba loại người dễ bị phản bội nhất trên thế giới: những tên bạo chúa, những ông chủ tồi và những gã trai đang yêu.
Tôi nhìn xuống bàn tay mình – thứ mà tôi luôn tự hào. Nó đã chiến đấu hàng trăm lần, giúp đỡ hàng nghìn người, để lại dấu ấn khắp thế giới Tâm Mộng. Nhưng tuyết đang phủ kín nó bằng màu trắng tinh, thứ màu trống trơn của sự khởi đầu lẫn vô định của sự kết thúc. Tôi, gã đàn ông gần ba mươi tuổi mất tất cả, không biết bắt đầu từ đâu, vô phương hướng. Không có cầu thang để tôi bước lên tương lai càng chẳng có những thềm bậc cho tôi trở lại quá khứ. Như một hệ quả, tôi trượt chân xuống vùng biển sầu khổ và tìm đến rượu bia.
Khốn khổ thay, rượu bia là thứ chất lỏng dễ hòa tan. Ở vùng biển sầu khổ mênh mông không bến bờ, chúng mất dạng giữa đợt thủy triều buồn bã ngày đêm xô vào thành vách trái tim, hoặc chìm nghỉm dưới cơn sóng giận dữ. Bóng tối cùng cơn say thúc giục tôi rời khỏi Thung Lũng Tuyết Tan. Tôi quay về Hoàng Hôn Cảng, ngày ngày đáo qua đáo lại những nơi quen thuộc như đường mòn dãy núi tuyết phía tây, khu chợ trời hay đường bờ sông lát đá cắt ngang thành phố. Đi nhiều bao nhiêu, tôi căm ghét Mục Á bấy nhiêu. Em đẹp đẽ hơn người, khí chất hơn người song tâm hồn cũng tủn mủn như bao cô gái hám vật chất địa vị. Ai có lỗi? Trách Mục Á trở mặt giả dối hay trách tôi ngây thơ quá đỗi? Tôi không biết. Chẳng tìm được câu trả lời, từng đợt sóng giận dữ chồm lên chồm xuống tâm trí tôi.
Kỳ lạ thay, lẫn lộn giữa làn sóng căm giận, tôi nhận ra vô vàn bọt nước sôi sủi mang hình bóng Mục Á. Chúng tồn tại trong chớp mắt rồi vỡ vụn, lát sau lại tập hợp và lại tan biến, cứ thế diễn ra hàng ngàn lần tạo thành vòng lặp siết thắt tâm trí tôi. Suốt quãng đường vòng quanh Hoàng Hôn Cảng, tôi đã mong em xuất hiện đâu đó trên phố hoặc sau hàng cây lá kim rủ tuyết. Tôi lờ mờ hiểu nguyên cớ song ngay lập tức phủ nhận. Tại vùng biển sầu khổ nơi mà thời gian không tồn tại, tôi lao ra ngoài khơi vật lộn những cơn sóng từ lúc chớm bình minh cho tới khi hoàng hôn che mặt sau bóng tối, từ mùa đông cắt giá da thịt tới hồi mặt trời đốt trụi xương tủy. Tôi tiều tụy, sức lực cạn sạch nhưng làn sóng giận dữ vẫn không buông tha. Tôi ngửa mặt hét lớn trước khi bị chúng nhấn chìm. Dưới đáy biển đen thẳm, tôi bỏ cuộc và chịu thừa nhận thế giới đau buồn này hình thành bởi nỗi nhớ Mục Á. Tôi nhớ em. Tôi cần em. Chỉ em mới cứu được tôi.
Đắm chìm tâm trí quá lâu, tôi bỗng giật mình khi khung cảnh xung quanh là quán rượu. Tôi không hiểu tại sao mình đến đây hay đến bằng cách nào. Đang hoàng hôn, mặt trời phả ánh đỏ quầng khắp thành phố như mời gọi tôi uống rượu để tán thưởng nó. Tôi đồng ý với mặt trời. Nhưng tôi quên rằng mặt trời hoàng hôn là bạn chí cốt của màn đêm, nó dẫn dụ tôi vào vô số ly rượu mạnh, đợi tôi gục thì để bóng tối xử lý. Trong bóng tối, mọi thứ trước mắt tôi đều lơ mơ không rõ ràng. Hình như tôi va phải ai đấy khi bước ra khỏi quán rượu, có đánh lộn, có tiếng đổ vỡ lẫn tiếng người can ngăn, có cánh tay ông chủ quán lôi tôi trở ra trước khi tôi đấm chết người. Dù gì tôi cũng không quan tâm lắm, bởi điều rõ ràng mà tôi nhìn thấy chỉ có Mục Á. Phó thác cho giận dữ dẫn đường, mặc cho nỗi nhớ nhung quặn lòng chỉ lối, tôi vô thức quay lại Đông Môn Cao Lầu. Tôi yêu cầu được gặp Mục Á nhưng gã bố mì từ chối:
-Không được, xin Múy đến hôm khác, Mục Á đã kín lịch rồi. Nhưng mong Múy thông cảm, Mục Á có nhắn với tôi rằng nếu Múy tìm đến, cô ấy sẽ không tiếp. Hạ Nga Chi có quyền từ chối, mong Múy hiểu cho.-Gọi Mục Á ra đây, tôi không nhắc lại lần nữa đâu. – Tôi gầm gừ.
Trông bộ dạng nồng nặc mùi rượu của tôi, gã bố mì nhe răng cười. Gã đặt bàn tay gân guốc lên vai tôi rồi bóp chặt:
-Múy biết chuyện gì xảy ra nếu động vào Hạ Nga Chi đấy. Bất kể Múy là ai…
Giọng nói gã bố mì đứt quãng vì tôi đã quật gã xuống sàn. Giữa tiếng hét của gái điếm Cao Lầu và tiếng bước chân rầm rập của đám bảo vệ, tôi gọi tên Mục Á. Tôi vừa gọi tên em vừa trút cơn giận dữ xuống những kẻ cản đường. Buồn cười, bọn thú hoang ở khu rừng Thung Lũng Tuyết Tan thông minh hơn con người, chúng biết hậu quả khi lảng vảng trước mặt tôi còn con người thì không. Trong chốc lát, cả tòa sảnh thành bãi chiến trường, hàng chục gã bảo vệ đổ gục dưới chân tôi, khách khứa bỏ chạy tán loạn còn tôi gào lớn:
-Mục Á! Ra đây, tôi cần nói chuyện! Em đang ở đâu? MỤC Á? MỤC Á!
Người đến đông hơn, có cả chiến binh kiếm sĩ và kiếm thuật sư. Giới kinh doanh nhan sắc có thể thuê bất cứ ai kể cả sát thủ, vậy nên họ không sợ bất kỳ loại khách hàng nào. Nhưng họ không biết có một loại khách hàng tên là Xuy Hạ Khai Y. Tôi liều lĩnh đâm đầu vào bọn họ, hết đánh người lại gọi tên Mục Á. Có chai thủy tinh đập vào đầu tôi, máu chảy ròng ròng khắp mặt nhưng tôi không quan tâm. Tôi cần Mục Á. Có súng bắn điện khiến tôi đổ gục rồi tiếp đến là cơn mưa giẫm đạp nhưng tôi càng thêm điên rồ. Tôi muốn có Mục Á ở kế bên. Bằng tay trần, bằng nắm đấm, tôi đánh gục mọi thứ cản đường mình và bước lên tầng hai Cao Lầu tìm đến phòng riêng của Mục Á. Nhưng cơ thể tôi không thể chịu quá nhiều súng bắn điện, nó dần tê cứng rồi đổ gục trước khi hứng chịu hàng trăm cú đấm. Tôi cảm nhận rõ tiếng nứt gãy xương sườn hay cơn khó thở lồng ngực. Nhưng tổn thương cơ thể chẳng còn nghĩa lý khi thế giới bên trong tôi đã thối nát. Mắt tôi mờ dần, bóng tối đưa tôi đến đây và giờ nó đánh chén, nhấm nháp tôi từng chút một.
Kể từ lần đó, tôi hoàn toàn mất liên lạc với thế giới bên ngoài. Đôi lần tôi nghe được tiếng người nhưng không rõ là ai. Mọi thứ mơ hồ và dài đằng đẵng như cả thế kỷ. Tôi chán sống, chán cả thế giới thực tại. Nhưng một ngày kia có làn hơi ấm áp tràn đến vực tôi dậy, dù không biết nó từ đâu đến nhưng tôi cảm thấy mình cần sống tiếp. Tôi cất bước, mò mẫm trong bóng tối và tìm về ánh sáng. Khi ánh sáng mờ dần, tôi nhận ra mình đang nằm trên giường với chăn gối màu trắng, xung quanh là những bức tường sạch sẽ đến gai người của bệnh viện. Bằng nỗ lực thể xác, tôi ngó quanh tìm hơi ấm đã cứu vớt mình. Nhưng câu trả lời mà Vạn Thế dành cho tôi lại không như tôi mong đợi. Thứ ấm áp đó đến từ một cô gái có vóc dáng dong dỏng cùng đôi mắt hiền hậu. Nàng là Xa Hạn Lý, không phải Mục Á. Thấy tôi mở mắt, nàng mỉm cười, đôi mắt rưng rưng:
-Anh tỉnh rồi… Khai Y… anh đã tỉnh…
Nàng vuốt ve gương mặt băng bó của tôi. Tôi đảo mắt nhìn sang, Đại Bác và thầy Tây Minh cũng có mặt. Thấy tôi tỉnh giấc, Đại Bác thở phào:
-Cuối cùng cậu cũng tỉnh! Cứ tưởng chết rồi chứ?!
Qua lời Đại Bác, tôi cũng nhận thức được những gì mình đã làm tại Đông Môn Cao Lầu. Tôi gây sự ở đó trong tình trạng say khướt, đánh gục hơn bảy mươi bảo vệ, hai mươi kiếm sĩ và kiếm thuật sư. Quá nửa sảnh Cao Lầu nát bét dưới tay tôi, và nếu không phải cha tôi dàn xếp với ông chủ Cao Lầu, mặt tôi đã chình ình khắp báo chí Hoàng Hôn Cảng. Bản thân tôi cũng chẳng vui vẻ gì khi gãy dăm ba xương sườn và vỡ đầu gối chân trái, chưa tính hàng chục mũi khâu ở đầu hay ngực. Chỉ cha tôi tường tận mọi chuyện, mẹ tôi hay mẹ hai đều chẳng hay biết gì. Tôi định hỏi Mục Á có đến hay không nhưng Hạn Lý ở đây, tôi không tiện hỏi. Nhưng tôi cũng dần quên chuyện đó. Nếu còn yêu tôi, Mục Á sẽ tới bất kể thời khắc nào. Ngay lúc này, tôi nhận thức được chuyện giữa chúng tôi hoàn toàn kết thúc.
Ai cũng phải từ bỏ một thứ gì đó trong đời. Ai cũng vậy.
Độ non nửa tháng, tôi được xuất viện. Vì không thể về nhà trong bộ dạng thế này, tôi đành quá giang qua nhà Xa Hạn Lý. Nàng muốn tự tay chăm sóc tôi. Tôi rất bối rối khi gặp lại cha mẹ nàng, chuyện hủy hôn còn đấy mà người già thì nhớ dai. Nhưng gia đình Hạn Lý đón tiếp tôi tử tế như đón khách quý, tuyệt không đả động việc tôi mất quyền thừa kế. Mỗi ngày, Hạn Lý đều giúp tôi vận động hồi sức. Tôi tự hỏi tại sao Hạn Lý làm vậy sau tất cả những gì tôi đối xử với nàng, trong khi nàng có thể cười cợt và mỉa mai tôi như bao kẻ khác?
Tôi chợt nhận ra thế giới này không chỉ có Mục Á khó hiểu. Dường như tất cả phụ nữ đều như thế.
Ba tháng sau tôi tháo băng nẹp, đôi chân bắt đầu đi lại bình thường dù phải chống nạng. Trong tay Hạn Lý, tôi dạo phố và ngửi hơi lạnh quen thuộc của xứ Băng Thổ. Xứ sở này đầy hơi nóng của máu nhưng cũng nhiều hơi ấm lòng người. Tôi bắt đầu để ý Hạn Lý nhiều hơn. Nàng cũng thích hoa nhưng không phải hoa trà, nàng thích hoa dương xỉ. Lúc bình thường, nàng điềm tĩnh chín chắn nhưng khi bối rối hay nổi giận thì đó là câu chuyện hoàn toàn khác. Nàng đáng yêu theo cách của mình. Nhưng quan trọng hơn cả là chính Hạn Lý đưa tôi ra khỏi bóng tối, không phải ai khác. Một ngày cuối tháng 12 năm 7502, tôi hỏi nàng:
-Sắp lễ năm mới, tôi phải về nhà, em đi cùng tôi chứ?
Hạn Lý đồng ý, nàng cười thật tươi. Tôi cùng nàng về nhà vào tháng 1 năm 7503. Cuộc gặp giữa tôi và mẹ khá khó khăn, bà khóc hết nước mắt sau lại chất vấn những dấu vết khâu mổ trên người tôi, cả chuyện chân cẳng tập tễnh. Gia đình Khai Nhạn cũng mừng tôi trở lại, Khai Giã cũng vậy. Thằng nhóc lớn hơn trước, bộ mặt chai lì hầu như không cười nhưng ánh mắt vẫn còn cảm xúc. Nó hỏi tôi:
-Cô Mục Á đâu? Cô ấy không về cùng bác sao?
Tôi mỉm cười đoạn xoa đầu đứa nhỏ. Khi đó tôi không trả lời Khai Giã, có nhiều chuyện mà trẻ con không bao giờ hiểu dù giải thích thế nào chăng nữa.
Song khó chịu hơn cả là đối diện với cha. Mới gần một năm mà ông già đi trông thấy. Chiến tranh chưa kết thúc, ông phải ra mặt trận thường xuyên chưa kể lo đống phiền phức dòng tộc. Sau ngày cha từ mặt tôi, cả họ Xuy Hạ liên tục gây áp lực đòi cha chọn người thừa kế quyền lãnh đạo nhưng ông luôn từ chối. Vì sự ích kỷ của tôi, cha trở nên xơ xác như cây tùng bị gió quật, thân cây vẫn vững vàng song lá đã trụi hết. Nửa ngày im lặng, cuối cùng cha đưa tôi ly rượu vang rồi cất lời:
-Anh nói đúng, Khai Y, chiến trường chẳng có chỗ cho báo thù. Ta muốn anh thừa kế dòng họ để tiếp bước nghiệp quân đội, ta đã muốn anh báo thù cho Khai Nhạn. Nhưng cái vòng luẩn quẩn thù hận luôn khiến người Băng Thổ mù quáng. Lịch sử Băng Thổ chưa bao giờ hết đẫm máu là vì thế… Cứ làm điều anh muốn, Khai Y. Phục vụ đại thánh sứ Tây Minh cũng là cách hay, đừng để người ta nhìn xứ Băng Thổ là đám dã man. Khi nào gặp lại Tây Minh, cho ta gửi lời xin lỗi.
Tôi cúi đầu xin lỗi cha vì những rắc rối mà mình gây nên. Để dọn dẹp đống hổ lốn ở Đông Môn Cao Lầu, cha phải chi hàng núi tiền, nhờ vả các mối quan hệ mới sắp xếp ổn thỏa. Nhưng cha chỉ mệt mỏi xua tay tỏ ý không bận tâm. Cha dễ giận dữ nhưng cũng dễ tha thứ. Lát sau ông nói rằng sẽ trao lại quyền thừa kế cho tôi và coi như mảnh giấy từ mặt chưa từng tồn tại nhưng tôi lắc đầu:
-Giấy đóng dấu triện rồi, giờ cha xóa đi, người trong họ sẽ bàn tán. Con sẽ tìm đường khác. Thời gian còn nhiều, đợi ngày con chứng tỏ được năng lực bản thân, cha quyết định lại cũng chưa muộn.
Cha đồng ý, ông nâng ly rượu chúc tôi may mắn. Sau nhiều sóng gió, sự yên bình đã quay lại tòa biệt thự và gia đình tôi vui vẻ đón năm mới. Cùng thời gian, sợi dây tình cảm xuất hiện kết nối tôi với Hạn Lý. Không ép buộc hay miễn cưỡng, nó xuất hiện như một điều hiển nhiên. Dù rằng hình bóng hoa trà thỉnh thoảng lẩn vẩn tâm trí tôi, dù rằng mọi người trong gia đình vẫn nhớ về một nàng Hạ Nga Chi tóc đen đầy bí ẩn nhưng cuộc sống này vẫn cứ tiếp diễn, ta phải học cách quên người mà ta từng dành trọn yêu thương hay ấn tượng. Trên đời có thể tồn tại một thứ gọi là “vĩnh cửu”, nhưng chắc chắn rằng trong sự vĩnh cửu ấy không có tình yêu.
Cuối tháng 1, tôi tạm biệt Hạn Lý rồi theo chân thầy Tây Minh làm nhiệm vụ. Theo thói quen, tôi viết nhật ký hành trình đều đặn một tháng hai lần. Vừa mở sổ, trái tim tôi khựng lại khi mỗi trang giấy đều có tranh vẽ Mục Á chưa kể cánh hoa trà ép khô ở ngăn bìa. Tôi đã yêu Mục Á như thế nhưng đáng tiếc em không hiểu cho tôi. Nỗi đau phản bội còn nguyên trong khi trái tim đã có người khác, tôi định bỏ cuốn sổ song không nỡ. Không đơn thuần là nhật ký, nó còn chứa nhiều thông tin hữu ích về vùng đất đã đi qua, đối thủ mà tôi từng đụng độ hay những tổ chức bí mật. Thành thử mỗi tối, tôi cặm cụi chép thông tin sang cuốn sổ mới, còn số phận cuốn sổ cũ thế nào thì đợi khi xong việc mới quyết định. Nếu tôi giận dữ, nó sẽ bị đốt. Còn nếu tôi bình tâm hơn, nó sẽ vĩnh viễn chôn mình đâu đó giữa thế giới rộng lớn này. Nhưng thẳm sâu cùng tận trái tim, tôi muốn giữ nó bên mình cho đến ngày xuống mồ.
Đôi khi ta giữ lại niềm đau bởi nó là hiện thân của những cảm xúc đẹp đẽ nhất, hạnh phúc nhất cuộc đời.
Có dạo thầy Tây Minh hỏi mượn cuốn sổ cũ để tìm tư liệu. Tôi hơi ngại khi thầy nhìn mấy bức vẽ, chốc chốc lại bật cười như giễu cợt quá khứ ngốc nghếch của tôi. Nhưng gương mặt thầy bỗng đanh lại khi lật trang giữa sổ nhật ký, ánh mắt dán chặt lên hình vẽ gồm các dấu ấn mang biểu tượng vòng cung lẫn dấu chấm. Thứ này luôn xuất hiện sau cổ Mục Á mỗi khi em có cảm xúc, em từng hứa sẽ kể cho tôi nguồn gốc của nó nhưng lời hứa không bao giờ thành hiện thực. Thầy Tây Minh hỏi tại sao tôi biết hình vẽ dấu ấn, tôi liền trả lời thành thực. Nghe xong, thầy thừ người ra đoạn lẩm bẩm:
-Thảo nào khi gặp cô gái đó, ta có cảm giác lạ lạ… cách đây hơn nửa thế kỷ, hồi còn là thánh sứ tập sự, ta từng gặp một phụ nữ như vậy…
Nhớ lại ngày gặp Mục Á, thầy có nhiều biểu hiện khác hẳn tính cách thường ngày, tôi bèn hỏi:
-Thầy nói gì thế? Em không hiểu, thầy nói rõ ràng hơn được không?
Thầy Tây Minh ngó hình vẽ sau đăm đăm nhìn tôi bằng ánh mắt phân vân. Ban đầu thầy định thôi nhưng tôi gặng hỏi, thầy đành trả lời:
-Nó là “dấu ấn nô lệ”. – Thầy chỉ lên hình vẽ – Chắc anh biết lịch sử Băng Thổ hình thành từ đâu chứ?
-Em có nghe cha kể chuyện. – Tôi đáp – Cha nói rằng chế độ nô lệ rất thịnh hành ở Băng Thổ thời phi cơ giới. Sau một thời gian, các nô lệ đứng lên phản kháng và giành quyền tự chủ, cuối cùng hình thành Băng Thổ như ngày nay. Nhưng “dấu ấn nô lệ” là cái gì?
