Sự vụ ở Cổ Lâu Trấn buộc Tiểu Hồ phải đổi lộ trình. Thay vì băng băng đi thẳng, cô gái ngược lên hướng bắc rồi vòng một quãng đường dài gấp bốn lần để tới điểm cuối cùng của khe nứt vĩ đại. Nàng không ghé qua thị trấn, mọi chuyện ăn ngủ đều trên xe, nhỡ cần vệ sinh thì giải quyết ở ven đường. Cụ Cố Tổ ghét vụ này. Ông già cần mua rượu, những chai rẻ tiền sắp hết và ổng không muốn đụng tới thứ rượu thượng hạng mua từ Phi Thiên thành. Nốc một mớ của nả hàng trăm thùng vàng trôi xuống ruột sau đó theo ra ngoài bằng đường bài tiết, cụ cố không đành lòng. Tiểu Hồ kiên quyết từ chối:
- Không! Chúng ta không vào thị trấn! Cháu không nhắc lại nữa đâu! Chúng ta lên bảng tin truy nã rồi! Ngài nghĩ Tinh Ngôn Gia chịu ngồi yên? Ông ta đang lùng sục chúng ta khắp Tây Vực Châu. Chúng ta không thể đối đầu quân đội Bắc Thần quốc! Ngài có thể nhưng cháu thì không!
- Mày nghĩ ta ngu chắc, con nhãi? Chẹp chẹp! – Cụ cố chép miệng – Nếu là truy nã thật thì đừng nói ta, ngay cả Bất Vọng hoặc Liệt Giả cũng không thể thoát khỏi nơi này. Biết tại sao không? Vì người Bắc Thần chỉ tử tế với kẻ đã chết. Nhưng yên tâm đi, thằng nhóc Ly Đốc và bọn phục vụ sẽ giải quyết hết. Nó được việc lắm...
- Không là không! – Tiểu Hồ nổi đóa cắt ngang – Cháu không vào thị trấn! Nếu ngài muốn thì đường ai nấy đi!
Một, hai giây sau, Tiểu Hồ nhận ra mình vừa hét vào mặt người mạnh thứ hai thế giới, lòng bất giác run sợ. Nhưng Cụ Cố Tổ chỉ hằm hằm kéo mũ trùm kín mặt rồi ngả ghế ngáy phì phò. Tiểu Hồ thở phào. Ông già nóng tính thành quen nhưng có lẽ không chấp đứa nhãi con như nàng. Sự thật là nàng bịa chuyện nhằm tránh ông già gây sự. Đúng như cụ cố nói, chẳng có thông báo lệnh truy nã hay lệnh phong tỏa nào, Tây Vực Châu vẫn thanh bình trong khói bụi ô nhiễm như bao lâu nay vẫn thế. Tiểu Hồ phỏng đoán “đám giúp việc” của Cụ Cố Tổ đã giải quyết tất cả.
Kể từ đó hai người không trò chuyện, chỉ còn chiếc xe điện độc thoại suốt cuộc hành trình. Chiếc xe đi theo con đường vòng nằm ngoài khu khai thác, hoang vu và ít được cải tạo, đa phần là những lối mòn hằn lốt bánh xe cơ giới do đám buôn lậu đi lâu mà thành hình. Từ sớm, dân buôn lậu đã khai thác tuyến đường này để chở hàng hóa vào khu khai thác hoặc thị trấn, đồng thời mang vật liệu thừa cùng sản phẩm kém chất lượng ra ngoài. Đường mòn gồ ghề đá cứng lõm ổ gà trũng ổ trâu, chiếc xe điện hiếm khi nào cân bằng mà thường xuyên lắc lư, chốc chốc gằn tiếng máy vượt những hố sụt với cái miệng lởm chởm ngoạm chặt bánh. Chiếc xe muốn hai con người ngồi trong lên tiếng.
Nhưng mọi nỗ lực của chiếc xe đều vô ích, người lái cứ lái còn người ngủ cứ ngủ. Nó đành lầm lũi chạy dưới mặt trời trắng dã tựa con mắt trợn ngược, bóng hình nhỏ bé chậm rãi kẻ một vệt khói bụi li ti qua vùng đất đá xám khổng lồ trọc thụi lụi không một bóng cây xanh. Có lúc nó bị nuốt chửng bởi cái bóng của dãy núi lởm chởm thủng lỗ chỗ như tổ mối trải khắp từ phía bắc xuống phía tây. Tây Vực Châu vốn ảm đạm vì khí quyển ô nhiễm, những cái bóng còn u ám hơn. Tiểu Hồ nhỏng cổ ngó mấy lỗ thủng và nhận ra bên cạnh chúng là nhiều máy đào chỏng chơ, giàn giáo xây dở hoặc máy xúc hỏng hóc. Đã có giai đoạn người Bắc Thần tới đây và đặt mìn phá đá tìm mỏ quang tố. Họ phá liên tục rồi cũng bỏ liên tục vì chẳng đào được một mảnh kim loại nào, vứt lại hàng tá máy móc cùng vô số vết thương cho dãy núi.
Dãy núi dài mãi dài mãi, chiếc xe đi từ trưa đến chiều muộn vẫn không hết. Trời tối nhanh, Tiểu Hồ bật đèn pha rọi đường. Nàng phát hiện vài đoạn chân núi phập phồng vô số bọng khí ú nu màu vàng lợt, chúng vỡ ra rồi tiếp tục mưng mủ bọng khí mới. Dù ngồi trong xe nhưng Tiểu Hồ vẫn ngửi được mùi hôi thối loảng thoảng. Chúng là hậu quả từ việc đào sâu mà không tính toán, không khảo sát nên đụng trúng khối khí ngầm độc hại. Một thời kỳ khai phá của người Bắc Thần kết thúc bằng công trường ngổn ngang, những hàng rào quây tạm bợ quanh hố khí ngầm và một vùng đất không sự sống. Thật khó tưởng tượng Tây Vực Châu từng có thuở tươi xanh tốt lá như Cụ Cố Tổ nói. Tiểu Hồ muốn nghe kể về thời kỳ đẹp đẽ đó, ngặt nỗi nàng đang tránh mặt Cụ Cố Tổ. Phía bên kia, ông già cũng im lặng, bộ mặt sàu sạu như quả cam ủng. Cụ cố giận Tiểu Hồ vì không cho ổng mua rượu.
Mãi khi đêm xuống, Tiểu Hồ và Cụ Cố Tổ mới chịu mở miệng. Hai người họ chẳng giống nhau điểm gì trừ việc cần nghe cái gì đấy trước lúc ngủ. Giữa nơi đồng không mông quạnh tối đen như mực, thứ duy nhất đáp ứng được nhu cầu “nghe cái gì đấy” là máy phát thanh trên xe điện. Tiểu Hồ thích âm nhạc – lẽ thường ở các cô gái trẻ, và loại nhạc mà nàng thích không xập xình cũng chát chúa như búa đinh chọc vào tai người già. Cụ Cố Tổ dĩ nhiên không ưa, bèn đổi sang chương trình thời sự Bắc Thần quốc. Tiểu Hồ chẳng vừa, đợi ông già thiu thiu ngủ thì chuyển kênh. Bị nhạc nhẽo đánh thức, cụ cố bực mình đổi kênh cũ. Vậy là cuộc chiến giành máy phát thanh diễn ra, ông già không nhường còn cô gái ngoan cố chẳng kém. Sau rốt cụ cố đe dọa:
- Này con nhãi, nếu mày tiếp tục nghe thứ nhạc chết tiệt đó thì chúng ta xong việc nhé! Đường ai nấy đi, thế nào?
Tiểu Hồ đắn đo, cuối cùng ấm ức chịu thua. Lúc nàng quay đi, cụ cố thở phì phò đằng mũi, đấm đùi phanh phách thể hiện sự chiến thắng tuyệt đối. Kênh thời sự Bắc Thần quốc thì chán không thể tả. Đám biên tập viên Bắc Thần nói nhiều, nói nhanh như súng bắn nhưng chỉ quanh đi quẩn lại chủ đề ca ngợi hoàng đế lẫn chính phủ, phô trương sức mạnh kinh tế Bắc Thần quốc hoặc sức mạnh quân sự khối liên minh Nhất Thống Cục. Thi thoảng họ mời mấy cô gái dễ thương chui lên từ lỗ nẻ nào đấy và phỏng vấn dăm câu hỏi chính trị nhằm câu khách, trong khi những câu trả lời – vốn được soạn thảo sẵn – thì không mấy khác biệt. Tiểu Hồ không chịu nổi, đành trùm áo khoác lên mặt và cố quăng mình vào giấc ngủ.