-Một phép thuật xác định đẳng cấp xã hội. – Thầy Tây Minh nói – Nó gắn chặt lên đời cha mẹ, đứa con đẻ ra cũng mang theo dấu ấn này. Hầu hết dòng họ gây dựng Băng Hóa đều xuất thân từ nô lệ, họ Xuy Hạ của anh cũng vậy. Khi giành được Băng Hóa, các dòng họ tìm cách xóa bỏ “dấu ấn nô lệ”, sau nhiều thế hệ, họ đã thành công. Chỉ duy nhất một người không bao giờ xóa bỏ nó, ông ta nói rằng không được quên nguồn gốc của mình. Đó là người nô lệ nổi tiếng nhất đồng thời là nhân vật mà người Băng Hóa các anh tôn sùng nhất: Biệt Liên Đại Đế.
Tôi há hốc mồm vì không biết thầy Tây Minh lấy thông tin đó từ đâu ra. Nhấp ngụm trà, thầy tiếp tục:
-Chắc anh biết dòng họ Biệt Liên cai trị Băng Hóa suốt thời phi cơ giới và thoái vị khi bắt đầu kỷ nguyên hiện đại? Phải, họ chọn cách rút khỏi dòng chảy lịch sử. Nhưng địa vị họ Biệt Liên vẫn đặc biệt tôn quý, bởi có câu châm ngôn cổ xưa rằng “dòng máu Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn hòa bình”. Hẳn anh đã từng nghe? Vậy chắc anh cũng biết tại sao họ Biệt Liên biến mất chứ?
Tôi gật đầu. Lịch sử Băng Thổ nói chung và Băng Hóa nói riêng bi thảm hơn bất cứ đâu trên thế giới bởi hận thù chém giết, dòng họ Biệt Liên nằm trong số đó. Hơn nửa thế kỷ trước, các tướng lĩnh quân đội Băng Hóa đảo chính, họ bắt đầu chế độ độc tài bằng việc thảm sát dòng họ Biệt Liên. Tới nay người ta vẫn truyền miệng câu chuyện mười bảy thành viên họ Biệt Liên bị đám tướng lĩnh lôi ra đại sảnh hoàng cung, đủ già trẻ lớn bé nam nữ. Mười bảy sinh mạng bị trói chặt tay, quỳ thành hàng ngang, từng người từng người một đổ gục bởi phát bắn sau gáy. Họ Biệt Liên tuyệt diệt, máu nhuộm đỏ sảnh, Băng Hóa rơi vào thời kỳ đen tối nhất kỷ nguyên hiện đại. Mãi tới ngày cố hoàng đế – người mà tôi gọi là cụ ngoại – giành thắng lợi cuộc nội chiến, hòa bình mới lập lại. Nhưng kể từ thời khắc họ Biệt Liên rời khỏi thế giới, Băng Thổ hiếm dịp yên bình. Sau nội chiến Băng Hóa, đám tướng lĩnh nọ bỏ trốn về phía nam lục địa và lập ra Lực Lượng Mù Thủy chống đối Băng Hóa tận bây giờ. Khu nam lục địa chưa bao giờ ngớt tiếng súng.
-Trong vụ thảm sát đó chỉ có một người phụ nữ mang thai chạy thoát, tên là Biệt Liên Đa Xuyến. Bà ấy gặp thầy ta, nhờ thầy lưu giữ thông tin về dòng họ Biệt Liên trước khi bỏ trốn. – Thầy Tây Minh kể tiếp – Bà ấy nói không cần danh phận hay tiền bạc, chỉ cần con trai bà được sống. Ở thời điểm đó, chính trường Băng Hóa rất phức tạp, người phụ nữ họ Biệt Liên chỉ tin tưởng mỗi thầy ta. Nhưng giữa hoàn cảnh nguy hiểm, khí chất dòng họ đế vương trên người Biệt Liên Đa Xuyến vẫn không suy giảm. Nó giống hệt Mục Á…
-Nói thế… nói thế tức là…
-Người phụ nữ họ Biệt Liên chẳng nói đi đâu dù thầy của ta cố hỏi. Nhưng giờ mọi chuyện rất rõ ràng. Ta nghĩ bà ấy tới Vương Quốc Cũ, thay đổi tên họ, che giấu thân phận, sinh ra một cậu con trai tên là Mục Du Cổ. Chuyện tới đây thì cậu biết rồi. Phải, Mục Á là người cuối cùng mang dòng máu đại đế Băng Hóa quốc.
Tôi hơi khó thở. Sau cuộc nói chuyện, tôi trằn trọc suốt đêm không ngủ nổi. Tôi cá thầy Tây Minh lẫn lộn trí nhớ chuyện nọ xọ chuyện kia, dù gì thầy cũng nhiều tuổi nên dễ kể chuyện hoang đường. Vả lại tính thầy hơi tếu, đôi lúc thích trêu chọc người khác cho vui chưa biết chừng.
Nhưng nỗi tò mò thôi thúc tôi khám phá sự thật. Vừa vào đợt nghỉ phép, tôi tức tốc đến Vương Quốc Cũ. Tôi gặp vài người già cả và hỏi họ về Mục Du Cổ, họ cho biết ông ta sinh ra rồi lớn lên ở đây tới khi mẹ mất, bà mẹ tên là Mục Ngỗ Phiến. Mục Du Cổ đặt theo họ mẹ vì không có cha. Bằng cái giọng khò khè khó nghe, một bà già cao tuổi kể với tôi rằng Mục Ngỗ Phiến đến từ nơi xa xôi, luôn che đậy dung nhan bằng muội than lẫn tuyết trắng nhưng một khi lớp bẩn thỉu biến mất, bà lộ ra vẻ đẹp khác thường mà không phụ nữ nào tại xứ sở này có được. Người đàn bà ấy sống lặng lẽ, khép kín tâm tư nhưng luôn giúp đỡ mọi người nếu cần. Mục Du Cổ thừa hưởng đức tính của bà, đường tới Vương Quốc Cũ dễ dàng hơn là nhờ bàn tay ông ta.
Nhiều năm trôi qua, cư dân vùng hẻo hút này vẫn chẳng biết mẹ con Mục Du Cổ là ai. Vài câu chuyện kể trên không thể thuyết phục tôi rằng họ mang dòng máu Biệt Liên Đại Đế. Nhưng đám người già cho hay tôi không phải người đầu tiên hỏi về Mục Du Cổ; cách đây hơn một năm, vài người đến đây cũng hỏi điều tương tự, trên cổ áo đeo huy hiệu mặt trời mọc sau núi. Tôi biết rõ biểu tượng này bởi nó chính là gia huy dòng họ Xuy Hạ. Cũng hơn một năm trước, cha tôi có vài biểu hiện khác lạ khi nói về Mục Á, hồi đó ông hứa yêu thương em như con đẻ nhưng không thể cho em làm con dâu chính thức. Không thể có chuyện cả cha tôi lẫn thầy Tây Minh ngẫu nhiên hành xử như vậy. Tôi lập tức quay về Băng Hóa thành cùng hàng tá thắc mắc. Nhiều khả năng cha sẽ im lặng nếu tôi hỏi, nhưng tôi biết một người thông hiểu mọi chuyện trong nhà và quan trọng hơn là không bao giờ từ chối tôi.
-Bác quản gia, bác biết chuyện Mục Á, đúng không? Rốt cục nó là thế nào?
Câu hỏi đường đột của tôi khiến người quản gia khó xử. Bác từ chối trả lời. Nhưng khi tôi nói về chuyến hành trình tới Vương Quốc Cũ, cả câu chuyện hoang đường mà thầy Tây Minh kể, người quản gia mới thở hắt một hơi nặng nề. Bác kể ngay lần đầu tiên gặp gỡ, cha tôi cảm giác Mục Á có điều bất thường. Ông tin rằng cách nói năng đầy kính ngữ cổ xưa của em không phải luyện tập, càng không phải do học mót sách vở mà di truyền qua huyết thống. Sau khi cử người tới Vương Quốc Cũ điều tra cộng thêm những tài liệu riêng trong thư viện họ Xuy Hạ, ông xác định Mục Á chính là hậu duệ của ngài Đại Đế. Thuở xa xưa, ông tổ Xuy Hạ gần gũi ngài đại đế, hai bên trao đổi qua lại nên mọi thông tin đều xác thực. Để tăng phần chắc chắn, tôi yêu cầu người quản gia mở thư viện và tìm cuốn phả hệ họ Biệt Liên – nó là tài liệu cấm. Cuốn phả hệ cho biết trước vụ thảm sát kinh hoàng, họ Biệt Liên tổng cộng mười tám người cả thảy. Và theo tài liệu lịch sử chính thống, người duy nhất không có mặt trong vụ thảm sát là một phụ nữ tên Biệt Liên Đa Xuyến thuộc dòng máu trực hệ. Số phận Đa Xuyến đến giờ vẫn là bí ẩn, có tài liệu nói bà chết trong vụ đảo chính, lại có tài liệu khẳng định bà đã trốn thoát.
-Nhiều dòng họ góp phần vào vụ thảm sát như hỗ trợ tiền bạc cho đám đảo chính, chỉ điểm, cung cấp thông tin. – Người quản gia nói – Nhưng vì thiếu bằng chứng, cố hoàng đế hay cụ cố ngoại của cậu không thể xử lý họ. Cha cậu tin rằng đám người đó còn dây mơ rễ má với Lực Lượng Mù Thủy. Thế nên nếu cưới cậu, Mục Á sẽ bị điều tra. Cậu đâu lạ thói tọc mạch của quý tộc Băng Thổ? Nếu biết sự thật, Mục Á và cả cậu sẽ gặp nguy hiểm, cả nhà này trở thành mục tiêu cho Lực Lượng Mù Thủy. Vậy nên cha cậu sẽ “yêu thương Mục Á như con đẻ” mà không thể cho cô ấy làm con dâu chính thức là vì vậy.
Tôi bần thần không nói được câu nào, bàn tay vô thức lật cuốn phả hệ. Trang kế tiếp có hình vẽ “dấu ấn nô lệ” của họ Biệt Liên, đồng thời chỉ rõ đặc điểm loại dấu ấn này. Nó chính là thứ xuất hiện trên cổ Mục Á, không sai một li một tấc. Người quản gia tiếp lời:
-Ngày cậu bỏ nhà đi, cha cậu đã bí mật gặp Mục Á rồi hỏi sự tình. Cô ấy biết rõ thân phận của mình, bởi lẽ cha cô ấy dạy mọi thứ từ việc dùng kính ngữ, cách nói chuyện của người Băng Thổ đến cả dòng máu đế vương. Nhưng cha cô ấy cũng dặn rằng không bao giờ được về Băng Hóa, ở đây quá nguy hiểm. Nói tới đây, chắc cậu hiểu tại sao Mục Á dám liều mạng về Băng Hóa thành rồi trình diễn trước mặt hàng trăm quý tộc chứ?
Tôi vô thức nhìn hình vẽ cây phả hệ họ Biệt Liên, khung cảnh trước mắt mấy lần nhòe đi như sóng nhiễu. Tôi hỏi tiếp:
-Vậy chắc cha cháu cũng biết Mục Á từng sống ở Diệp quốc?
-Phải, cha cậu đã tới Diệp quốc và gặp ông bà ngoại Mục Á. Họ là quý tộc thượng đẳng bên Diệp quốc, họ còn sống, họ biết rõ Mục Á làm Hạ Nga Chi ở Hoàng Hôn Cảng. Họ nói sau cái chết của cha mẹ, Mục Á không còn phương hướng. Cô ấy nghĩ mình bị nguyền rủa nên từ bỏ danh phận tiểu thư, lang thang khắp nơi sau đấy tự vào Đông Môn Cao Lầu để cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài. Nhiều lần họ cố gắng khuyên nhủ nhưng Mục Á từ chối trở về. Danh phận bên Diệp quốc có tính truyền thừa giống chúng ta nên theo danh nghĩa, Mục Á vẫn là tiểu thư ở Diệp quốc.
-Nếu cô ấy trình diện trước hoàng đế Băng Hóa và công khai danh tính thật, vậy thì… – Tôi nói bâng quơ.
Người quản gia gật đầu:
-Máu họ Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn hòa bình. Xét theo luật lệ nguyên gốc, Mục Á phải ở vị trí xứng đáng nhất. Họ Biệt Liên từng có nữ hoàng, vậy nên…
Tôi bật cười. Im lặng hồi lâu, tôi hỏi người quản gia:
-Vậy Mục Á từ bỏ vì…
-Vì cậu quá cứng rắn. – Người quản gia trả lời – Mục Á biết cậu không bao giờ lấy hai người làm vợ. Cô ấy không muốn cậu rời bỏ họ Xuy Hạ, cũng không muốn cả nhà này trở thành mục tiêu của Lực Lượng Mù Thủy. Trên hết Mục Á sợ cậu gặp nguy hiểm, Mục Á sợ điều đó hơn hết thảy. Cha cậu nói với tôi rằng Mục Á nghĩ cho cậu nhiều hơn bất ai, bất cứ thứ gì…
Tôi chợt nhớ buổi đêm ở Hoàng Hôn Cảng, Mục Á ôm tay tôi chặt đến mức như sắp cào xé da thịt mình. Hẳn rằng ngày ấy em khó khăn lắm mới chọn cách cứu vãn tương lai của tôi thay vì thu vén hạnh phúc cho riêng mình. Như cha em, như người bà nội, như ngài đại đế Biệt Liên chiến đấu cho cả lục địa, em luôn nghĩ cho người khác. Mãi mãi là vậy.
Nếu trên đời tồn tại một thứ là “vĩnh cửu” thì tình yêu không nằm trong số đó, nhưng sự hy sinh và đau đớn thì có. Chúng vẫn tồn tại kể cả khi thế giới này sụp đổ, cả khi thời gian không tồn tại.
Vài ngày sau tôi cùng Hạn Lý đi xem nhạc kịch, hôm đó nhà hát công chiếu vở diễn “Trà Hoa Nữ”. Có một phân cảnh tôi nhớ nhất là nhân vật nữ chính tặng đóa trà kép cho người yêu, ngụ ý mãi mãi trân trọng tình cảm của chàng trai. Tôi chợt nhớ mình cũng có một đóa trà kép trong cuốn nhật ký hành trình. Nhớ lại đêm quậy phá ở Hoàng Hôn Cảng, tôi nhận ra vài điều bất ổn. Sau buổi chiếu, tôi hỏi Hạn Lý:
-Khi đó em không hề biết tôi đang ở Hoàng Hôn Cảng, đúng không? Đừng sợ, Hạn Lý, tôi chỉ muốn biết thôi. Là ai gọi em tới? Trả lời trung thực nhé!
Biết không thể giấu tôi mãi, Hạn Lý buộc phải kể. Dù biết rõ câu trả lời nhưng trái tim tôi vẫn đau nhói…
*
* *
Hạn Lý kể rằng ngày tôi quậy phá Đông Môn Cao Lầu, Mục Á không hề tiếp khách mà thu mình trong phòng riêng. Mục Á tránh gặp vì muốn tôi quên hẳn em, coi em như một gái điếm cơ hội chỉ biết tiền bạc. Nhưng em không thể ngồi yên mãi khi tôi bị đánh, nếu không phải em can ngăn sớm, tôi đã chết ở Cao Lầu. Em đưa tôi đến bệnh viện, gọi điện cho cha tôi thông báo tình hình rồi gọi cả ông bạn Đại Bác. Ba ngày đầu tiên, em không về làm việc mà chăm sóc cho tôi bất chấp ông chủ Cao Lầu đe dọa. Sang ngày thứ tư, em nhờ cha tôi gọi cho Hạn Lý. Cuộc gặp giữa những đàn bà tình địch luôn căng thẳng, Hạn Lý và Mục Á cũng vậy:
-Tại sao cô gọi tôi? – Hạn Lý hỏi.
-Vì tôi thỉnh cầu tiểu thư chăm sóc anh ấy. – Mục Á trả lời đoạn cúi người.
Tại thời điểm đó, Hạn Lý vẫn giận tôi vì chuyện hủy hôn. Nàng xẵng giọng:
-Tại sao tôi làm phải vậy? Tại sao tôi phải nghe lời cô?
-Vì tiểu thư vẫn yêu Khai Y, nếu không tiểu thư đã chẳng đến đây. – Mục Á nói – Tôi không thể đồng hành với Khai Y nữa, tôi không xứng với Khai Y, chỉ có tiểu thư thích hợp nhất. Từ nay về sau mong tiểu thư chăm sóc anh ấy. Nếu còn yêu Khai Y, tiểu thư hãy chiến đấu cho tình yêu đó. Tiểu thư còn nhớ lời tôi không? Đàn ông đã thống trị thế giới bằng máu của họ, chỉ còn sót mỗi tình yêu, chúng ta phải chiến đấu giành giật nó, đừng để họ làm nốt.
-Tôi có nghe chuyện giữa cô và Khai Y. Chẳng phải cô bỏ Khai Y vì anh ấy mất quyền thừa kế? – Hạn Lý nói – Vậy thế này là sao?
Mục Á cười tươi:
-Chỉ kẻ ngu ngốc mới nghĩ chuyện thừa kế ảnh hưởng đến Khai Y. Anh ấy sẽ là người đàn ông vĩ đại, sẽ làm được nhiều điều lớn lao mà chẳng cần gia sản hay danh phận quý tộc. Nhưng Khai Y không thể vĩ đại nếu tôi còn ở bên anh ấy, tôi chỉ là gánh nặng làm con chim ưng mỏi cánh. Tiểu thư khác, tiểu thư có thể làm con chim ưng đó bay xa hơn thế.
Hạn Lý nhìn em hồi lâu rồi hỏi:
-Biết như vậy mà cô vẫn buông bỏ Khai Y?
Hạn Lý nói rằng nàng không thể quên những gì diễn ra sau đó. Trước mắt nàng, Mục Á ôm chặt khuôn mặt mà chẳng thể nào ngăn được dòng nước mắt chảy qua kẽ ngón tay như thác tuôn qua vách đá, chảy mờ gò má đỏ hồng giữa ngày đầu đông như sông dâng nước tràn bờ. Rồi Mục Á tự đấm ngực liên hồi, giọng lạc đi:
-Đau lắm, nhưng phải thế thôi… tôi đau lắm… nhưng đành phải thế…
*
* *
Nghe xong chuyện, tôi không hỏi thêm nữa mà đưa Hạn Lý về nhà. Trên đường về, tôi nắm chặt tay nàng rồi lảng chuyện khác. Tôi không muốn nàng thấy những mảnh nứt vỡ đầy yếu đuối trong tâm hồn mình. Ít ngày sau, tôi nói với nàng mình cần đến Hoàng Hôn Cảng. Trông vẻ mặt Hạn Lý hiện nét sợ sệt, tôi bèn ôm lấy nàng rồi hôn lên trán như một cách trấn an. Tôi hứa sẽ về sớm. Sau nhiều đấu tranh nội tâm, Hạn Lý đồng ý để tôi đi.
Tôi trở lại Hoàng Hôn Cảng vào tháng 6. Đang đợt hè, nắng ấm, tuyết chậm rãi phủ không gian gợi chuyện cũ. Như một thói quen cố hữu, tôi dạo bước trên những cung đường quen thuộc. Có chút buồn, có nhung nhớ nhưng không còn giận dữ hay đau đớn như cách đây một năm. Bằng cách nào đó mà thế giới mục ruỗng bên trong tôi đã lành lặn, một tay Mục Á gây dựng thế giới đó và cũng một tay em chữa lành cho nó. Nhưng tôi tự hỏi ai sẽ cứu giúp thế giới bên trong em?
Tôi không đến Cao Lầu mà quan sát khu chợ trời, trực giác mách bảo tôi Mục Á sẽ xuất hiện. Tôi đoán không lầm. Dăm ngày sau, tôi nhận ra mái tóc đen xõa dài của em lang thang quanh cửa hàng hoa, dĩ nhiên là hoa trà. Em vẫn đẹp, vẫn vóc dáng cao gầy cùng đôi mắt sắc tỏa ánh trăng đêm, nhưng ánh mắt em buồn bã ưu tư khiến những đóa trà gần đấy vì vậy mà hon héo. Bỗng Mục Á quay lại và giật thót khi nhận ra tôi đứng sau lưng em từ lúc nào. Em hoảng hốt:
-Khai Y… sao anh ở đây?