- Tại sao mày tìm Lập Hoa Ngân Thôn Cơ, con nhóc? – Cụ Cố Tổ mở lời, xem chừng đã chán cảnh im lặng ở vùng đất hoang vu – Mày biết tại sao thằng nhóc Tây Minh phải nhờ ta dẫn mày đi gặp Thôn Cơ không? Thứ nhất: không thể tìm Ngũ Pháp Sư nếu không biết cách. Thứ hai: Ngũ Pháp Sư không thân thiện như đám thánh sứ, chúng nguy hiểm như lũ nhện bỏ bùa. Ta ghét thánh sứ nhưng phải thừa nhận điều đó. Ta đã gặp con bé Thôn Cơ vài lần, nó là một đứa quái gở! Mày muốn gì từ đứa quái gở đó, con nhãi tóc vàng?
Tiểu Hồ không trả lời. Cụ Cố Tổ cũng giống màn đêm ở Tây Vực Châu: gió thổi vi vu song thi thoảng rù rù vài ngọn roi gió bụi bặm quất ô cửa xe điện, bóng tối đen sầm giấu trong mình hằng sa bí mật mà chẳng ai dám tìm hiểu dù rằng nó chưa gây hại hay bộc lộ sự nguy hiểm nào. Ngày rời Phi Thiên thành, nàng đã nghe Bất Vọng cảnh báo đủ điều và ngay cả bức thư của Tây Minh cũng không có dòng nào khuyên nàng nên đặt niềm tin Cụ Cố Tổ. Ở trường hợp này, Tiểu Hồ chấp nhận làm đứa con ngoan chứ không định trứng khôn hơn vịt. Vả lại nàng không tin lời ông già vì chẳng ai trên đời quái gở như ổng – nàng dám khẳng định điều ấy.
- Gần đây bọn chiến binh đồn ầm lên Tuyệt Tưởng Thành đã xảy ra chuyện... – Cụ Cố Tổ ngả ghế –...mấy đứa phục vụ nói với ta rằng Liệt Giả vừa dẫn dụ một thứ gì đó rất kinh khủng đến thế giới này, một thứ gì đó không tồn tại qua sách vở mà truyền miệng qua nhiều thế hệ. Chà, nếu thằng nhóc Liệt Giả dẫn “nó” tới thì hay ho phải biết! Sống đến giờ cũng không uổng!
Nghe vậy, Tiểu Hồ lập tức đoán ra vài chuyện. Nàng không biết thứ kinh khủng nọ có hình dáng ra sao nhưng rõ ràng Liệt Giả đã mở cổng không gian. Trong lĩnh vực tin đồn, nàng hoàn toàn tin tưởng Cụ Cố Tổ.
Hồi đầu năm, Tiểu Hồ đến Diệp quốc. Bằng bức thư tay giới thiệu của công chúa Lục Châu, nàng kết thân và được Thôn Tàng bảo trợ – người mà giờ đây là Phó Tổng Lãnh liên minh Khối Ngũ Giác[1]. Nhờ vậy, nàng có thể tiếp cận các thư viện theo danh sách do đại thánh sứ Tây Minh để lại. Trong thời gian này, Tiểu Hồ phát hiện các tài liệu đều chung một đặc điểm: mọi phiên bản thật của những truyện cổ Diệp quốc chỉ ra sự tồn tại của cổng không gian và nó luôn dẫn về “một nơi có ngọn tháp cao phun ánh sáng lam bạc” – chính là Tuyệt Tưởng Thành cùng tòa tháp Ngọn Xám. Giống anh chàng Từ Thức mà nàng đọc được ở truyện cổ Xích Quỷ, người Diệp quốc cũng có nhiều nhân vật từng đặt chân tới Tuyệt Tưởng Thành. Nói cách khác, con người thuở xa xưa đã biết cổng không gian, nhưng vì lý do nào đấy mà họ giấu nhẹm rồi biến sự thực thành chuyện dọa trẻ con lên ba.