-Tôi đến lâu rồi. Em đi cùng tôi nhé?!
Tôi ngoảnh đầu về hướng tây. Mục Á trả lời bằng đôi mắt lạnh lẽo, hệt như ngày em nói chia tay:
-Không, em đang bận. Em nói rồi, Khai Y, em bận lắm!
-Em biết không tự dưng tôi đến đây. – Tôi nói – Đi với tôi, có lẽ đây là lần cuối đấy.
Dứt lời, tôi cất bước. Mục Á nghĩ ngợi đôi chút rồi bước theo, ánh mắt băng giá dần tan chảy. Chúng tôi rời khu chợ trời rồi lang thang quanh bờ sông. Suốt quãng đường đó, chúng tôi hoàn toàn im lặng như hai người xa lạ vô tình bước chung một lối. Mãi khi bước lên dãy núi tuyết phía tây, tôi mới mở lời. Tôi kể cho em mọi điều mình nghe từ thầy Tây Minh, người quản gia và Hạn Lý. Mục Á không xác nhận bất cứ câu hỏi nào của tôi mà mải miết che đậy những sầu khổ trong lòng. Nhưng cố gắng bao nhiêu, em vụng về bấy nhiêu. Em cố gắng cười lạnh nhạt nhưng bàn tay bóp chặt lẫn nhau, em cố nói lời xa cách mà hàm răng cắn môi đau đớn, em cố tỏ ra đã quên tôi mà cánh mũi phập phồng hơi thở thổn thức. Tôi cười sự vụng về của Mục Á, mà cũng đau xót cho em.
-Tôi sẽ cưới Hạn Lý. – Tôi nói với Mục Á – Cô ấy chịu đựng nhiều vì tôi. Tôi yêu cô ấy.
-Tốt cho anh thôi. – Mục Á trả lời – Chúc hai người hạnh phúc.
-Thế còn em? – Tôi hỏi – Em tính sau này thế nào?
Bàn tay Mục Á bóp chặt nhau đến đỏ lựng, em toan trả lời mà không nổi. Giữa tuyết ươm mùi hoàng hôn ấm áp tháng 6, Mục Á rúm người lại, trông nhỏ bé vô cùng. Thế giới đầy hạnh phúc mà chỉ mình em lạnh buốt. Tôi hỏi:
-Ở bên tôi, em hạnh phúc không?
Mục Á ngoảnh mặt không đáp. Tôi rờ mái tóc Mục Á, em vội vàng lùi bước, mặt mũi đỏ lựng:
-Bỏ ra, Khai Y. Anh có người khác rồi, đừng lại đây! Em hét lên đấy!
Bất chấp những lời phản đối hay đe dọa, tôi vẫn tiến tới, dồn Mục Á vào gốc cây rồi ôm lấy em. Em đấm rồi tát tôi mấy lần, nhưng bàn tay em yếu dần, cho tới khi nó luồn qua mái tóc màu hổ phách và run rẩy từng cơn nức nở. Mục Á hết khóc lại cười, bàn tay thanh tú rờ những ngón đầy đặn quanh gương mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ mạch xung động của trái tim Mục Á đập liên hồi trên đầu ngón tay, ngửi được hơi thở khao khát tìm kiếm hạnh phúc tuôn ra từ khuôn miệng tô son đỏ, thấy cả thế giới đầy mảnh chắp vá trong lòng em. Nhưng bằng nỗ lực tột cùng, em gỡ tay tôi rồi khoác lên mình tấm áo xa cách. Lúc này tôi biết mình không thể đụng chạm em nữa, tôi nói:
-Em nên về Băng Hóa thành. Máu họ Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn yên bình. Em không thể ở bên ngoài làm Hạ Nga Chi mãi được.
-Họ Biệt Liên không còn liên quan đến lịch sử nữa. – Mục Á trả lời – Cha em nói vai trò của họ Biệt Liên đã chấm dứt. Cha anh cũng đề nghị như thế nhưng em đã từ chối. Sau này đừng tìm em nữa, hứa nhé?! Nếu còn tình cảm cho em, nếu còn nghĩ cho em, anh phải hứa!
Tôi nhận ra tình yêu mà Mục Á dành cho tôi lớn đến mức em dám đối xử tàn nhẫn với bản thân. Tôi nhắm mắt gật đầu, em cười tươi. Thở dài một chặp, tôi hỏi:
-Tôi mãi mãi không thể gặp em hay sao?
-Người Đông Thổ tin rằng thế giới này chỉ là một trong nhiều thế giới, kiếp sống này chỉ là một trong nhiều kiếp sống khác nhau.
-Vậy…
-Hẹn anh ngày khác, thế giới khác, thời gian khác. – Mục Á mỉm cười – Cảm ơn anh, cảm ơn rất nhiều. Bay thật xa nhé, Khai Y!
Dứt lời, Mục Á cúi thấp lưng rồi từ biệt tôi. Tôi vẫn nhớ ngày đó em không quay đầu nhìn lại nhưng bóng dáng liêu xiêu như sắp ngã xuống tuyết. Dù vậy tôi không níu kéo hay gọi tên Mục Á. Em đối xử với tôi bằng thứ tình yêu lớn lao nhất mà người phụ nữ có thể làm, tôi không thể phụ công sức của em.
Có những thứ yêu thương lớn đến mức không thể nói thành lời.
Nửa năm sau, tôi kết hôn với Hạn Lý. Chúng tôi có hai nhóc tỳ, một trai một gái, cô con gái hiền hậu giống Hạn Lý còn ông con trai bướng bỉnh y hệt tôi. Tôi tiếp tục công việc hộ vệ thánh sứ cho tới ngày thầy Tây Minh nghỉ hưu, một tiểu quốc ở Thượng Cổ phong tôi làm quốc vụ khanh danh dự vì giúp họ giải quyết nội chiến. Hai đứa con tôi đòi đến đó vì ở đấy người ta có dựng tượng tôi bên cạnh thầy Tây Minh, cơ mà tôi không thích lắm vì bức tượng hào nhoáng quá thể và phi thực. Gã nào đó đã gắn lên bức tượng một đôi cánh to phự như cánh đại bàng, mà thực tế đó là chiếc diều bay tôi mượn từ Đại Bác lúc làm nhiệm vụ. Kể từ đó người ta hay gọi tôi là “Ưng Tuyết Khai Y”. Về phần Đại Bác, gã tiếp quản Đại Lộ Đỏ, tật xấu hám gái vẫn vậy, chỉ duy một chuyện khác biệt là gã gia nhập Bảy Người Mạnh Nhất. Cơ mà Đại Bác có vẻ không quan tâm lắm. Suốt năm tháng ấy, tôi vẫn mang theo cuốn nhật ký hành trình đựng cánh hoa trà kép ép khô dù nó chẳng còn chỗ mà viết.
Tôi gia nhập quân đội Băng Hóa và trở thành thủ lĩnh quân viễn chinh, giống vị trí mà Khai Nhạn từng đảm nhiệm. Đôi lúc Hạn Lý giận tôi vì xa nhà quá nhiều, cũng có đợt chúng tôi cãi nhau vì mấy chuyện bất hòa không đáng có. Nhưng sau rốt tôi làm lành với nàng, dù sao nàng cũng thiệt thòi hơn tôi. Dăm năm sau, cha tôi bị thương trong một vụ ám sát hụt, các vệ sĩ kể rằng tên sát thủ nọ có mái tóc màu đỏ và biết dùng bí kỹ điều khiển gió giống hệt tôi. Nói về bí kỹ điều khiển gió, tôi lại nhớ thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt. Khi ấy ông ta là kẻ mạnh nhất thế giới, tôi tái ngộ ông ta ở Băng Thổ, đánh một trận từ nửa đêm đến tảng sáng. Tôi thừa nhận mình vẫn yếu hơn nhưng không đến mức thua thiệt giống thuở trước. Cuối cuộc chiến, người đó mời tôi điếu thuốc và bia chai. Một người thú vị. Vì trận chiến này, chợ rác Uất Hận Thành gửi thư đề nghị tôi gia nhập Bảy Người Mạnh Nhất nhưng noi theo thầy Tây Minh, tôi từ chối. Thi thoảng mọi người lại nhắc về Khai Nhạn, nỗi đau vẫn còn đó nhưng không ai khóc. Độ ấy nhiều chuyện, tôi hầu như quên bẵng hoa trà.
Tôi bước lên vị trí đại thống lĩnh quân đội Băng Hóa, đồng thời tiếp quản dòng họ Xuy Hạ thay cha. Ông đã già, cũng chẳng còn ham thích chính trị hay quân sự. Tôi dần quen việc cười nói như cái máy để thỏa lòng đám họ hàng phiền phức hay lừa phỉnh đám chính trị gia. Thằng nhóc Khai Giã bé cỏn con ngày nào giờ cao ngang tôi, lúc nào nó cũng mang bộ mặt lạnh giá. Không lạ khi Khai Giã trở thành thánh sứ mạnh nhất Băng Hóa bởi nó tàn nhẫn hơn bất cứ ai. Đôi lúc Khai Giã hỏi tôi về Mục Á nhưng tôi không trả lời. Mục Á là sợi dây duy nhất liên kết tôi và Khai Giã. Năm tháng đó, tôi bắt đầu hoài niệm chuyện cũ. Tôi tự hỏi Mục Á đã đi đâu hay làm gì? Tôi cử người hỏi Đông Môn Cao Lầu, tin báo rằng em rời khỏi đấy từ năm 7506, không rõ đi đâu. Tôi muốn tìm em nhưng vì lời hứa năm xưa, tôi đành dằn lòng mình.
Nhưng thế giới Tâm Mộng chưa bao giờ hết tàn nhẫn. Liên minh tại lục địa Băng Thổ tan rã, các hiệp ước trở thành giấy vụn, vị thế Băng Hóa bị lung lay hơn bao giờ hết. Vị hoàng đế Băng Hóa mới không được thông tuệ như người bác ruột của tôi, ông ta phát ngôn đao to búa lớn nhưng chẳng làm được bao nhiêu. Khai Giã ngày càng khó kiểm soát, nó phá hỏng nỗ lực hàn gắn liên minh của tôi, tự mình bước lên ngôi vị Tổng Lãnh Thánh Sứ. Chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành diễn ra và tôi bàng hoàng khi biết thầy Tây Minh đã ra đi. Nhưng tôi chỉ kịp gửi hoa qua Đại Bác, chuyện nội bộ Băng Hóa quốc làm tôi không thể dự tang thầy. Cùng năm đó, cha tôi mất vì bệnh lẫn thương tật từ vụ ám sát. Trước lúc nhắm mắt, cha bảo tôi phải tìm “Mục Á”. Vốn không tin vào số phận nhưng ở tình thế rối ren hiện tại, tôi bắt đầu tin vào điều huyền bí.
Năm 7518, mười lăm năm sau ngày chia tay Mục Á, tôi vẫn nhớ về em. Tôi đoán em vẫn đẹp, vẫn kiêu sa mê hồn người. Lúc rảnh rỗi, tôi thường trông về phía đông nơi Đồng Gió thét gào, lẩm nhẩm lại lời bài hát mà Mục Á từng ca vũ tại dạ tiệc. Nhưng nỗi nhớ em không làm tôi buông xuôi, ngược lại càng khiến tôi thêm gắn bó người vợ và gia đình mình. Bởi lẽ cuộc sống hiện tại của tôi đều do Mục Á sắp đặt.
Có những tình yêu lớn lao đến độ ta trân trọng thay vì mong muốn chiếm đoạt nó.
Một ngày đầu năm 7518, người quản gia bước vào phòng tôi. Tuy già nhưng bác vẫn quán xuyến mọi công việc gia đình. Bác nói có một người tóc đỏ xin gặp tôi, cậu ta biết về Mục Á. Tôi nhớ ngày dạ tiệc, Mục Á mặc chiếc váy đỏ. Ngày chia tay, em tặng tôi một đóa trà kép đỏ. Còn giờ đây, em xuất hiện qua một người có mái tóc đỏ. Dường như số phận đang xoay những vòng lặp kỳ lạ của riêng nó. Tôi mở cuốn nhật ký hành trình năm nào và ngắm nghía bông trà kép khô ở trang bìa. Mười lăm năm, nó vẫn tươi tắn tuyệt đẹp. Rượu còn nhiều, tôi còn muốn kể cho các vị nhiều lắm! Ha ha! Nhưng xin lỗi các vị, tôi phải gặp anh chàng nọ. Để khách chờ lâu là không tốt.
Hôm tang lễ Khai Nhạn, mặt trời ló đầu qua mây hé tia ấm áp còn tuyết mơn man lạnh – quá đẹp cho một cuộc hẹn hò nhưng quá nhẫn tâm cho một cái chết. Giữa làn khói nồng gắt mùi thảo dược bốc ra từ chiếc lư hương đeo dây xích trên tay vị thánh sứ và lời cầu nguyện của ông ta, quan tài Khai Nhạn dần hạ huyệt mang theo trảng nắng vàng vọt ban trưa, bụi tuyết lơ thơ lẫn tiếng nức nở từ mẹ hai. Lần đầu tiên tôi thấy mẹ mình gần mẹ hai đến vậy. Hai người đàn bà luôn né tránh nhau suốt ba mươi năm giờ cùng khóc, cùng chung nỗi đau mất con. Tôi vẫn nhớ mẹ mình luôn vuốt tóc và hôn lên trán Khai Nhạn mỗi khi cậu về nhà, ở mặt nào đó mẹ yêu thương cậu hơn đứa con đẻ ngỗ ngược như tôi. Ngày ấy, vợ Khai Nhạn khóc ngất mấy lần còn con trai cậu vô cảm trong vòng tay tôi, thằng bé Khai Giã đang cứng rắn quá mức. Tôi dự cảm nếu không ở bên Khai Giã thường xuyên, đứa nhỏ sẽ trở thành khối băng vĩnh cửu, mãi mãi không thể tan dưới ánh mặt trời.
Người tham dự hôm ấy khá đông, một phần vì bạn bè lẫn đồng đội Khai Nhạn, phần khác là những con người muốn thấy viễn cảnh sau đám tang. Gia đình tôi thuộc chi trưởng họ Xuy Hạ, một lúc nào đấy tôi hoặc Khai Nhạn sẽ nắm quyền lãnh đạo dòng họ, dù mang thân phận con hoang song Khai Nhạn vẫn đầy đủ quyền thừa kế. Nhưng hiện người ta có thể chắc chắn rằng tôi sẽ tiếp quản cái ghế trưởng tộc trong tương lai gần. Quan tài yên vị, dòng người nối chân nhau bước quanh huyệt rồi thay phiên ném những cành Khúc Hối – một loại hoa nở ba bông trên một cành, mỗi bông hai tầng cánh màu huyết dụ – lên quan tài. Hoa lấp tuyết lấp nắng, lấp tấm kính che đi gương mặt Khai Nhạn như máu đổ, như đàn ông Băng Thổ chết nơi sa trường. Xong nghĩa vụ bày tỏ thương tiếc, đám người bắt đầu xì xầm về tôi. Cha tôi thường đảm nhận vai chính mỗi dịp tang gia nhưng hôm nay ông vắng mặt, chiến trường đang cần ông nên tôi bất đắc dĩ thế chỗ. Từng cá nhân rồi từng nhóm bắt đầu tiến về phía tôi, chìa tay cùng một nụ cười nhẹ “Thiếu gia Khai Y, tôi là…”. Họ, quý tộc, thương gia giàu có, tướng lĩnh quân đội, tiểu thư quyền quý… tất cả đều muốn tôi nhớ mình. Khung cảnh tang gia quen thuộc tái diễn, tôi phát điên và muốn đấm vỡ mặt từng kẻ bất kể đàn ông hay đàn bà. Điều duy nhất ngăn tôi làm vậy là Mục Á, em đứng phía xa, nép mình dưới tán cây bạch dương cùng ánh mắt luôn trông chừng tôi. Em sợ tôi phá hỏng tang lễ.
Rốt cục ngày đó chẳng có chuyện gì xảy ra. Sau lễ tang, gia đình tôi cùng về ăn tối. Nhưng sắp xếp hậu sự chu toàn cho Khai Nhạn chưa phải đã yên, một căn nhà với những người đàn bà buồn khổ mới là vấn đề. Bữa tối đầy lời than tiếng khóc, tôi nuốt không trôi. Những lời an ủi chỉ như liều thuốc giảm đau hiệu nghiệm trong ít phút để đánh lừa bộ não mà cơn đau vẫn ở nguyên đó. Tôi bắt đầu trách cứ ngôi nhà nơi mình sinh ra và lớn lên. Giá như nó bé như bao căn nhà truyền thống của người Băng Hóa với lò sưởi, bàn gỗ cho gia đình quây quần và những tấm thảm ấm áp lót sàn gỗ, hẳn không khí gia đình đã bớt tang tóc. Đằng này nó bề thế như một cung điện, nỗi buồn thảm được thể xô vào những cửa phòng mạ đồng, lan trên cầu thang khảm ngọc rồi tràn xuống phòng khách nguy nga cổ vật. Nó lênh láng khắp tòa biệt thự, bì bõm trên mặt sàn, ủng ùng ục dưới chân các cột trụ chống trần. Bất chấp tôi động viên khuyên nhủ, vợ Khai Nhạn không thôi thương nhớ người chồng và bỏ bữa suốt ngày hôm sau. Khai Giã chẳng nghe lời tôi nữa, rồi mẹ tôi, mẹ hai, họ không buồn trò chuyện dù tôi cố gợi. Rốt cục sự giàu sang chỉ cứu được khốn khổ thể xác chứ không cứu được khốn khổ tinh thần.
Mọi sự cứ vậy bốn ngày liền chưa kể mấy bận thành viên họ hàng qua hỏi thăm, người thực lòng, kẻ dò xét. Tôi phát chán ngôi nhà mà không thể bỏ đi. Nếu cha ở đây, cha sẽ làm gì? Ngày ông nội tôi bị ám sát, cha làm thế nào để giữ yên gia đình? Ngoài kia tôi là chiến binh tài năng, ở đây tôi chỉ là thằng nhóc Khai Y lóng ngóng việc nhà. Nếu không nhờ người quản gia sắp xếp công việc, tôi đã gục xuống từ lâu. Mệt mỏi lẫn chán chường, tôi tìm đến rượu và khói thuốc. Mục Á thì không muốn tôi trượt dài trong những chất kích thích. Em ôm vai tôi khuyên nhủ:
-Nhà chỉ còn đàn bà trẻ con, anh phải cứng rắn lên, Khai Y. Mẹ anh, mẹ hai, vợ con Khai Nhạn đang dựa vào anh đấy!
-Biết sao đây? – Tôi bóp trán – Mẹ hai khóc suốt, vợ Khai Nhạn nữa. Hình như Khai Giã ghét tôi rồi, thằng bé nghĩ tôi không có mặt đúng lúc để cứu cha nó. Tôi bất lực quá! Em bảo tôi phải làm gì đây, Mục Á?
Mục Á cười:
-Khai Giã không ghét anh, không ai ghét anh cả. Đừng tự trách mình. Vấn đề là anh không chỉ sống với nỗi đau của mình, anh phải học cách sống với đau đớn của người khác. Chúng sẽ vĩnh viễn ở cùng ngôi nhà này, anh không thể làm khác.
-Vĩnh viễn? Vậy phải làm sao? An ủi họ? An ủi làm gì khi nỗi đau là vĩnh viễn?
-Nhưng anh vẫn phải làm, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác cho tới hết đời. Anh cần làm quen với nó.
Tôi ôm đầu còn Mục Á ôm lấy tôi vỗ về. Được một lát, em nhỏ giọng:
-Hai tháng nữa em mới phải về Cao Lầu, còn nhiều thời gian, em sẽ giúp anh. Cơ mà đừng uống rượu, được chứ?
Tôi gật gật rồi ôm Mục Á ngủ trên sô-pha dù không chắc em sẽ giúp thế nào. Nhưng tôi thừa nhận Mục Á hiểu nỗi đau hơn mình vì em đã sống với nó quá lâu, gần như là quen thuộc.
Hôm sau tôi nhận ra Mục Á không ở bên mình. Em dậy từ sớm và xin phép mẹ tôi chuẩn bị bữa sáng. Dưới bàn tay Mục Á, bữa sáng hôm đó lạ mắt và đầy màu sắc thay vì những món ăn đơn điệu từ nền ẩm thực nghèo nàn của Băng Thổ. Khí hậu Diệp quốc ôn hòa nên người xứ ấy dùng nhiều gia vị, thức ăn vì thế đậm đà hơn trong khi người Băng Thổ quen ăn nhạt. Nhưng ở chừng mực nào đó, nó làm cổ họng của người đau buồn đương lạt lẽo khô khốc bỗng chốc có sinh khí. Mọi người hỏi chuyện Mục Á, em cười tươi, trả lời thành thực rồi gợi ý những người đàn bà trong gia đình cùng chuẩn bị bữa trưa. Mọi người nghe theo em. Sau chuỗi ngày im lìm như bãi nghĩa trang, ngôi nhà xuất hiện tiếng nói dưới khu bếp, nỗi đau mất mát nhường chỗ cho đồ ăn cùng mấy chuyện phiếm kiểu phụ nữ, nỗi buồn khổ ảm đạm tạm rút khỏi mẹ hai lẫn vợ Khai Nhạn. Tôi bớt bận tâm về hai người.
Nhưng vẫn còn đó Khai Giã. Thằng bé ngày càng ương bướng. Nó liên tục bỏ bữa, cả ngày tha thẩn với đám chim chóc chó mèo ở khu vườn sau nhà. Mọi người hết nói nổi Khai Giã, mẹ nó quát tháo thì may ra. Chẳng ai muốn nặng lời với đứa nhỏ mất cha nhưng cũng chẳng ai tìm được cách dỗ dành. Biết tôi phiền lòng với Khai Giã, Mục Á bèn nhận trông nom nó. Không nhắc nhở cũng không khuyên nhủ, Mục Á làm bạn cùng thằng bé, hết đắp người tuyết lại trốn trong chiếc lều mà thằng bé gọi là “căn cứ”. Dĩ nhiên Khai Giã không thích, thậm chí to tiếng nhưng Mục Á chỉ cười và kiên nhẫn chờ đứa nhỏ chấp nhận mình là một “phần tử” trong trò chơi phiêu lưu quanh khu vườn. Rốt cục Khai Giã phải chịu, nó thà ở đây với người xa lạ còn hơn trở vào nhà. Thay vì nhọc công lôi kéo Khai Giã vào bữa như mẹ nó thường làm, Mục Á mang đồ ăn tới rồi cùng thằng nhỏ ăn trong cái lều “căn cứ” nọ, cười đùa đủ thứ chuyện linh tinh kiểu trẻ con. Tôi nể Mục Á, nếu là tôi thì chắc không chịu nổi quá hai ngày.
Độ non một tuần, tôi ngạc nhiên khi thấy Mục Á dắt thằng bé dạo phố, bằng một cách thần kỳ nào đó mà đứa nhỏ chịu để em bồng bế. Có vẻ Khai Giã quấn em. Sau đấy không lâu, Khai Giã cũng chịu vào nhà và xin lỗi mọi người. Nó vẫn không cười nhưng ít nhất đã biết nghe lời. Tôi hỏi chuyện Mục Á, em thở dài:
-Ngôi nhà đầy kỷ vật của Khai Nhạn, mọi người đều nói về cậu ấy trong nước mắt, anh nghĩ thằng bé chịu nổi không? Ngoài kia khác… – Em ngoảnh đầu về khu vườn phía sau nhà – …ở đấy toàn trò chơi vui vẻ, nó không vào nhà cũng phải.
-Em hiểu trẻ con nhỉ? – Tôi nói.
-Vì em cũng từng như thế sau đợt mẹ mất. – Mục Á thở dài – Em thường loanh quanh con sông gần nhà vì mẹ hay đi qua đấy. Cha dỗ dành nhiều lắm em mới chịu thôi.
Tôi mỉm cười. Nỗi đau sẽ lưu trú nơi đây vĩnh viễn nhưng chúng tôi bắt đầu chấp nhận nó như một thành viên gia đình. Tôi ôm lấy Mục Á thay lời cảm ơn. Em vuốt tóc vỗ về tôi “Được rồi Khai Y, khách đang tới kìa. Đừng để họ chờ.”. Có Mục Á ở đây, căn nhà lạnh lẽo này dần chấp nhận một cuộc sống không có Khai Nhạn.
Tạm yên chuyện gia đình, tâm trí tôi có chỗ trống để lo đám họ hàng phiền phức. Nhiều năm lưu lạc nên tôi chẳng rõ ai chú ai bác ai cô ai dì, ấy thực là cái tội cho đám họ hàng chì chiết. Chì chiết chán, họ ưỡn ngực cao giọng khuyên tôi phải gia nhập quân đội để rửa hận cho em trai như người họ Xuy Hạ đích thực. Nực cười ở chỗ mấy lời lẽ thống thiết đó lại tuôn ra từ miệng những kẻ thường coi khinh Khai Nhạn – mẹ tôi kể rằng họ luôn thì thầm gọi cậu là “con hoang”. Chẳng có thứ báo thù nào trong chiến tranh, họ chỉ muốn ngôi nhà này nhận thêm một chiếc quan tài nữa. Dù vậy tôi không muốn sinh sự lúc tang gia.
Nhưng có mấy thứ trên đời luôn quá đà: một là xe mất phanh, hai là những buổi nhậu nhẹt và ba là lời lẽ của đám họ hàng. Bao nhiêu người đến, bấy nhiêu người thọc mạch chuyện tôi yêu một Hạ Nga Chi, thậm chí họ không thèm gọi chữ “Hạ Nga Chi” hay “Hattabi”. “Yêu gái điếm thật sao, Khai Y? Cha con giống nhau vậy?” – Họ nói thế cùng cái vênh vênh cong cong khinh thường nơi khóe miệng. Cũng chừng ấy lần tôi kết thúc cuộc gặp theo cùng một lối:
-Vấn đề Khai Nhạn, quân đội sẽ lo, chiến trường không phải chỗ báo thù. Còn sống thế nào thì tự chúng tôi sắp xếp, không mượn mấy người quan tâm. Nếu đã hết chuyện thì xin mời về!
Đám họ hàng phát điên trước cái cách tôi tống tiễn họ, cãi vã nảy sinh, mỗi ngày dăm ba vụ lùm xùm. Đỉnh điểm là một tối nọ, tôi đấm lệch hàm người anh họ khi gã lẩm bẩm “Cha con giống nhau, đều lấy điếm làm vợ!”. Xui cho người anh họ là giọng gã hơi to, tôi nghe được hết. Đáng lẽ gã đã bệt xê lết trong bệnh viện nếu Mục Á không ngăn tôi lại. Dù không rõ ràng nhưng Mục Á cũng phong phanh hiểu tại sao tôi làm thế. Tôi liền trấn an Mục Á, khẳng định sẽ cưới và yêu em đến hết đời. Em cười thật tươi, nhưng đâu đó trong ánh mắt em có tia lo nghĩ.
Tang lễ Khai Nhạn được ba tuần thì cha tôi trở về. Ông tới nghĩa trang cùng bó hoa, cung cách giống chuyến viếng thăm của người xa lạ hơn một ông bố tiếc thương cho đứa con xấu số. Gương mặt sắt đá, ánh mắt cứng rắn, cha tôi là thế. Ngày ông nội mất, cha cũng như vậy, không chút đổi khác. Bởi cha quá tôn thờ tính cách mạnh mẽ kiểu Băng Thổ nên mọi sự xung quanh ông bị bê tông hóa từ đám vệ sĩ đến vật vô tri vô giác. Ví như khi ông ở nhà thì cả tòa biệt thự sẽ biến thành lô cốt, nên tôi lắm lúc khó chịu với ông. Lần này cũng vậy. Không thèm hỏi han chuyện gia đình và mặc định rằng tôi đã lo liệu ổn thỏa, cha gọi tôi ra một chỗ nói chuyện. Ông vẫn thế, vẫn lời lẽ chắc nịch cùng cái nắm đấm nhấn mạnh câu chữ, nhìn chẳng khác vị đại thống lĩnh đang ra quyết sách quân sự:
-Ta quyết định rồi, Khai Y. Anh phải cưới tiểu thư Xa Hạn Lý, Hạn Lý sẽ là con dâu chính thức họ Xuy Hạ. Nhưng ta không phản đối nếu anh mang Mục Á về đây làm vợ hai. Đó là một vinh dự… à không, đó là chuyện vui! Ta đảm bảo nhà này đối xử với Mục Á như con ruột và anh sẽ chẳng bao giờ phiền lòng chuyện bên trọng bên khinh. Ta thề trên danh dự, con trai à!
Cha khiến tôi khó hiểu. Cha có hàm ý gì trong từ “vinh dự”? Tại sao ông nói đối xử với Mục Á như con đẻ mà em không thể làm con dâu chính thức? Cha luôn rõ ràng song đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy lời của ông mập mờ bất nhất. Tuy vậy tôi không thắc mắc, chỉ đáp:
-Lần trước con nói rõ rồi. Con chỉ yêu một người, lấy một người và sống chung với người đó đến hết đời. Chuyện giữa con và tiểu thư Hạn Lý đã hết, không còn gì cả.
-Không được, anh phải nghe ta! – Cha cao giọng rồi chống tay xuống bàn – Anh thừa kế họ Xuy Hạ và sẽ là nhân vật lớn ở đất nước này, anh không thể đi khắp nơi với một người vợ có quá khứ là Hạ Nga Chi. Ta đâu ép buộc anh bỏ Mục Á? Ta nói rồi, ta chấp nhận cô gái đó, chỉ là Mục Á không thích hợp cho vị trí con dâu chính thức. Bớt cứng đầu đi con trai, anh không thể khư khư mãi một niềm tin được! Ta đang lo cho tương lai của anh!
-Con không cần tương lai đó. – Tôi giơ tay – Số phận của con không phải gia nhập quân đội hay làm nhân vật lớn gì gì đấy! Con thuộc về thế giới ngoài kia, chiến đấu cho ngài đại thánh sứ Tây Minh. Cha nghe thằng anh họ bị con đấm chưa? Đó! Mấy chuyện dòng họ gia tộc con không thạo! Cha tìm người khác đi!
Cha nghe xong liền nổi cơn tam bành, tôi không quá bất ngờ. Nhưng cứ trông ông tóc tai dựng ngược, răng nghiền kèn kẹt, bàn tay gân guốc bóp vụn chai rượu vang, hẳn rằng tâm trí cha tôi đã sôi sủi và chẳng còn vệt cặn kiên nhẫn nào kết tủa ở vỏ não.
-Đồ ngu! Anh là thằng ngu! – Cha tôi to tiếng – Biết ai giết em trai anh không? Là người Phi Thiên quốc! Bọn Sukka đó! Chúng đem đám chó săn Thổ Hành hỗ trợ bọn Mù Thủy để lục địa này luôn bất ổn. Chúng luôn thọc ngoáy chuyện người khác rồi rao giảng bài ca hòa bình nhân nghĩa. Người Phi Thiên là thế! Chúng giết Khai Nhạn! Chúng giết em trai anh! Chúng giết con trai ta! Anh muốn phục vụ kẻ thù hay sao?
Nhìn mắt cha long sòng sọc mà đỏ ngầu, tôi mới thấy nỗi đau của người đàn ông bị kẹt giữa công việc và đám tang con mình. Trái tim ông chưa hóa đá như vẻ bề ngoài. Ông căm thù người Phi Thiên, tôi thông cảm cho ông. Nhưng chừng ấy không thể khiến tôi ghét bỏ thầy Tây Minh vì nó quá cảm tính. Hôm ấy chúng tôi cãi nhau to, tưởng chừng có bão tố làm ngả nghiêng những cột chống trần.
Mấy ngày sau, thầy Tây Minh cùng Đại Bác qua thăm viếng (vì quá nể tôi nên Đại Bác mới đến, gã có thù với hầu hết gia đình quý tộc ở Băng Hóa thành). Tuy vẫn giữ cung cách lịch sự song cha tôi kém nhiệt thành với thầy Tây Minh, khác một trời một vực so với lần đầu gặp gỡ. Dù tôi không diễn giải quá nhiều vì sợ thầy khó nghĩ, nhưng thầy chỉ nhìn qua đã biết sự tình. Ngày ấy tóc thầy còn lâm râm đen chứ chưa trắng toát, râu chưa dài tới ngực, dáng điệu vẫn phong độ và chưa mắc bệnh tuổi già, chỉ duy giọng nói hóm hỉnh chẳng bao giờ thay đổi ở bất cứ thời gian hay không gian nào:
-Nghỉ việc hộ vệ thánh sứ đi, Khai Y. Đang thời điểm nhạy cảm, cứ thế này thì không tốt cho anh. Ta không muốn mang tiếng làm “hư hỏng” người thừa kế họ Xuy Hạ. Anh và Đại Bác làm hư hỏng các cô gái, ta thì làm hư hỏng các anh. Chúng ta là bộ ba tuyệt vời nhỉ?
Tuy đang buồn chuyện Khai Nhạn nhưng nghe vậy thì tôi phì cười, thầy Tây Minh luôn biết cách động viên người khác. Đáp lại, tôi viện đủ lý do nhằm giữ lấy công việc hộ vệ thánh sứ. Thầy không để ý lắm mà hướng ánh mắt ra ngoài cửa sổ rồi trông xuống khu vườn sau nhà, ở đấy thằng bé Khai Giã đang chơi trò đắp người tuyết với Mục Á. Nhìn một hồi, thầy cắt ngang lời tôi:
-Ta có nghe Đại Bác kể chuyện của anh. Làm hộ vệ cho ta, anh sẽ đỡ vướng bận trách nhiệm gia đình và thoải mái cưới cô Hạ Nga Chi đó, đúng không?
Nói rồi thầy hướng về phía Mục Á. Tôi cười trừ. Thầy nói không sai. Tuy không phải chính yếu nhưng “cưới Mục Á” là một lý do quan trọng để tôi tiếp tục công việc hộ vệ. Lát sau Mục Á mang trà vào phòng; vừa nhận ra thầy, em cả mừng đoạn cúi thấp người bày tỏ lòng ngưỡng mộ lẫn kính trọng. Thầy cũng đáp lễ bằng cách hôn tay Mục Á như đối xử với một tiểu thư quyền quý. Hai người trò chuyện ít lâu, thầy Tây Minh chợt hỏi:
-Tôi có hơi tò mò về xuất thân của cha cô. Khai Y kể với tôi cha cô từng là quý tộc tự thân trước khi chuyển sang nghề Đạo Chích Không Trung, vậy ông ấy là người Băng Hóa hay đến từ đâu? Thứ lỗi về sự đường đột này, chỉ là tôi lo lắng cho học trò. Khai Y với tôi như con đẻ vậy, thằng nhóc hay làm người khác phiền lòng lắm!
Mục Á cúi đầu cười song im lặng. Em luôn tránh đề cập thân thế cha mình với bất cứ ai kể cả tôi, dường như là muốn đem nó vùi sâu vĩnh viễn dưới dòng chảy thời gian. Nhưng có vẻ vì quá ngưỡng mộ thầy Tây Minh mà em phá lệ:
-Thưa ngài, cha tôi thực ra không phải người Băng Hóa chính gốc mà là dân nhập tịch. Ông đến từ một vùng hẻo lánh ở miền tây bắc lục địa. Cha kể nơi ấy toàn núi tuyết, những ngọn núi… chúng không hẳn là núi mà giống những phế tích. Người ở đấy thường sống trong những hang núi, đôi khi tụ tập dưới những phế tích… Xin lỗi đại thánh sứ, cha không kể rõ ràng nên tôi cũng không rõ lắm.
-Đó là “Vương Quốc Cũ”… – Thầy Tây Minh gãi cằm, chòm râu rung rung theo ngón tay – Nơi ấy từng là một đất nước cổ thời phi cơ giới, sau này bị chiến tranh hủy diệt. Các nhà thám hiểm hoặc dân khảo cổ thường đến đó nghiên cứu. Nhưng khí hậu khắc nghiệt nên ít người sống ở Vương Quốc Cũ, chỉ có vài bộ tộc nhỏ. Cha của quý cô thú vị đấy!
Mục Á mỉm cười, trông không có vẻ gì là muốn nghe tiếp về mảnh đất Vương Quốc Cũ. Thầy Tây Minh cũng không căn vặn thêm. Họ trò chuyện vui vẻ rồi kết thúc bằng việc chụp hình lưu niệm. Từ hồi quen tôi, Mục Á luôn hỏi về thầy và giờ em được toại nguyện. Sau cuộc gặp, thầy Tây Minh chẳng đả động chuyện Mục Á cũng không đưa ra lời khuyên nào cho tôi. Thầy im lặng. Giảng giải mấy triết lý huyền bí sâu xa khó hiểu rồi liên hệ cuộc sống thực – thầy luôn như thế mỗi khi dạy dỗ hoặc giúp tôi gỡ rối. Nhưng biểu hiện lúc này của thầy làm tôi khó hiểu.
Về nhà ít hôm, cha trở lại chiến tuyến và phó mặc toàn bộ việc nhà cho tôi. Họ hàng khách khứa nườm nượp ra vào tòa biệt thự, tôi hầu như chẳng có thời gian ngơi nghỉ. Họ tiếc thương Khai Nhạn thì ít mà tra tấn tôi thì nhiều, hỏi han đủ thứ chiến tranh chính trị, nhỏ to chuyện hôn nhân, thậm chí nhờ cậy việc quan trọng dù tôi chẳng có mối quan hệ quyền lực nào tại Băng Hóa thành. Qua vài ngày tôi chợt hiểu vấn đề. Không tự dưng cha rời đi dù vẫn còn ngày nghỉ phép, ông ngầm ý rằng chính tôi sẽ thừa kế họ Xuy Hạ mà thái độ của các vị khách là minh chứng. Cha đang ép tôi vào khuôn khổ bằng cách quàng lên cổ tôi trách nhiệm gia đình. Nhưng mọi nỗ lực của ông đều vô ích, tôi sẽ đưa Mục Á quay lại Hoàng Hôn Cảng và tiếp tục làm hộ vệ thánh sứ. Gia đình phiền lòng về tôi, ngay cả Mục Á cũng không đồng tình:
-Em thấy không ổn, Khai Y à… – Mục Á thỏ thẻ – Khai Nhạn mất rồi, cha anh ngoài mặt trận, giờ anh đi nốt thì lấy ai quán xuyến gia đình? Ngôi nhà cần người đàn ông, anh đi như vậy…
-Đã có người quản gia. – Tôi ngắt lời Mục Á – Toàn là bác ấy sắp xếp mọi việc, tôi chỉ làm theo mà thôi! Bác phục vụ ba đời họ Xuy Hạ rồi, coi như là người thân trong gia đình vậy. Đừng lo, Mục Á, đâu sẽ vào đó. Đợi chuyện buồn qua đi, tôi sẽ cưới em. Khai Nhạn từng nhờ chúng ta phải làm cha mẹ đỡ đầu cho Khai Giã, tôi phải giữ lời với cậu ấy. Tôi cũng phải giữ lời với em nữa.
Mục Á toan nói song ngừng lại. Em cười hiền rồi dịu dàng vuốt tóc tôi tỏ ý hoàn toàn tin tưởng, nhưng ánh mắt em lại hơi lệch nhịp với những cử chỉ đó. Lo âu, suy nghĩ, tính toán… nhiều thứ cứ tràn ra từ đôi mắt của Mục Á. Chúng bao lấy em, xô đẩy quần áo lẫn thân thể em thành những hình hài bồn chồn ở ngón tay xăn văn nhau hay đôi chân nhấp nhôm thấp thỏm. Chợt nhớ Mục Á hay quy kết chính mình là nguyên nhân rắc rối, tôi vội lảng chủ đề khác nhằm ngăn suy nghĩ đó sinh sôi trong đầu em.
Những ngày tháng yên bình trôi qua, sự hiện diện của Mục Á khiến gia đình tôi vơi bớt nỗi tiếc thương Khai Nhạn. Thằng bé Khai Giã thì quấn chân Mục Á cả ngày, thậm chí nó còn giành giật em khỏi tay tôi và coi đấy như thú vui. Vài lần tôi thoáng thấy Khai Giã nhếch mép cười. Thằng lỏi láu cá! Ha ha! Nhưng tôi không giận đứa nhỏ, nó cần được bù đắp sau nỗi đau mất cha. Vả lại thời gian của Mục Á không còn nhiều, em sắp phải về Cao Lầu như thỏa thuận hợp đồng. Mấy ngày đó, tôi cũng nói rõ ý định tương lai với gia đình. Dĩ nhiên chẳng ai đồng tình nhưng tôi thây kệ. Phiền nỗi tôi không hề biết đó là khởi nguồn cho cơn bão sắp ập xuống ngôi nhà.
Mà cơn bão nọ chẳng phải thứ nào khác ngoài cha tôi. Dù luôn ủng hộ tôi hết mực nhưng người quản gia không thể làm ngơ, bác gọi điện cho cha để thông báo tình hình. Nhanh hơn cả tố lốc, cha tức tốc quay về nhà chỉ sau nửa ngày. Ông vẫn mặc quân phục, chẳng mang theo bất cứ hành trang nào ngoài những lời chửi mắng thậm tệ dành cho tôi. Tòa biệt thự rung chuyển vì tiếng quát tháo. Tuy đã cố nhún nhường nhưng khốn thay, tôi thừa hưởng nhiều đặc tính từ cha mà thứ tệ nhất là “mất bình tĩnh”. Và chẳng gì tệ bằng việc người cha sỉ nhục quan điểm sống lẫn ước mơ của đứa con trai. Hai cha con tôi to tiếng rồi cãi nhau ầm ĩ, tiếp đến đồ vật xung quanh đổ vỡ loảng xoảng tựa thể có giông bão quét qua. Những người phụ nữ, người quản gia rồi đám vệ sĩ cố gắng can ngăn nhưng chẳng ai có thể chen giữa chúng tôi, càng không thể ngăn cú đấm của cha. Cha đấm tôi. Đấm thật. Cú đấm nặng nề, đau đớn và không chút do dự như dành cho kẻ thù, tuyệt không phải dạy dỗ đứa con trai. Tôi bắn vào góc tường, sách vở trên giá đổ ập xuống người, đầu óc lơ mơ nghe thấy tiếng hét của mẹ và Mục Á. Mắt tôi lem nhem máu, khung cảnh trở nên nhập nhòe, chỉ thấy cha đang vùng vẫy giữa những cánh tay của đám vệ sĩ lẫn bác quản gia. Cha chỉ mặt tôi, không ngừng rủa xả:
-Mày là thằng ngu, Khai Y! Tao muốn tốt cho mày nhưng mày chẳng hiểu gì hết! Tại sao mày luôn cãi lời người cha này? Em mày bị người Phi Thiên giết, giờ mày muốn phục vụ kẻ thù? Thằng ngu!
-Vì tôi không giống cha! Ông già chết tiệt! – Tôi nổi khùng – Cha chỉ quan tâm thể diện thôi! Cha cố tình đưa Khai Nhạn vào đội viễn chinh để tỏ ra không thiên vị người nhà, để tỏ ra công tâm chính trực! Biết gì không, cha yêu quý? Cha dùng mọi người như miếng đánh phấn, như chiếc son môi, như gương trang điểm, như bút chì tô vẽ lông mày, như hộp kem dưỡng da để trang điểm mặt mình cho bóng bẩy hào nhoáng. Cha như mụ đàn bà ngày ngày chỉ quan tâm mình trong mắt người khác có đẹp hay không. Ông già chết tiệt!
Cha điên tiết, mắt mũi trợn ngược như thú dữ lồng lộn phá cũi, người quản gia lẫn đám vệ sĩ cố lắm mới ghì được ông xuống. Ông vùng vằng bước vào phòng làm việc, lát sau trở ra cùng mảnh giấy có đóng dấu triện gia huy họ Xuy Hạ bằng sáp nến. Cha vứt nó trước mặt tôi, rít lên:
-Ký vào, nhanh lên! Ký vào, mày sẽ được tự do như mày muốn! Nhưng cả đời này mày đừng hòng bước về nhà! Ký nhanh, ký nhanh, mày sẽ không mang họ Xuy Hạ nữa! Ký rồi cút khỏi đây!
Chẳng cần đọc tôi cũng biết nó là giấy từ mặt. Kết cục xấu nhất đã xảy ra, tôi sẽ mất tất cả tài sản liên quan đến gia đình lẫn danh hiệu quý tộc. Nhưng chỉ bọn công tử bột mới sợ hãi chuyện đó, tôi khác họ. Đọc mảnh giấy xong, tôi liền đặt bút ký roẹt bất chấp mọi người can ngăn. Chữ ký rõ ràng thẳng tắp cắt ngọt quan hệ giữa cha con. Ngay hôm ấy tôi thu dọn đồ đạc rồi đưa Mục Á về Hoàng Hôn Cảng. Một ngày rối bời lộn xộn, cả gia đình tôi lẫn ngôi nhà tưởng chửng đổ sụp. Tòa biệt thự, tiếng mẹ gào thét với cha, người quản gia hối hả chạy theo tôi khuyên can, những cung đường rủ tán bạch dương trĩu tuyết, ga tàu điện vắng người, đôi mắt lo lắng của Mục Á, tường thành cổ cùng những ngọn tháp pháo khổng lồ bao quanh Băng Hóa thành… mọi thứ ào ào trôi qua mắt tôi như cơn lũ trong khi máu vẫn chảy lèm nhèm nửa mặt. Ở khoảnh khắc ấy, tôi hoàn toàn không hối tiếc.
Nực cười ở chỗ sự hối tiếc chẳng bao giờ quan tâm kẻ nóng giận. Chỉ khi người ấy bình tĩnh thì sự hối tiếc mới đến hỏi thăm, nó gõ cửa rồi tự động bước vào mà chẳng quan tâm chủ nhà đồng ý hay không. Nếu được, có lẽ tôi đã không ký vào tờ giấy nhàu nhĩ đầy những con chữ nguệch ngoạc nọ. Mẹ và mẹ hai hẳn lại khóc hết nước mắt như hồi làm tang Khai Nhạn, cả thằng nhóc Khai Giã… Có lẽ thằng bé vẫn không hiểu tại sao ông nội lại đấm bác nó giữa phòng khách. Nhưng cứ nghĩ đến căn nhà rộng khủng khiếp cùng đám khách khứa cười nói như cái máy, tôi không thể chịu nổi. Từng cung bậc cảm xúc trải dưới chân tôi mà mỗi lần bước là mỗi lần thêm chông chênh, chỉ chực rơi xuống vực thẳm đầy mùi rượu bia. Có lẽ tôi đã rơi thật nếu Mục Á không ở bên. Cả ngày hôm ấy em chăm sóc tôi, băng bó vết thương hoặc ngăn tôi tìm đến quán rượu. Em không nói nhiều cũng không bảo tôi nên quay lại Băng Hóa thành nhưng đôi mắt rơm rớm suốt, đôi lần khóc thành tiếng.
Cơ mà sự đã rồi thì chẳng thể thay đổi, tôi cần cuộc sống mới. Giấy từ mặt chỉ tước đi danh hiệu quý tộc chứ không làm mất những mối quan hệ hay số dư tài khoản của tôi. Tôi không có đám bạn bè quyền lực như cha, nhưng tôi có những người sẵn sàng giúp đỡ mình lúc khó khăn và không đòi hỏi kiểu bánh ít cho đi bánh quy cho lại. Sau dăm cuộc gọi nhờ người quen, tôi tìm được một căn hộ ở Hoàng Hôn Cảng. Nó thậm chí chẳng bằng một nửa phòng ngủ ở tòa biệt thự nhưng tôi thích sự nhỏ nhắn này. Bớt chút thời gian dọn dẹp, căn hộ hiện lên với vẻ ấm cúng mà tôi hằng khao khát. Ở căn nhà nhỏ, niềm vui luôn lớn hơn và nỗi buồn sẽ thu bé lại. Mục Á cũng tới giúp tôi khi xong việc ở Cao Lầu. Em tự tay trang trí căn hộ bằng những gam màu mà em thích và dĩ nhiên không thể thiếu hoa trà. Đang mùa trà kép, căn hộ lúc nào cũng tràn đầy sắc rực rỡ, niềm vui dần quay trở lại trái tim tôi. Một tối nọ, tôi ôm Mục Á, ngắm hoa trà kép nở sắc đỏ rực giữa mưa tuyết trắng bên ngoài cửa kính. Hợp đồng của Mục Á chỉ còn tính từng ngày, tôi bắt đầu nghĩ về tương lai:
-Vậy là em không thể làm “bà Khai Y” rồi, Mục Á. Em phải chờ tôi trở thành quý tộc tự thân thôi. Mười năm, thậm chí hai mươi năm, lâu đấy!
Mục Á lặng lẽ trông chốn xa xăm vô định giữa màn đêm thành phố. Được một lát thì em ôm lấy tay tôi, từng ngón tay bấu chặt như muốn tôi, thời gian, không gian hay cả khung cảnh này dừng lại. Rồi Mục Á quay vào lòng tôi khóc rấm rứt, tôi ngạc nhiên:
-Sao vậy? Em sao thế?
-Không, chỉ là vui quá thôi! – Em cười, giọng nghèn nghẹn – Chúng ta kết hôn rồi sống ở đây nhỉ?
-Ừ! – Tôi bật cười đoạn vuốt tóc Mục Á – Tôi sẽ đến gặp ông chủ Cao Lầu và chuộc em. Từ giờ em cứ sống ở đây…
-Để sau khi anh trở về, được không? Anh trở lại làm việc, giờ lo cả chuyện của em thì cập rập lắm! – Mục Á chen ngang – Đợi anh về, lúc ấy thừa thời gian, chúng ta sắp xếp chu đáo hơn. Nhìn xem, căn hộ còn thiếu nhiều thứ lắm, mình em ở đây không lo hết được. Với cả… chuộc xong rồi, em phải chờ mấy tháng nữa mới đến lễ cưới sao? Khó chịu lắm!
-Tôi biết ghen đấy, Mục Á! – Tôi nhíu mày – Tôi muốn đưa em ra khỏi Cao Lầu càng nhanh càng tốt. Em cứ làm Hạ Nga Chi mãi, tôi đau lắm!
Mục Á cười rũ, dụi đầu vào ngực tôi rồi nài nỉ dời ngày chuộc em khỏi Cao Lầu. Nghe em nói, tôi mới thấy lắm chuyện bất cập. Hiện giờ Mục Á là người của Đông Môn Cao Lầu, không ai ở Hoàng Hôn Cảng được phép chạm vào em. Nhưng khi rời khỏi đó, tin tức một Hạ Nga Chi được giải phóng sẽ lan truyền khắp nơi và Mục Á dễ gặp nguy hiểm với lũ đàn ông háo sắc. Khéo thay Vạn Thế sắp đặt, nơi an toàn nhất là nhà tôi thì tôi chẳng thể về. Tôi định đưa Mục Á quay lại quê hương Diệp quốc nhưng em từ chối, nói rằng lúc này chưa thích hợp. Hết cách, tôi đành nghe theo Mục Á. Dù sao tôi cũng đã quen việc chờ đợi. Nghĩ ngợi vẩn vơ một lúc, tôi nói:
-Tôi để ý thành phố này có một nhà hát nhạc kịch. Em không thích mấy thứ nghệ thuật, đúng không? Nhưng thử một lần xem sao? Có một vở tên là “Trà Hoa Nữ” dựa theo câu chuyện cổ xưa, tôi nghĩ em sẽ thích.
-“Trà Hoa Nữ”… nó kể cái gì vậy? – Mục Á hỏi.
-Giống chuyện của chúng ta. – Tôi nháy mắt – Em sẽ biết thôi!
Em đồng ý, hẹn khi tôi trở về sẽ cùng xem. Mấy ngày kế tiếp, Mục Á đòi tôi ở lại căn hộ thay vì đi chơi, chừng như muốn tận hưởng sớm cuộc sống gia đình. Một đám cưới, vài vật dụng linh tinh và thêm một đứa trẻ con, nơi này sẽ trở thành “nhà” thực sự. Trước hôm tôi đi, em có tặng tôi một đóa trà kép màu đỏ rực. Tôi liền ép khô cánh hoa và đặt nó ở ngăn bìa cuốn nhật ký hành trình làm vật trang trí.
Nửa tháng sau, tôi theo chân thầy Tây Minh đến vùng đất hoang vu phía tây lục địa Hoa Thổ để giúp một tiểu quốc tái thiết sau thời kỳ chiến tranh tài nguyên. Như thường lệ, mỗi khi rảnh rỗi là tôi gọi điện cho Mục Á. Nhưng đợt này, cuộc trò chuyện giữa chúng tôi cùng lắm chỉ được năm, sáu phút, không hơn. Mục Á nói đang là cuối năm 7502, Hoàng Hôn Cảng nhiều khách gấp đôi bình thường nên em không thể trò chuyện lâu. Thực tình tôi khá khó chịu nhưng vì hạnh phúc tương lai nên tạm cho qua. Đại Bác có hỏi chuyện tôi chuộc Mục Á hay chưa, tôi trả lời thành thực. Nghe xong, gã gãi gãi chiếc cằm lún phún râu:
-Kỳ quặc nhỉ?! Sắp được ra khỏi Cao Lầu mà cô ấy không muốn? Cổ đâu phải trẻ lên ba không biết tự lo cho mình, sao phải sợ mấy thằng háo sắc? Cậu làm như cả thế giới này suy đồi lắm không bằng! Mà nếu cậu sợ thì đưa cổ về Diệp quốc. Sao? Không được á? Thế mấy ông bạn đàng hoàng của chúng ta đâu? Cậu có thể gửi Mục Á ở chỗ bọn họ, họ nợ cậu kia mà?! Thế còn tôi thì cậu để đâu? Ồ, cậu sợ “thằng ngựa giống” này đánh chén bạn gái mình à? Cậu làm tôi tổn thương đấy, hi hi hi! Được rồi, đừng làm bộ mặt đó, tôi đùa thôi! Nhưng có chắc Mục Á muốn cưới không vậy?
Có chắc Mục Á muốn cưới hay không? – Tôi lặp lại. Tuy Đại Bác không có ý xấu nhưng gã vô tình làm tôi băn khoăn. Nghĩ lại mấy cuộc gọi điện chóng vánh gần đây rồi cả thái độ khó hiểu của Mục Á khi ở căn hộ, tôi bỗng bứt rứt khôn tả. Suốt đợt đó tôi chỉ mong ngóng công việc kết thúc nhanh để mau chóng trở về. Sự nôn nóng ấy không qua được mắt thầy Tây Minh, nhưng thầy không dạy dỗ hay quở trách tôi điều gì. Cùng thời gian, mẹ gọi điện cho tôi đôi lần và có hỏi thăm Mục Á, không quên khuyên tôi trở về. Bà nói sau đợt đuổi tôi ra khỏi nhà, cha suy sụp tới nỗi bên quân đội phải ép ông nghỉ dưỡng nửa tháng. Cả ngày ông chỉ quanh quẩn với rượu, mọi việc giao hết cho người quản gia. Dù chạnh lòng nhưng bởi cái tôi quá lớn, tôi từ chối về nhà để xin cha tha thứ.
Bốn tháng làm việc kết thúc, tôi vội vã trở lại Hoàng Hôn Cảng. Đang dịp lễ hội, cả thành phố hầu như không ngủ, đêm nào cũng rực rỡ ánh đèn lẫn người qua lại. Trước lúc về căn hộ, tôi ghé qua khu chợ trời mua hoa trà làm quà cho Mục Á. Tôi không gọi điện báo trước vì muốn làm em bất ngờ. Tiền chuộc Mục Á, nơi tổ chức lễ cưới, những đồ đạc còn thiếu cho căn hộ – mọi thứ cho cuộc sống mới, tôi đều chuẩn bị đầy đủ.
Khốn thay, mọi chuyện không như tôi nghĩ. Vạn Thế vẫn thích trêu ngươi con người như vậy.
Khi nói về dự định tương lai, Mục Á luôn đề cập căn nhà sáng sủa với những bình hoa trà, em muốn tự tay chăm sóc và tô điểm chúng. Nhưng khung cảnh đang ập tới mắt tôi hoàn toàn trái ngược. Bước vào căn hộ, tôi ngửi thấy mùi ẩm thấp lẫn bụi bặm như thể lâu lắm không ai ghé thăm. Bụi khắp nơi, cuộn thành mảng trên sàn nhà hoặc đóng tầng đóng tảng ở góc phòng lẫn đồ đạc. Tấm rèm che cửa sổ vốn trắng tinh đã ngả màu nhờ nhợ, gian bếp sạch sẽ cáu cạnh cách đây mấy tháng giờ đầy mạng nhện lẫn phân chuột phân gián. Quan trọng hơn: ở đây không có hoa trà hay bất cứ sự hiện diện nào của Mục Á. Thất vọng lẫn bực bội nhảy chồm vào tâm trí rồi quậy phá lung tung viễn cảnh tươi đẹp mà tôi luôn mường tượng từ khi về đây tới lúc bước vào căn hộ. Cảm giác có chuyện không ổn, tôi liền gọi điện cho Mục Á. Hai cuộc gọi bất thành, tôi vừa lo lắng vừa tức giận. Mãi cuộc gọi thứ ba và nghe được giọng Mục Á, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Đầu dây bên kia đầy tiếng nhạc chát chúa của hộp đêm, tôi lớn giọng mấy lần, em mới nghe rõ. Tôi hẹn gặp ở nơi cũ.
Giống mấy lần trước, tôi phải chờ cả tiếng đồng hồ thì Mục Á xuất hiện. Nhưng khác ở chỗ em không còn chạy hay biểu hiện bất cứ dáng điệu gấp gáp nào như là muốn gặp tôi. Em vẫn đẹp, vẫn ngây ngất lòng người nhưng ánh mắt đã thay đổi. Từ ngày yêu tôi, mắt Mục Á luôn tràn đầy tia ấm áp và hiền dịu như vị nữ thần mang mặt trời đến thế giới này. Nhưng ngay lúc này, đang nhìn tôi là một đôi mắt sắc bén thấu triệt tâm can kẻ đối diện, hệt như lần đầu tôi gặp gỡ em ở Cao Lầu. Dù vậy tôi vẫn ôm Mục Á, em đáp lại bằng nụ cười lấy lệ:
-Anh đã về…
-Phải, tôi về rồi! Em nhớ tôi chứ?! – Tôi nói.
Mục Á ậm ừ, thái độ lạnh nhạt, có thể em giận vì tôi đi quá lâu. Tôi gãi đầu cười:
-Mà mấy tháng rồi em bận nên không ghé qua nhà hay sao? Tôi vừa ghé qua, nó bẩn quá! Được rồi, dù gì tôi cũng về, chúng ta cùng dọn dẹp nó nhé?
-Không. – Mục Á nói – Em không ghé qua không phải vì bận. Đơn giản là em chẳng muốn đến đó.
-Hả? – Tôi nhăn trán – Tại sao? Vì nó quá nhỏ? Nếu em không thích thì tôi có thể mua một căn hộ khác lớn hơn…
-Không phải nhỏ hay lớn, anh không hiểu sao, Khai Y? – Mục Á cắt ngang lời tôi – Em không còn cảm tình với nó nữa. Em không muốn sống ở đó.
Gió tuyết cắt ngang tôi và Mục Á. Một thứ vô hình gì đấy giữa chúng tôi vừa bị cắt đứt. Tôi không phải kẻ ngu ngốc mà không hiểu lời em. Định thần ít phút, tôi mở lời:
-Em nói thế tức là… chia tay? Sao vậy, Mục Á? Tôi đủ tiền chuộc em khỏi Cao Lầu, ngay hôm nay, ngay lập tức! Chuyện gì thế? Tại sao em thay đổi? Có phải cha tôi đã nói gì với em không?
Mục Á vuốt tóc, ánh nhìn lạnh băng, giọng nói lạnh lẽo:
-Không, gia đình anh không liên quan, chỉ là em thôi. Nhớ lời em không, Khai Y? Hạ Nga Chi là họa mi, họa mi biết chỗ đẹp mà đậu, biết chỗ nắng mà hót. Em không thể cưới một chàng kiếm sĩ bình thường, không có bất cứ địa vị hay quyền lực nào cả. Anh đã là người mà em mong muốn, nhưng anh tự tay đánh mất nó. Anh không còn là quý tộc nữa, thế nên…
Em nhún vai thay lời muốn nói. Cổ họng tôi nghẹn đầy tức giận, phải thở bớt mới đỡ nóng:
-Em vẫn còn lo chuyện quý tộc sao? Tôi nói rồi, chỉ cần thời gian, tôi sẽ trở thành quý tộc. Chỉ cần hai bàn tay này, tôi có thể làm mọi thứ!
-Vậy suốt thời gian đó, ai sẽ chăm sóc hai bàn tay của em? – Mục Á giơ tay – Ở Băng Thổ này, quý tộc tự thân không nhiều đâu, và không phải cứ dùng sức mạnh là đạt danh hiệu quý tộc. Em sẽ phải làm đủ thứ việc, cô đơn một mình, làm lụng một mình, cực khổ một mình. Này Khai Y, đôi tay của phụ nữ đẹp sinh ra không phải để làm những chuyện như vậy. Có một điều em đã nói dối anh: em vào Cao Lầu chẳng phải vì tổn thương tinh thần, chỉ là nếu trở thành Hạ Nga Chi, em khỏi đầu tắt mặt tối như những người phụ nữ làm việc ngoài chợ trời. Anh có thể đợi ngày mình trở thành quý tộc, em thì không.
Tôi nổi điên, răng nghiến kèn kẹt, bàn tay thu chặt thành nắm đấm:
-Em đang nói gì thế? Chẳng lẽ mọi thứ giữa chúng ta kết thúc chỉ vì một chữ “quý tộc” à?
-Và còn một việc nữa… – Mục Á cười – Thực ra em không thể trở lại Diệp quốc, ông bà ngoại biết chuyện em làm Hạ Nga Chi ở đây. Đó là việc không thể chấp nhận, họ không thể dung nạp một đứa cháu hèn hạ như vậy vào nhà. Em từng là tiểu thư ở bên Diệp quốc, nhưng giờ không còn nữa. Bởi vậy nếu kết hôn với một quý tộc, em sẽ có được địa vị như trước.
Tôi vung cú đấm vào gốc cây phía sau Mục Á, cây rung bần bật, tán lá lẫn tuyết rơi lả tả như mưa rào. Tôi gầm lên:
-ĐỪNG CÓ ĐÙA!
-Em nói rồi, Khai Y, đừng trông đợi vào tình yêu. Mỗi lần chia tay, em đều nói rằng em sẽ không quên anh bởi anh có tiền bạc và địa vị, nhớ không? Đó là những lời thật nhất, đáng tiếc anh lại không tin.
-Vậy còn những gì em làm cho gia đình tôi?
-Không khó để nhớ những kính ngữ đậm chất quý tộc, chỉ là mua đúng sách và bỏ thời gian nghiên cứu. Giờ người ta bán mọi thứ, quang tố còn bán được, huống hồ một quyển sách? – Mục Á cười – Em có trí nhớ tốt! Vả lại tốn công giúp đỡ gia đình anh cũng là cách lấy lòng mọi người. Đáng tiếc… đầu tư thất bại rồi!
Cơn giận dữ trong tôi lên đến đỉnh điểm nhưng rồi chuyển thành nỗi tuyệt vọng. Nực cười cho cuộc đời tôi luôn trốn chạy chữ “quý tộc”, giận dữ vì nó, đau khổ vì nó, và giờ đây gục ngã trước cánh cổng hạnh phúc cũng vì nó. Tôi buông tứ chi, tay thõng xuống, chân lún sâu trong tuyết. Mục Á thở dài:
-Xin lỗi Khai Y. Anh hấp dẫn, đẹp trai, nhưng chừng đó là chưa đủ với Hạ Nga Chi. Em cần nhiều hơn thế. Cứ quay lại Đông Môn Cao Lầu nếu anh đủ tiền và đủ thời gian, em sẽ trò chuyện với anh. Nhưng từ giờ tới cuối năm sau, e rằng khó đấy, em bận lắm, với cả em đang nhắm đối tượng khác. Vậy… tạm biệt nhé?!
Nói rồi Mục Á bỏ đi và không quay lại nhìn tôi một lần. Tôi bần thần đứng đó hàng tiếng đồng hồ, mãi xẩm tối mới về. Đêm đó, tôi gọi điện cho Mục Á mong tìm được cơ hội níu kéo nhưng em đã đổi số, hoặc là em đã bỏ chiếc điện thoại.
Một ngày đầu đông năm 7502, tôi và Mục Á chia tay.
Thực tình chia tay không phải thứ gì đó quá khủng khiếp, chỉ là cảm giác hẫng hụt như buộc phải từ bỏ một thói quen thường nhật nào đấy. Thay vì dùng rượu vang trước bữa ăn thì ta không được uống nữa vì lý do sức khỏe, đại khái vậy. Có chút khó chịu, có chút thèm muốn nhưng không quá nuối tiếc. Sau cuộc chia tay, tôi đến những thành phố khác, làm những thứ mà tôi đã bỏ bẵng từ lúc yêu Mục Á như uống rượu ngắm cảnh. Tôi ở Thung Lũng Tuyết Tan hẳn một tuần để trông chờ cảnh mặt trời mọc mỗi sáng. Lâu rồi mới thấy bình minh đẹp đến vậy!
Ngày qua ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ cho bản thân. Tôi chẳng còn là quý tộc, cũng không phải nhân vật nào đấy nổi tiếng, chỉ là một chiến binh bình thường không hơn không kém. Thập Kiếm đã không chọn tôi làm thành viên mới. Tôi gọi vài người bạn tới trò chuyện giải khuây nhưng tất cả đều lịch sự từ chối. Tôi bật cười, đám người đó đã biết tôi mất quyền thừa kế. Nhớ thuở trước họ liên tục mời tôi dự tiệc, lấy làm hãnh diện nếu tôi đồng ý. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi. Cứ đà này, tôi sẽ lóp ngóp dưới đáy thế giới chứ chưa đợi phấn đấu làm quý tộc, và còn đó thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt – bức tường không thể nào vượt qua. Tôi chọn bãi đất tuyết ven rừng gần Thung Lũng Tuyết Tan làm chốn luyện tập.
Một tháng qua đi, khu đất nơi tôi luyện tập gần như tan nát, không còn một cây lá kim hay tảng đá nào còn nguyên lành. Những con quái vật tàn ảnh nổi tiếng hung dữ cũng dần lánh xa khu vực này. Tàn ảnh thông minh, chúng biết sẽ gặp nguy hiểm nếu lảng vảng gần tầm mắt của tôi. Chúng biết một con quái vật mới mang tên Khai Y vừa đặt chân xuống đây. Từ bao giờ? Là từ bao giờ tôi trở thành quái vật? Tôi chợt nhận ra tất cả những hành động hay suy nghĩ của mình đều có dấu ấn “Mục Á”. Nỗi đau này không mạnh mẽ như thanh kiếm hay viên đạn xuyên lủng ngực, nó là chất độc ngấm dần xương thịt. Qua thời gian, nó lan khắp phủ tạng sau đấy tha hóa tâm trí, bấy giờ cơn đau mới phát tác toàn cơ thể. Tôi đã gọi điện về nhà và tra hỏi ngọn ngành, chẳng có tác động nào từ gia đình tôi mà Mục Á tự động chia tay. Em coi trọng địa vị hơn hết thảy. Em “đá” tôi chỉ vì nếu không có địa vị quý tộc, bàn tay thanh tú đầy đặn của em sẽ nổi vết chai sần vì lao động. Ồ, tôi quên mất, em là vũ nữ thần linh, em cần ở nơi đầy ánh đèn cho cả thế giới chiêm ngưỡng hâm mộ. Em làm đẹp để vừa lòng hàng ngàn kẻ xa lạ nhưng không chịu xấu xí cho một người yêu em.
Sự thật phũ phàng là tôi chưa bao giờ hiểu Mục Á. Sự thật đau đớn là tôi vẫn yêu em. Không phải thứ tình yêu điên dại tuổi trẻ. Không phải thứ tình yêu chiếm đoạt bản năng giống đực. Nó là câu chuyện của một gã đàn ông đặt hết niềm tin lẫn tuổi trẻ vào đó, sống vì nó, chiến đấu vì nó nhưng bị phản bội phút cuối cùng.
Có ba loại người ngây thơ nhất thế giới: trẻ lên ba, thiếu nữ mười lăm tuổi và gã đàn ông đang yêu.
Nhưng cũng có ba loại người dễ bị phản bội nhất trên thế giới: những tên bạo chúa, những ông chủ tồi và những gã trai đang yêu.
Tôi nhìn xuống bàn tay mình – thứ mà tôi luôn tự hào. Nó đã chiến đấu hàng trăm lần, giúp đỡ hàng nghìn người, để lại dấu ấn khắp thế giới Tâm Mộng. Nhưng tuyết đang phủ kín nó bằng màu trắng tinh, thứ màu trống trơn của sự khởi đầu lẫn vô định của sự kết thúc. Tôi, gã đàn ông gần ba mươi tuổi mất tất cả, không biết bắt đầu từ đâu, vô phương hướng. Không có cầu thang để tôi bước lên tương lai càng chẳng có những thềm bậc cho tôi trở lại quá khứ. Như một hệ quả, tôi trượt chân xuống vùng biển sầu khổ và tìm đến rượu bia.
Khốn khổ thay, rượu bia là thứ chất lỏng dễ hòa tan. Ở vùng biển sầu khổ mênh mông không bến bờ, chúng mất dạng giữa đợt thủy triều buồn bã ngày đêm xô vào thành vách trái tim, hoặc chìm nghỉm dưới cơn sóng giận dữ. Bóng tối cùng cơn say thúc giục tôi rời khỏi Thung Lũng Tuyết Tan. Tôi quay về Hoàng Hôn Cảng, ngày ngày đáo qua đáo lại những nơi quen thuộc như đường mòn dãy núi tuyết phía tây, khu chợ trời hay đường bờ sông lát đá cắt ngang thành phố. Đi nhiều bao nhiêu, tôi căm ghét Mục Á bấy nhiêu. Em đẹp đẽ hơn người, khí chất hơn người song tâm hồn cũng tủn mủn như bao cô gái hám vật chất địa vị. Ai có lỗi? Trách Mục Á trở mặt giả dối hay trách tôi ngây thơ quá đỗi? Tôi không biết. Chẳng tìm được câu trả lời, từng đợt sóng giận dữ chồm lên chồm xuống tâm trí tôi.
Kỳ lạ thay, lẫn lộn giữa làn sóng căm giận, tôi nhận ra vô vàn bọt nước sôi sủi mang hình bóng Mục Á. Chúng tồn tại trong chớp mắt rồi vỡ vụn, lát sau lại tập hợp và lại tan biến, cứ thế diễn ra hàng ngàn lần tạo thành vòng lặp siết thắt tâm trí tôi. Suốt quãng đường vòng quanh Hoàng Hôn Cảng, tôi đã mong em xuất hiện đâu đó trên phố hoặc sau hàng cây lá kim rủ tuyết. Tôi lờ mờ hiểu nguyên cớ song ngay lập tức phủ nhận. Tại vùng biển sầu khổ nơi mà thời gian không tồn tại, tôi lao ra ngoài khơi vật lộn những cơn sóng từ lúc chớm bình minh cho tới khi hoàng hôn che mặt sau bóng tối, từ mùa đông cắt giá da thịt tới hồi mặt trời đốt trụi xương tủy. Tôi tiều tụy, sức lực cạn sạch nhưng làn sóng giận dữ vẫn không buông tha. Tôi ngửa mặt hét lớn trước khi bị chúng nhấn chìm. Dưới đáy biển đen thẳm, tôi bỏ cuộc và chịu thừa nhận thế giới đau buồn này hình thành bởi nỗi nhớ Mục Á. Tôi nhớ em. Tôi cần em. Chỉ em mới cứu được tôi.
Đắm chìm tâm trí quá lâu, tôi bỗng giật mình khi khung cảnh xung quanh là quán rượu. Tôi không hiểu tại sao mình đến đây hay đến bằng cách nào. Đang hoàng hôn, mặt trời phả ánh đỏ quầng khắp thành phố như mời gọi tôi uống rượu để tán thưởng nó. Tôi đồng ý với mặt trời. Nhưng tôi quên rằng mặt trời hoàng hôn là bạn chí cốt của màn đêm, nó dẫn dụ tôi vào vô số ly rượu mạnh, đợi tôi gục thì để bóng tối xử lý. Trong bóng tối, mọi thứ trước mắt tôi đều lơ mơ không rõ ràng. Hình như tôi va phải ai đấy khi bước ra khỏi quán rượu, có đánh lộn, có tiếng đổ vỡ lẫn tiếng người can ngăn, có cánh tay ông chủ quán lôi tôi trở ra trước khi tôi đấm chết người. Dù gì tôi cũng không quan tâm lắm, bởi điều rõ ràng mà tôi nhìn thấy chỉ có Mục Á. Phó thác cho giận dữ dẫn đường, mặc cho nỗi nhớ nhung quặn lòng chỉ lối, tôi vô thức quay lại Đông Môn Cao Lầu. Tôi yêu cầu được gặp Mục Á nhưng gã bố mì từ chối:
-Không được, xin Múy đến hôm khác, Mục Á đã kín lịch rồi. Nhưng mong Múy thông cảm, Mục Á có nhắn với tôi rằng nếu Múy tìm đến, cô ấy sẽ không tiếp. Hạ Nga Chi có quyền từ chối, mong Múy hiểu cho.-Gọi Mục Á ra đây, tôi không nhắc lại lần nữa đâu. – Tôi gầm gừ.
Trông bộ dạng nồng nặc mùi rượu của tôi, gã bố mì nhe răng cười. Gã đặt bàn tay gân guốc lên vai tôi rồi bóp chặt:
-Múy biết chuyện gì xảy ra nếu động vào Hạ Nga Chi đấy. Bất kể Múy là ai…
Giọng nói gã bố mì đứt quãng vì tôi đã quật gã xuống sàn. Giữa tiếng hét của gái điếm Cao Lầu và tiếng bước chân rầm rập của đám bảo vệ, tôi gọi tên Mục Á. Tôi vừa gọi tên em vừa trút cơn giận dữ xuống những kẻ cản đường. Buồn cười, bọn thú hoang ở khu rừng Thung Lũng Tuyết Tan thông minh hơn con người, chúng biết hậu quả khi lảng vảng trước mặt tôi còn con người thì không. Trong chốc lát, cả tòa sảnh thành bãi chiến trường, hàng chục gã bảo vệ đổ gục dưới chân tôi, khách khứa bỏ chạy tán loạn còn tôi gào lớn:
-Mục Á! Ra đây, tôi cần nói chuyện! Em đang ở đâu? MỤC Á? MỤC Á!
Người đến đông hơn, có cả chiến binh kiếm sĩ và kiếm thuật sư. Giới kinh doanh nhan sắc có thể thuê bất cứ ai kể cả sát thủ, vậy nên họ không sợ bất kỳ loại khách hàng nào. Nhưng họ không biết có một loại khách hàng tên là Xuy Hạ Khai Y. Tôi liều lĩnh đâm đầu vào bọn họ, hết đánh người lại gọi tên Mục Á. Có chai thủy tinh đập vào đầu tôi, máu chảy ròng ròng khắp mặt nhưng tôi không quan tâm. Tôi cần Mục Á. Có súng bắn điện khiến tôi đổ gục rồi tiếp đến là cơn mưa giẫm đạp nhưng tôi càng thêm điên rồ. Tôi muốn có Mục Á ở kế bên. Bằng tay trần, bằng nắm đấm, tôi đánh gục mọi thứ cản đường mình và bước lên tầng hai Cao Lầu tìm đến phòng riêng của Mục Á. Nhưng cơ thể tôi không thể chịu quá nhiều súng bắn điện, nó dần tê cứng rồi đổ gục trước khi hứng chịu hàng trăm cú đấm. Tôi cảm nhận rõ tiếng nứt gãy xương sườn hay cơn khó thở lồng ngực. Nhưng tổn thương cơ thể chẳng còn nghĩa lý khi thế giới bên trong tôi đã thối nát. Mắt tôi mờ dần, bóng tối đưa tôi đến đây và giờ nó đánh chén, nhấm nháp tôi từng chút một.
Kể từ lần đó, tôi hoàn toàn mất liên lạc với thế giới bên ngoài. Đôi lần tôi nghe được tiếng người nhưng không rõ là ai. Mọi thứ mơ hồ và dài đằng đẵng như cả thế kỷ. Tôi chán sống, chán cả thế giới thực tại. Nhưng một ngày kia có làn hơi ấm áp tràn đến vực tôi dậy, dù không biết nó từ đâu đến nhưng tôi cảm thấy mình cần sống tiếp. Tôi cất bước, mò mẫm trong bóng tối và tìm về ánh sáng. Khi ánh sáng mờ dần, tôi nhận ra mình đang nằm trên giường với chăn gối màu trắng, xung quanh là những bức tường sạch sẽ đến gai người của bệnh viện. Bằng nỗ lực thể xác, tôi ngó quanh tìm hơi ấm đã cứu vớt mình. Nhưng câu trả lời mà Vạn Thế dành cho tôi lại không như tôi mong đợi. Thứ ấm áp đó đến từ một cô gái có vóc dáng dong dỏng cùng đôi mắt hiền hậu. Nàng là Xa Hạn Lý, không phải Mục Á. Thấy tôi mở mắt, nàng mỉm cười, đôi mắt rưng rưng:
-Anh tỉnh rồi… Khai Y… anh đã tỉnh…
Nàng vuốt ve gương mặt băng bó của tôi. Tôi đảo mắt nhìn sang, Đại Bác và thầy Tây Minh cũng có mặt. Thấy tôi tỉnh giấc, Đại Bác thở phào:
-Cuối cùng cậu cũng tỉnh! Cứ tưởng chết rồi chứ?!
Qua lời Đại Bác, tôi cũng nhận thức được những gì mình đã làm tại Đông Môn Cao Lầu. Tôi gây sự ở đó trong tình trạng say khướt, đánh gục hơn bảy mươi bảo vệ, hai mươi kiếm sĩ và kiếm thuật sư. Quá nửa sảnh Cao Lầu nát bét dưới tay tôi, và nếu không phải cha tôi dàn xếp với ông chủ Cao Lầu, mặt tôi đã chình ình khắp báo chí Hoàng Hôn Cảng. Bản thân tôi cũng chẳng vui vẻ gì khi gãy dăm ba xương sườn và vỡ đầu gối chân trái, chưa tính hàng chục mũi khâu ở đầu hay ngực. Chỉ cha tôi tường tận mọi chuyện, mẹ tôi hay mẹ hai đều chẳng hay biết gì. Tôi định hỏi Mục Á có đến hay không nhưng Hạn Lý ở đây, tôi không tiện hỏi. Nhưng tôi cũng dần quên chuyện đó. Nếu còn yêu tôi, Mục Á sẽ tới bất kể thời khắc nào. Ngay lúc này, tôi nhận thức được chuyện giữa chúng tôi hoàn toàn kết thúc.
Ai cũng phải từ bỏ một thứ gì đó trong đời. Ai cũng vậy.
Độ non nửa tháng, tôi được xuất viện. Vì không thể về nhà trong bộ dạng thế này, tôi đành quá giang qua nhà Xa Hạn Lý. Nàng muốn tự tay chăm sóc tôi. Tôi rất bối rối khi gặp lại cha mẹ nàng, chuyện hủy hôn còn đấy mà người già thì nhớ dai. Nhưng gia đình Hạn Lý đón tiếp tôi tử tế như đón khách quý, tuyệt không đả động việc tôi mất quyền thừa kế. Mỗi ngày, Hạn Lý đều giúp tôi vận động hồi sức. Tôi tự hỏi tại sao Hạn Lý làm vậy sau tất cả những gì tôi đối xử với nàng, trong khi nàng có thể cười cợt và mỉa mai tôi như bao kẻ khác?
Tôi chợt nhận ra thế giới này không chỉ có Mục Á khó hiểu. Dường như tất cả phụ nữ đều như thế.
Ba tháng sau tôi tháo băng nẹp, đôi chân bắt đầu đi lại bình thường dù phải chống nạng. Trong tay Hạn Lý, tôi dạo phố và ngửi hơi lạnh quen thuộc của xứ Băng Thổ. Xứ sở này đầy hơi nóng của máu nhưng cũng nhiều hơi ấm lòng người. Tôi bắt đầu để ý Hạn Lý nhiều hơn. Nàng cũng thích hoa nhưng không phải hoa trà, nàng thích hoa dương xỉ. Lúc bình thường, nàng điềm tĩnh chín chắn nhưng khi bối rối hay nổi giận thì đó là câu chuyện hoàn toàn khác. Nàng đáng yêu theo cách của mình. Nhưng quan trọng hơn cả là chính Hạn Lý đưa tôi ra khỏi bóng tối, không phải ai khác. Một ngày cuối tháng 12 năm 7502, tôi hỏi nàng:
-Sắp lễ năm mới, tôi phải về nhà, em đi cùng tôi chứ?
Hạn Lý đồng ý, nàng cười thật tươi. Tôi cùng nàng về nhà vào tháng 1 năm 7503. Cuộc gặp giữa tôi và mẹ khá khó khăn, bà khóc hết nước mắt sau lại chất vấn những dấu vết khâu mổ trên người tôi, cả chuyện chân cẳng tập tễnh. Gia đình Khai Nhạn cũng mừng tôi trở lại, Khai Giã cũng vậy. Thằng nhóc lớn hơn trước, bộ mặt chai lì hầu như không cười nhưng ánh mắt vẫn còn cảm xúc. Nó hỏi tôi:
-Cô Mục Á đâu? Cô ấy không về cùng bác sao?
Tôi mỉm cười đoạn xoa đầu đứa nhỏ. Khi đó tôi không trả lời Khai Giã, có nhiều chuyện mà trẻ con không bao giờ hiểu dù giải thích thế nào chăng nữa.
Song khó chịu hơn cả là đối diện với cha. Mới gần một năm mà ông già đi trông thấy. Chiến tranh chưa kết thúc, ông phải ra mặt trận thường xuyên chưa kể lo đống phiền phức dòng tộc. Sau ngày cha từ mặt tôi, cả họ Xuy Hạ liên tục gây áp lực đòi cha chọn người thừa kế quyền lãnh đạo nhưng ông luôn từ chối. Vì sự ích kỷ của tôi, cha trở nên xơ xác như cây tùng bị gió quật, thân cây vẫn vững vàng song lá đã trụi hết. Nửa ngày im lặng, cuối cùng cha đưa tôi ly rượu vang rồi cất lời:
-Anh nói đúng, Khai Y, chiến trường chẳng có chỗ cho báo thù. Ta muốn anh thừa kế dòng họ để tiếp bước nghiệp quân đội, ta đã muốn anh báo thù cho Khai Nhạn. Nhưng cái vòng luẩn quẩn thù hận luôn khiến người Băng Thổ mù quáng. Lịch sử Băng Thổ chưa bao giờ hết đẫm máu là vì thế… Cứ làm điều anh muốn, Khai Y. Phục vụ đại thánh sứ Tây Minh cũng là cách hay, đừng để người ta nhìn xứ Băng Thổ là đám dã man. Khi nào gặp lại Tây Minh, cho ta gửi lời xin lỗi.
Tôi cúi đầu xin lỗi cha vì những rắc rối mà mình gây nên. Để dọn dẹp đống hổ lốn ở Đông Môn Cao Lầu, cha phải chi hàng núi tiền, nhờ vả các mối quan hệ mới sắp xếp ổn thỏa. Nhưng cha chỉ mệt mỏi xua tay tỏ ý không bận tâm. Cha dễ giận dữ nhưng cũng dễ tha thứ. Lát sau ông nói rằng sẽ trao lại quyền thừa kế cho tôi và coi như mảnh giấy từ mặt chưa từng tồn tại nhưng tôi lắc đầu:
-Giấy đóng dấu triện rồi, giờ cha xóa đi, người trong họ sẽ bàn tán. Con sẽ tìm đường khác. Thời gian còn nhiều, đợi ngày con chứng tỏ được năng lực bản thân, cha quyết định lại cũng chưa muộn.
Cha đồng ý, ông nâng ly rượu chúc tôi may mắn. Sau nhiều sóng gió, sự yên bình đã quay lại tòa biệt thự và gia đình tôi vui vẻ đón năm mới. Cùng thời gian, sợi dây tình cảm xuất hiện kết nối tôi với Hạn Lý. Không ép buộc hay miễn cưỡng, nó xuất hiện như một điều hiển nhiên. Dù rằng hình bóng hoa trà thỉnh thoảng lẩn vẩn tâm trí tôi, dù rằng mọi người trong gia đình vẫn nhớ về một nàng Hạ Nga Chi tóc đen đầy bí ẩn nhưng cuộc sống này vẫn cứ tiếp diễn, ta phải học cách quên người mà ta từng dành trọn yêu thương hay ấn tượng. Trên đời có thể tồn tại một thứ gọi là “vĩnh cửu”, nhưng chắc chắn rằng trong sự vĩnh cửu ấy không có tình yêu.
Cuối tháng 1, tôi tạm biệt Hạn Lý rồi theo chân thầy Tây Minh làm nhiệm vụ. Theo thói quen, tôi viết nhật ký hành trình đều đặn một tháng hai lần. Vừa mở sổ, trái tim tôi khựng lại khi mỗi trang giấy đều có tranh vẽ Mục Á chưa kể cánh hoa trà ép khô ở ngăn bìa. Tôi đã yêu Mục Á như thế nhưng đáng tiếc em không hiểu cho tôi. Nỗi đau phản bội còn nguyên trong khi trái tim đã có người khác, tôi định bỏ cuốn sổ song không nỡ. Không đơn thuần là nhật ký, nó còn chứa nhiều thông tin hữu ích về vùng đất đã đi qua, đối thủ mà tôi từng đụng độ hay những tổ chức bí mật. Thành thử mỗi tối, tôi cặm cụi chép thông tin sang cuốn sổ mới, còn số phận cuốn sổ cũ thế nào thì đợi khi xong việc mới quyết định. Nếu tôi giận dữ, nó sẽ bị đốt. Còn nếu tôi bình tâm hơn, nó sẽ vĩnh viễn chôn mình đâu đó giữa thế giới rộng lớn này. Nhưng thẳm sâu cùng tận trái tim, tôi muốn giữ nó bên mình cho đến ngày xuống mồ.
Đôi khi ta giữ lại niềm đau bởi nó là hiện thân của những cảm xúc đẹp đẽ nhất, hạnh phúc nhất cuộc đời.
Có dạo thầy Tây Minh hỏi mượn cuốn sổ cũ để tìm tư liệu. Tôi hơi ngại khi thầy nhìn mấy bức vẽ, chốc chốc lại bật cười như giễu cợt quá khứ ngốc nghếch của tôi. Nhưng gương mặt thầy bỗng đanh lại khi lật trang giữa sổ nhật ký, ánh mắt dán chặt lên hình vẽ gồm các dấu ấn mang biểu tượng vòng cung lẫn dấu chấm. Thứ này luôn xuất hiện sau cổ Mục Á mỗi khi em có cảm xúc, em từng hứa sẽ kể cho tôi nguồn gốc của nó nhưng lời hứa không bao giờ thành hiện thực. Thầy Tây Minh hỏi tại sao tôi biết hình vẽ dấu ấn, tôi liền trả lời thành thực. Nghe xong, thầy thừ người ra đoạn lẩm bẩm:
-Thảo nào khi gặp cô gái đó, ta có cảm giác lạ lạ… cách đây hơn nửa thế kỷ, hồi còn là thánh sứ tập sự, ta từng gặp một phụ nữ như vậy…
Nhớ lại ngày gặp Mục Á, thầy có nhiều biểu hiện khác hẳn tính cách thường ngày, tôi bèn hỏi:
-Thầy nói gì thế? Em không hiểu, thầy nói rõ ràng hơn được không?
Thầy Tây Minh ngó hình vẽ sau đăm đăm nhìn tôi bằng ánh mắt phân vân. Ban đầu thầy định thôi nhưng tôi gặng hỏi, thầy đành trả lời:
-Nó là “dấu ấn nô lệ”. – Thầy chỉ lên hình vẽ – Chắc anh biết lịch sử Băng Thổ hình thành từ đâu chứ?
-Em có nghe cha kể chuyện. – Tôi đáp – Cha nói rằng chế độ nô lệ rất thịnh hành ở Băng Thổ thời phi cơ giới. Sau một thời gian, các nô lệ đứng lên phản kháng và giành quyền tự chủ, cuối cùng hình thành Băng Thổ như ngày nay. Nhưng “dấu ấn nô lệ” là cái gì?
-Một phép thuật xác định đẳng cấp xã hội. – Thầy Tây Minh nói – Nó gắn chặt lên đời cha mẹ, đứa con đẻ ra cũng mang theo dấu ấn này. Hầu hết dòng họ gây dựng Băng Hóa đều xuất thân từ nô lệ, họ Xuy Hạ của anh cũng vậy. Khi giành được Băng Hóa, các dòng họ tìm cách xóa bỏ “dấu ấn nô lệ”, sau nhiều thế hệ, họ đã thành công. Chỉ duy nhất một người không bao giờ xóa bỏ nó, ông ta nói rằng không được quên nguồn gốc của mình. Đó là người nô lệ nổi tiếng nhất đồng thời là nhân vật mà người Băng Hóa các anh tôn sùng nhất: Biệt Liên Đại Đế.
Tôi há hốc mồm vì không biết thầy Tây Minh lấy thông tin đó từ đâu ra. Nhấp ngụm trà, thầy tiếp tục:
-Chắc anh biết dòng họ Biệt Liên cai trị Băng Hóa suốt thời phi cơ giới và thoái vị khi bắt đầu kỷ nguyên hiện đại? Phải, họ chọn cách rút khỏi dòng chảy lịch sử. Nhưng địa vị họ Biệt Liên vẫn đặc biệt tôn quý, bởi có câu châm ngôn cổ xưa rằng “dòng máu Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn hòa bình”. Hẳn anh đã từng nghe? Vậy chắc anh cũng biết tại sao họ Biệt Liên biến mất chứ?
Tôi gật đầu. Lịch sử Băng Thổ nói chung và Băng Hóa nói riêng bi thảm hơn bất cứ đâu trên thế giới bởi hận thù chém giết, dòng họ Biệt Liên nằm trong số đó. Hơn nửa thế kỷ trước, các tướng lĩnh quân đội Băng Hóa đảo chính, họ bắt đầu chế độ độc tài bằng việc thảm sát dòng họ Biệt Liên. Tới nay người ta vẫn truyền miệng câu chuyện mười bảy thành viên họ Biệt Liên bị đám tướng lĩnh lôi ra đại sảnh hoàng cung, đủ già trẻ lớn bé nam nữ. Mười bảy sinh mạng bị trói chặt tay, quỳ thành hàng ngang, từng người từng người một đổ gục bởi phát bắn sau gáy. Họ Biệt Liên tuyệt diệt, máu nhuộm đỏ sảnh, Băng Hóa rơi vào thời kỳ đen tối nhất kỷ nguyên hiện đại. Mãi tới ngày cố hoàng đế – người mà tôi gọi là cụ ngoại – giành thắng lợi cuộc nội chiến, hòa bình mới lập lại. Nhưng kể từ thời khắc họ Biệt Liên rời khỏi thế giới, Băng Thổ hiếm dịp yên bình. Sau nội chiến Băng Hóa, đám tướng lĩnh nọ bỏ trốn về phía nam lục địa và lập ra Lực Lượng Mù Thủy chống đối Băng Hóa tận bây giờ. Khu nam lục địa chưa bao giờ ngớt tiếng súng.
-Trong vụ thảm sát đó chỉ có một người phụ nữ mang thai chạy thoát, tên là Biệt Liên Đa Xuyến. Bà ấy gặp thầy ta, nhờ thầy lưu giữ thông tin về dòng họ Biệt Liên trước khi bỏ trốn. – Thầy Tây Minh kể tiếp – Bà ấy nói không cần danh phận hay tiền bạc, chỉ cần con trai bà được sống. Ở thời điểm đó, chính trường Băng Hóa rất phức tạp, người phụ nữ họ Biệt Liên chỉ tin tưởng mỗi thầy ta. Nhưng giữa hoàn cảnh nguy hiểm, khí chất dòng họ đế vương trên người Biệt Liên Đa Xuyến vẫn không suy giảm. Nó giống hệt Mục Á…
-Nói thế… nói thế tức là…
-Người phụ nữ họ Biệt Liên chẳng nói đi đâu dù thầy của ta cố hỏi. Nhưng giờ mọi chuyện rất rõ ràng. Ta nghĩ bà ấy tới Vương Quốc Cũ, thay đổi tên họ, che giấu thân phận, sinh ra một cậu con trai tên là Mục Du Cổ. Chuyện tới đây thì cậu biết rồi. Phải, Mục Á là người cuối cùng mang dòng máu đại đế Băng Hóa quốc.
Tôi hơi khó thở. Sau cuộc nói chuyện, tôi trằn trọc suốt đêm không ngủ nổi. Tôi cá thầy Tây Minh lẫn lộn trí nhớ chuyện nọ xọ chuyện kia, dù gì thầy cũng nhiều tuổi nên dễ kể chuyện hoang đường. Vả lại tính thầy hơi tếu, đôi lúc thích trêu chọc người khác cho vui chưa biết chừng.
Nhưng nỗi tò mò thôi thúc tôi khám phá sự thật. Vừa vào đợt nghỉ phép, tôi tức tốc đến Vương Quốc Cũ. Tôi gặp vài người già cả và hỏi họ về Mục Du Cổ, họ cho biết ông ta sinh ra rồi lớn lên ở đây tới khi mẹ mất, bà mẹ tên là Mục Ngỗ Phiến. Mục Du Cổ đặt theo họ mẹ vì không có cha. Bằng cái giọng khò khè khó nghe, một bà già cao tuổi kể với tôi rằng Mục Ngỗ Phiến đến từ nơi xa xôi, luôn che đậy dung nhan bằng muội than lẫn tuyết trắng nhưng một khi lớp bẩn thỉu biến mất, bà lộ ra vẻ đẹp khác thường mà không phụ nữ nào tại xứ sở này có được. Người đàn bà ấy sống lặng lẽ, khép kín tâm tư nhưng luôn giúp đỡ mọi người nếu cần. Mục Du Cổ thừa hưởng đức tính của bà, đường tới Vương Quốc Cũ dễ dàng hơn là nhờ bàn tay ông ta.
Nhiều năm trôi qua, cư dân vùng hẻo hút này vẫn chẳng biết mẹ con Mục Du Cổ là ai. Vài câu chuyện kể trên không thể thuyết phục tôi rằng họ mang dòng máu Biệt Liên Đại Đế. Nhưng đám người già cho hay tôi không phải người đầu tiên hỏi về Mục Du Cổ; cách đây hơn một năm, vài người đến đây cũng hỏi điều tương tự, trên cổ áo đeo huy hiệu mặt trời mọc sau núi. Tôi biết rõ biểu tượng này bởi nó chính là gia huy dòng họ Xuy Hạ. Cũng hơn một năm trước, cha tôi có vài biểu hiện khác lạ khi nói về Mục Á, hồi đó ông hứa yêu thương em như con đẻ nhưng không thể cho em làm con dâu chính thức. Không thể có chuyện cả cha tôi lẫn thầy Tây Minh ngẫu nhiên hành xử như vậy. Tôi lập tức quay về Băng Hóa thành cùng hàng tá thắc mắc. Nhiều khả năng cha sẽ im lặng nếu tôi hỏi, nhưng tôi biết một người thông hiểu mọi chuyện trong nhà và quan trọng hơn là không bao giờ từ chối tôi.
-Bác quản gia, bác biết chuyện Mục Á, đúng không? Rốt cục nó là thế nào?
Câu hỏi đường đột của tôi khiến người quản gia khó xử. Bác từ chối trả lời. Nhưng khi tôi nói về chuyến hành trình tới Vương Quốc Cũ, cả câu chuyện hoang đường mà thầy Tây Minh kể, người quản gia mới thở hắt một hơi nặng nề. Bác kể ngay lần đầu tiên gặp gỡ, cha tôi cảm giác Mục Á có điều bất thường. Ông tin rằng cách nói năng đầy kính ngữ cổ xưa của em không phải luyện tập, càng không phải do học mót sách vở mà di truyền qua huyết thống. Sau khi cử người tới Vương Quốc Cũ điều tra cộng thêm những tài liệu riêng trong thư viện họ Xuy Hạ, ông xác định Mục Á chính là hậu duệ của ngài Đại Đế. Thuở xa xưa, ông tổ Xuy Hạ gần gũi ngài đại đế, hai bên trao đổi qua lại nên mọi thông tin đều xác thực. Để tăng phần chắc chắn, tôi yêu cầu người quản gia mở thư viện và tìm cuốn phả hệ họ Biệt Liên – nó là tài liệu cấm. Cuốn phả hệ cho biết trước vụ thảm sát kinh hoàng, họ Biệt Liên tổng cộng mười tám người cả thảy. Và theo tài liệu lịch sử chính thống, người duy nhất không có mặt trong vụ thảm sát là một phụ nữ tên Biệt Liên Đa Xuyến thuộc dòng máu trực hệ. Số phận Đa Xuyến đến giờ vẫn là bí ẩn, có tài liệu nói bà chết trong vụ đảo chính, lại có tài liệu khẳng định bà đã trốn thoát.
-Nhiều dòng họ góp phần vào vụ thảm sát như hỗ trợ tiền bạc cho đám đảo chính, chỉ điểm, cung cấp thông tin. – Người quản gia nói – Nhưng vì thiếu bằng chứng, cố hoàng đế hay cụ cố ngoại của cậu không thể xử lý họ. Cha cậu tin rằng đám người đó còn dây mơ rễ má với Lực Lượng Mù Thủy. Thế nên nếu cưới cậu, Mục Á sẽ bị điều tra. Cậu đâu lạ thói tọc mạch của quý tộc Băng Thổ? Nếu biết sự thật, Mục Á và cả cậu sẽ gặp nguy hiểm, cả nhà này trở thành mục tiêu cho Lực Lượng Mù Thủy. Vậy nên cha cậu sẽ “yêu thương Mục Á như con đẻ” mà không thể cho cô ấy làm con dâu chính thức là vì vậy.
Tôi bần thần không nói được câu nào, bàn tay vô thức lật cuốn phả hệ. Trang kế tiếp có hình vẽ “dấu ấn nô lệ” của họ Biệt Liên, đồng thời chỉ rõ đặc điểm loại dấu ấn này. Nó chính là thứ xuất hiện trên cổ Mục Á, không sai một li một tấc. Người quản gia tiếp lời:
-Ngày cậu bỏ nhà đi, cha cậu đã bí mật gặp Mục Á rồi hỏi sự tình. Cô ấy biết rõ thân phận của mình, bởi lẽ cha cô ấy dạy mọi thứ từ việc dùng kính ngữ, cách nói chuyện của người Băng Thổ đến cả dòng máu đế vương. Nhưng cha cô ấy cũng dặn rằng không bao giờ được về Băng Hóa, ở đây quá nguy hiểm. Nói tới đây, chắc cậu hiểu tại sao Mục Á dám liều mạng về Băng Hóa thành rồi trình diễn trước mặt hàng trăm quý tộc chứ?
Tôi vô thức nhìn hình vẽ cây phả hệ họ Biệt Liên, khung cảnh trước mắt mấy lần nhòe đi như sóng nhiễu. Tôi hỏi tiếp:
-Vậy chắc cha cháu cũng biết Mục Á từng sống ở Diệp quốc?
-Phải, cha cậu đã tới Diệp quốc và gặp ông bà ngoại Mục Á. Họ là quý tộc thượng đẳng bên Diệp quốc, họ còn sống, họ biết rõ Mục Á làm Hạ Nga Chi ở Hoàng Hôn Cảng. Họ nói sau cái chết của cha mẹ, Mục Á không còn phương hướng. Cô ấy nghĩ mình bị nguyền rủa nên từ bỏ danh phận tiểu thư, lang thang khắp nơi sau đấy tự vào Đông Môn Cao Lầu để cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài. Nhiều lần họ cố gắng khuyên nhủ nhưng Mục Á từ chối trở về. Danh phận bên Diệp quốc có tính truyền thừa giống chúng ta nên theo danh nghĩa, Mục Á vẫn là tiểu thư ở Diệp quốc.
-Nếu cô ấy trình diện trước hoàng đế Băng Hóa và công khai danh tính thật, vậy thì… – Tôi nói bâng quơ.
Người quản gia gật đầu:
-Máu họ Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn hòa bình. Xét theo luật lệ nguyên gốc, Mục Á phải ở vị trí xứng đáng nhất. Họ Biệt Liên từng có nữ hoàng, vậy nên…
Tôi bật cười. Im lặng hồi lâu, tôi hỏi người quản gia:
-Vậy Mục Á từ bỏ vì…
-Vì cậu quá cứng rắn. – Người quản gia trả lời – Mục Á biết cậu không bao giờ lấy hai người làm vợ. Cô ấy không muốn cậu rời bỏ họ Xuy Hạ, cũng không muốn cả nhà này trở thành mục tiêu của Lực Lượng Mù Thủy. Trên hết Mục Á sợ cậu gặp nguy hiểm, Mục Á sợ điều đó hơn hết thảy. Cha cậu nói với tôi rằng Mục Á nghĩ cho cậu nhiều hơn bất ai, bất cứ thứ gì…
Tôi chợt nhớ buổi đêm ở Hoàng Hôn Cảng, Mục Á ôm tay tôi chặt đến mức như sắp cào xé da thịt mình. Hẳn rằng ngày ấy em khó khăn lắm mới chọn cách cứu vãn tương lai của tôi thay vì thu vén hạnh phúc cho riêng mình. Như cha em, như người bà nội, như ngài đại đế Biệt Liên chiến đấu cho cả lục địa, em luôn nghĩ cho người khác. Mãi mãi là vậy.
Nếu trên đời tồn tại một thứ là “vĩnh cửu” thì tình yêu không nằm trong số đó, nhưng sự hy sinh và đau đớn thì có. Chúng vẫn tồn tại kể cả khi thế giới này sụp đổ, cả khi thời gian không tồn tại.
Vài ngày sau tôi cùng Hạn Lý đi xem nhạc kịch, hôm đó nhà hát công chiếu vở diễn “Trà Hoa Nữ”. Có một phân cảnh tôi nhớ nhất là nhân vật nữ chính tặng đóa trà kép cho người yêu, ngụ ý mãi mãi trân trọng tình cảm của chàng trai. Tôi chợt nhớ mình cũng có một đóa trà kép trong cuốn nhật ký hành trình. Nhớ lại đêm quậy phá ở Hoàng Hôn Cảng, tôi nhận ra vài điều bất ổn. Sau buổi chiếu, tôi hỏi Hạn Lý:
-Khi đó em không hề biết tôi đang ở Hoàng Hôn Cảng, đúng không? Đừng sợ, Hạn Lý, tôi chỉ muốn biết thôi. Là ai gọi em tới? Trả lời trung thực nhé!
Biết không thể giấu tôi mãi, Hạn Lý buộc phải kể. Dù biết rõ câu trả lời nhưng trái tim tôi vẫn đau nhói…
*
* *
Hạn Lý kể rằng ngày tôi quậy phá Đông Môn Cao Lầu, Mục Á không hề tiếp khách mà thu mình trong phòng riêng. Mục Á tránh gặp vì muốn tôi quên hẳn em, coi em như một gái điếm cơ hội chỉ biết tiền bạc. Nhưng em không thể ngồi yên mãi khi tôi bị đánh, nếu không phải em can ngăn sớm, tôi đã chết ở Cao Lầu. Em đưa tôi đến bệnh viện, gọi điện cho cha tôi thông báo tình hình rồi gọi cả ông bạn Đại Bác. Ba ngày đầu tiên, em không về làm việc mà chăm sóc cho tôi bất chấp ông chủ Cao Lầu đe dọa. Sang ngày thứ tư, em nhờ cha tôi gọi cho Hạn Lý. Cuộc gặp giữa những đàn bà tình địch luôn căng thẳng, Hạn Lý và Mục Á cũng vậy:
-Tại sao cô gọi tôi? – Hạn Lý hỏi.
-Vì tôi thỉnh cầu tiểu thư chăm sóc anh ấy. – Mục Á trả lời đoạn cúi người.
Tại thời điểm đó, Hạn Lý vẫn giận tôi vì chuyện hủy hôn. Nàng xẵng giọng:
-Tại sao tôi làm phải vậy? Tại sao tôi phải nghe lời cô?
-Vì tiểu thư vẫn yêu Khai Y, nếu không tiểu thư đã chẳng đến đây. – Mục Á nói – Tôi không thể đồng hành với Khai Y nữa, tôi không xứng với Khai Y, chỉ có tiểu thư thích hợp nhất. Từ nay về sau mong tiểu thư chăm sóc anh ấy. Nếu còn yêu Khai Y, tiểu thư hãy chiến đấu cho tình yêu đó. Tiểu thư còn nhớ lời tôi không? Đàn ông đã thống trị thế giới bằng máu của họ, chỉ còn sót mỗi tình yêu, chúng ta phải chiến đấu giành giật nó, đừng để họ làm nốt.
-Tôi có nghe chuyện giữa cô và Khai Y. Chẳng phải cô bỏ Khai Y vì anh ấy mất quyền thừa kế? – Hạn Lý nói – Vậy thế này là sao?
Mục Á cười tươi:
-Chỉ kẻ ngu ngốc mới nghĩ chuyện thừa kế ảnh hưởng đến Khai Y. Anh ấy sẽ là người đàn ông vĩ đại, sẽ làm được nhiều điều lớn lao mà chẳng cần gia sản hay danh phận quý tộc. Nhưng Khai Y không thể vĩ đại nếu tôi còn ở bên anh ấy, tôi chỉ là gánh nặng làm con chim ưng mỏi cánh. Tiểu thư khác, tiểu thư có thể làm con chim ưng đó bay xa hơn thế.
Hạn Lý nhìn em hồi lâu rồi hỏi:
-Biết như vậy mà cô vẫn buông bỏ Khai Y?
Hạn Lý nói rằng nàng không thể quên những gì diễn ra sau đó. Trước mắt nàng, Mục Á ôm chặt khuôn mặt mà chẳng thể nào ngăn được dòng nước mắt chảy qua kẽ ngón tay như thác tuôn qua vách đá, chảy mờ gò má đỏ hồng giữa ngày đầu đông như sông dâng nước tràn bờ. Rồi Mục Á tự đấm ngực liên hồi, giọng lạc đi:
-Đau lắm, nhưng phải thế thôi… tôi đau lắm… nhưng đành phải thế…
*
* *
Nghe xong chuyện, tôi không hỏi thêm nữa mà đưa Hạn Lý về nhà. Trên đường về, tôi nắm chặt tay nàng rồi lảng chuyện khác. Tôi không muốn nàng thấy những mảnh nứt vỡ đầy yếu đuối trong tâm hồn mình. Ít ngày sau, tôi nói với nàng mình cần đến Hoàng Hôn Cảng. Trông vẻ mặt Hạn Lý hiện nét sợ sệt, tôi bèn ôm lấy nàng rồi hôn lên trán như một cách trấn an. Tôi hứa sẽ về sớm. Sau nhiều đấu tranh nội tâm, Hạn Lý đồng ý để tôi đi.
Tôi trở lại Hoàng Hôn Cảng vào tháng 6. Đang đợt hè, nắng ấm, tuyết chậm rãi phủ không gian gợi chuyện cũ. Như một thói quen cố hữu, tôi dạo bước trên những cung đường quen thuộc. Có chút buồn, có nhung nhớ nhưng không còn giận dữ hay đau đớn như cách đây một năm. Bằng cách nào đó mà thế giới mục ruỗng bên trong tôi đã lành lặn, một tay Mục Á gây dựng thế giới đó và cũng một tay em chữa lành cho nó. Nhưng tôi tự hỏi ai sẽ cứu giúp thế giới bên trong em?
Tôi không đến Cao Lầu mà quan sát khu chợ trời, trực giác mách bảo tôi Mục Á sẽ xuất hiện. Tôi đoán không lầm. Dăm ngày sau, tôi nhận ra mái tóc đen xõa dài của em lang thang quanh cửa hàng hoa, dĩ nhiên là hoa trà. Em vẫn đẹp, vẫn vóc dáng cao gầy cùng đôi mắt sắc tỏa ánh trăng đêm, nhưng ánh mắt em buồn bã ưu tư khiến những đóa trà gần đấy vì vậy mà hon héo. Bỗng Mục Á quay lại và giật thót khi nhận ra tôi đứng sau lưng em từ lúc nào. Em hoảng hốt:
-Khai Y… sao anh ở đây?
-Tôi đến lâu rồi. Em đi cùng tôi nhé?!
Tôi ngoảnh đầu về hướng tây. Mục Á trả lời bằng đôi mắt lạnh lẽo, hệt như ngày em nói chia tay:
-Không, em đang bận. Em nói rồi, Khai Y, em bận lắm!
-Em biết không tự dưng tôi đến đây. – Tôi nói – Đi với tôi, có lẽ đây là lần cuối đấy.
Dứt lời, tôi cất bước. Mục Á nghĩ ngợi đôi chút rồi bước theo, ánh mắt băng giá dần tan chảy. Chúng tôi rời khu chợ trời rồi lang thang quanh bờ sông. Suốt quãng đường đó, chúng tôi hoàn toàn im lặng như hai người xa lạ vô tình bước chung một lối. Mãi khi bước lên dãy núi tuyết phía tây, tôi mới mở lời. Tôi kể cho em mọi điều mình nghe từ thầy Tây Minh, người quản gia và Hạn Lý. Mục Á không xác nhận bất cứ câu hỏi nào của tôi mà mải miết che đậy những sầu khổ trong lòng. Nhưng cố gắng bao nhiêu, em vụng về bấy nhiêu. Em cố gắng cười lạnh nhạt nhưng bàn tay bóp chặt lẫn nhau, em cố nói lời xa cách mà hàm răng cắn môi đau đớn, em cố tỏ ra đã quên tôi mà cánh mũi phập phồng hơi thở thổn thức. Tôi cười sự vụng về của Mục Á, mà cũng đau xót cho em.
-Tôi sẽ cưới Hạn Lý. – Tôi nói với Mục Á – Cô ấy chịu đựng nhiều vì tôi. Tôi yêu cô ấy.
-Tốt cho anh thôi. – Mục Á trả lời – Chúc hai người hạnh phúc.
-Thế còn em? – Tôi hỏi – Em tính sau này thế nào?
Bàn tay Mục Á bóp chặt nhau đến đỏ lựng, em toan trả lời mà không nổi. Giữa tuyết ươm mùi hoàng hôn ấm áp tháng 6, Mục Á rúm người lại, trông nhỏ bé vô cùng. Thế giới đầy hạnh phúc mà chỉ mình em lạnh buốt. Tôi hỏi:
-Ở bên tôi, em hạnh phúc không?
Mục Á ngoảnh mặt không đáp. Tôi rờ mái tóc Mục Á, em vội vàng lùi bước, mặt mũi đỏ lựng:
-Bỏ ra, Khai Y. Anh có người khác rồi, đừng lại đây! Em hét lên đấy!
Bất chấp những lời phản đối hay đe dọa, tôi vẫn tiến tới, dồn Mục Á vào gốc cây rồi ôm lấy em. Em đấm rồi tát tôi mấy lần, nhưng bàn tay em yếu dần, cho tới khi nó luồn qua mái tóc màu hổ phách và run rẩy từng cơn nức nở. Mục Á hết khóc lại cười, bàn tay thanh tú rờ những ngón đầy đặn quanh gương mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ mạch xung động của trái tim Mục Á đập liên hồi trên đầu ngón tay, ngửi được hơi thở khao khát tìm kiếm hạnh phúc tuôn ra từ khuôn miệng tô son đỏ, thấy cả thế giới đầy mảnh chắp vá trong lòng em. Nhưng bằng nỗ lực tột cùng, em gỡ tay tôi rồi khoác lên mình tấm áo xa cách. Lúc này tôi biết mình không thể đụng chạm em nữa, tôi nói:
-Em nên về Băng Hóa thành. Máu họ Biệt Liên còn chảy, Băng Thổ còn yên bình. Em không thể ở bên ngoài làm Hạ Nga Chi mãi được.
-Họ Biệt Liên không còn liên quan đến lịch sử nữa. – Mục Á trả lời – Cha em nói vai trò của họ Biệt Liên đã chấm dứt. Cha anh cũng đề nghị như thế nhưng em đã từ chối. Sau này đừng tìm em nữa, hứa nhé?! Nếu còn tình cảm cho em, nếu còn nghĩ cho em, anh phải hứa!
Tôi nhận ra tình yêu mà Mục Á dành cho tôi lớn đến mức em dám đối xử tàn nhẫn với bản thân. Tôi nhắm mắt gật đầu, em cười tươi. Thở dài một chặp, tôi hỏi:
-Tôi mãi mãi không thể gặp em hay sao?
-Người Đông Thổ tin rằng thế giới này chỉ là một trong nhiều thế giới, kiếp sống này chỉ là một trong nhiều kiếp sống khác nhau.
-Vậy…
-Hẹn anh ngày khác, thế giới khác, thời gian khác. – Mục Á mỉm cười – Cảm ơn anh, cảm ơn rất nhiều. Bay thật xa nhé, Khai Y!
Dứt lời, Mục Á cúi thấp lưng rồi từ biệt tôi. Tôi vẫn nhớ ngày đó em không quay đầu nhìn lại nhưng bóng dáng liêu xiêu như sắp ngã xuống tuyết. Dù vậy tôi không níu kéo hay gọi tên Mục Á. Em đối xử với tôi bằng thứ tình yêu lớn lao nhất mà người phụ nữ có thể làm, tôi không thể phụ công sức của em.
Có những thứ yêu thương lớn đến mức không thể nói thành lời.
Nửa năm sau, tôi kết hôn với Hạn Lý. Chúng tôi có hai nhóc tỳ, một trai một gái, cô con gái hiền hậu giống Hạn Lý còn ông con trai bướng bỉnh y hệt tôi. Tôi tiếp tục công việc hộ vệ thánh sứ cho tới ngày thầy Tây Minh nghỉ hưu, một tiểu quốc ở Thượng Cổ phong tôi làm quốc vụ khanh danh dự vì giúp họ giải quyết nội chiến. Hai đứa con tôi đòi đến đó vì ở đấy người ta có dựng tượng tôi bên cạnh thầy Tây Minh, cơ mà tôi không thích lắm vì bức tượng hào nhoáng quá thể và phi thực. Gã nào đó đã gắn lên bức tượng một đôi cánh to phự như cánh đại bàng, mà thực tế đó là chiếc diều bay tôi mượn từ Đại Bác lúc làm nhiệm vụ. Kể từ đó người ta hay gọi tôi là “Ưng Tuyết Khai Y”. Về phần Đại Bác, gã tiếp quản Đại Lộ Đỏ, tật xấu hám gái vẫn vậy, chỉ duy một chuyện khác biệt là gã gia nhập Bảy Người Mạnh Nhất. Cơ mà Đại Bác có vẻ không quan tâm lắm. Suốt năm tháng ấy, tôi vẫn mang theo cuốn nhật ký hành trình đựng cánh hoa trà kép ép khô dù nó chẳng còn chỗ mà viết.
Tôi gia nhập quân đội Băng Hóa và trở thành thủ lĩnh quân viễn chinh, giống vị trí mà Khai Nhạn từng đảm nhiệm. Đôi lúc Hạn Lý giận tôi vì xa nhà quá nhiều, cũng có đợt chúng tôi cãi nhau vì mấy chuyện bất hòa không đáng có. Nhưng sau rốt tôi làm lành với nàng, dù sao nàng cũng thiệt thòi hơn tôi. Dăm năm sau, cha tôi bị thương trong một vụ ám sát hụt, các vệ sĩ kể rằng tên sát thủ nọ có mái tóc màu đỏ và biết dùng bí kỹ điều khiển gió giống hệt tôi. Nói về bí kỹ điều khiển gió, tôi lại nhớ thủ lĩnh Tiểu Đoàn Kiếm Sắt. Khi ấy ông ta là kẻ mạnh nhất thế giới, tôi tái ngộ ông ta ở Băng Thổ, đánh một trận từ nửa đêm đến tảng sáng. Tôi thừa nhận mình vẫn yếu hơn nhưng không đến mức thua thiệt giống thuở trước. Cuối cuộc chiến, người đó mời tôi điếu thuốc và bia chai. Một người thú vị. Vì trận chiến này, chợ rác Uất Hận Thành gửi thư đề nghị tôi gia nhập Bảy Người Mạnh Nhất nhưng noi theo thầy Tây Minh, tôi từ chối. Thi thoảng mọi người lại nhắc về Khai Nhạn, nỗi đau vẫn còn đó nhưng không ai khóc. Độ ấy nhiều chuyện, tôi hầu như quên bẵng hoa trà.
Tôi bước lên vị trí đại thống lĩnh quân đội Băng Hóa, đồng thời tiếp quản dòng họ Xuy Hạ thay cha. Ông đã già, cũng chẳng còn ham thích chính trị hay quân sự. Tôi dần quen việc cười nói như cái máy để thỏa lòng đám họ hàng phiền phức hay lừa phỉnh đám chính trị gia. Thằng nhóc Khai Giã bé cỏn con ngày nào giờ cao ngang tôi, lúc nào nó cũng mang bộ mặt lạnh giá. Không lạ khi Khai Giã trở thành thánh sứ mạnh nhất Băng Hóa bởi nó tàn nhẫn hơn bất cứ ai. Đôi lúc Khai Giã hỏi tôi về Mục Á nhưng tôi không trả lời. Mục Á là sợi dây duy nhất liên kết tôi và Khai Giã. Năm tháng đó, tôi bắt đầu hoài niệm chuyện cũ. Tôi tự hỏi Mục Á đã đi đâu hay làm gì? Tôi cử người hỏi Đông Môn Cao Lầu, tin báo rằng em rời khỏi đấy từ năm 7506, không rõ đi đâu. Tôi muốn tìm em nhưng vì lời hứa năm xưa, tôi đành dằn lòng mình.
Nhưng thế giới Tâm Mộng chưa bao giờ hết tàn nhẫn. Liên minh tại lục địa Băng Thổ tan rã, các hiệp ước trở thành giấy vụn, vị thế Băng Hóa bị lung lay hơn bao giờ hết. Vị hoàng đế Băng Hóa mới không được thông tuệ như người bác ruột của tôi, ông ta phát ngôn đao to búa lớn nhưng chẳng làm được bao nhiêu. Khai Giã ngày càng khó kiểm soát, nó phá hỏng nỗ lực hàn gắn liên minh của tôi, tự mình bước lên ngôi vị Tổng Lãnh Thánh Sứ. Chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành diễn ra và tôi bàng hoàng khi biết thầy Tây Minh đã ra đi. Nhưng tôi chỉ kịp gửi hoa qua Đại Bác, chuyện nội bộ Băng Hóa quốc làm tôi không thể dự tang thầy. Cùng năm đó, cha tôi mất vì bệnh lẫn thương tật từ vụ ám sát. Trước lúc nhắm mắt, cha bảo tôi phải tìm “Mục Á”. Vốn không tin vào số phận nhưng ở tình thế rối ren hiện tại, tôi bắt đầu tin vào điều huyền bí.
Năm 7518, mười lăm năm sau ngày chia tay Mục Á, tôi vẫn nhớ về em. Tôi đoán em vẫn đẹp, vẫn kiêu sa mê hồn người. Lúc rảnh rỗi, tôi thường trông về phía đông nơi Đồng Gió thét gào, lẩm nhẩm lại lời bài hát mà Mục Á từng ca vũ tại dạ tiệc. Nhưng nỗi nhớ em không làm tôi buông xuôi, ngược lại càng khiến tôi thêm gắn bó người vợ và gia đình mình. Bởi lẽ cuộc sống hiện tại của tôi đều do Mục Á sắp đặt.
Có những tình yêu lớn lao đến độ ta trân trọng thay vì mong muốn chiếm đoạt nó.
Một ngày đầu năm 7518, người quản gia bước vào phòng tôi. Tuy già nhưng bác vẫn quán xuyến mọi công việc gia đình. Bác nói có một người tóc đỏ xin gặp tôi, cậu ta biết về Mục Á. Tôi nhớ ngày dạ tiệc, Mục Á mặc chiếc váy đỏ. Ngày chia tay, em tặng tôi một đóa trà kép đỏ. Còn giờ đây, em xuất hiện qua một người có mái tóc đỏ. Dường như số phận đang xoay những vòng lặp kỳ lạ của riêng nó. Tôi mở cuốn nhật ký hành trình năm nào và ngắm nghía bông trà kép khô ở trang bìa. Mười lăm năm, nó vẫn tươi tắn tuyệt đẹp. Rượu còn nhiều, tôi còn muốn kể cho các vị nhiều lắm! Ha ha! Nhưng xin lỗi các vị, tôi phải gặp anh chàng nọ. Để khách chờ lâu là không tốt.
/334
|