“Cổng không gian thật sự tồn tại sao, cha?” – Tiểu Hồ hỏi đại thánh sứ Tây Minh. Thời điểm nàng đặt câu hỏi là lúc chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành leo thang ác liệt, Hoàng Tử Cát chưa chết và người Tuyệt Tưởng nghĩ họ sắp chiến thắng. “Con từng hỏi nhiều người, hỏi cả các pháp sư hùng mạnh, họ nói cổng không gian là tạo vật chỉ tồn tại trong tưởng tượng, một thứ bẻ cong luật lệ mà con người hằng khao khát nhưng không bao giờ thực hiện được. Tại sao Liệt Giả tìm nó? Nó đâu có thật?” – Nàng tiếp tục.
“Có thể Liệt Giả đã tìm thấy chi tiết quan trọng giữa vô vàn bí mật trên thế giới Tâm Mộng, hoặc đơn giản là niềm tin sắt đá của gã khiến ta bị lung lay. Gã là kiểu người như thế.” – Đại thánh sứ Tây Minh đáp lời – “Nhưng không chỉ Liệt Giả quan tâm cổng không gian. Thầy của ta khi còn sống cũng từng nghiên cứu nó. Ông ấy nói rằng cổng không gian chẳng bẻ cong luật lệ như người ta thường nói, mà hợp nhất toàn bộ quy tắc vật lý lẫn các đại lượng. Muốn thế, phải tìm ra một đường dẫn liên kết toàn bộ đại lượng vật chất hoặc một công thức thỏa mãn toàn bộ quy tắc vật lý, nếu được vậy, cổng không gian sẽ hình thành. Đáng tiếc là thầy nói mấy thứ đó khi ta còn quá trẻ, còn mải miết tìm kiếm vinh quang trong Thời Đại Thủy Triều.”
“Bây giờ thì sao? Cha nghĩ cái cổng đó tồn tại không?” – Tiểu Hồ tiếp lời.
“Ta chưa dám khẳng định, cần phải đọc nhiều tài liệu hơn nữa. Bất luận kết quả cuộc chiến thế nào, ta sẽ ghé qua các thư viện cổ xưa ở phương đông rồi phương bắc. Nhưng tài liệu mà anh bạn Vô Phong tìm kiếm ở thư viện Xích Quỷ rồi quyển sách mà Trần Độ đưa ta đều đề cập cổng không gian. Một sự ngẫu nhiên đáng lưu ý. Vả lại Trần Độ là kẻ thực tế, lão già đó chẳng bao giờ tốn mồ hôi cho chuyện vô căn cứ.”
“Vậy Liệt Giả tính làm gì với cái cổng đó? Ông ta định mở ra cái gì?”
“Ta không biết, con gái. Thế giới vô hạn mà ta thì hữu hạn.” – Tây Minh lúc lắc đầu – “Ta biết vài người có thể giải đáp câu hỏi này. Có lẽ sau cuộc chiến, ta cần gặp họ...”
Dự định của đại thánh sứ Tây Minh không bao giờ thành sự thật và Tiểu Hồ đang nối tiếp công việc đó. Từ cuộc nói chuyện nọ, nàng đã băng qua Diệp quốc rồi có mặt ở đây, ngay giữa nơi hoang vu không bóng người này với một lão già vừa nguy hiểm vừa kém văn minh. Nghĩ ngợi một lúc, Tiểu Hồ hỏi Cụ Cố Tổ:
- “Nó” mà ngài nói là cái gì?
Cụ cố thở phì phì tự mãn, hai cánh mũi nở to. Trêu trọc lũ nhóc khiến chúng phát điên và đặt ra những câu hỏi làm chúng tò mò luôn đứng đầu danh mục tiêu khiển của ông già. Cụ Cố Tổ huơ tay diễn tả:
- Một tạo vật vĩ đại tới nỗi không ai tưởng tượng nổi, một con quái vật không tồn tại ở thế giới Tâm Mộng hay thế giới thực mà chúng ta đang sống. Nó lang thang đâu đó giữa một thế giới đặc biệt mà chẳng đôi mắt hay trí tuệ siêu phàm nào với tới. Vì quá to lớn nên “nó” không được ghi chép cũng không được nhớ tới, nói đúng hơn là chẳng ai rõ chân dạng của nó ra sao mà mô tả. Nhưng từ những kẻ đã chứng kiến, đó là một khoảnh khắc không thể quên, nó sẽ găm vào não chừng nào bộ não đó chưa lủng. “Nó” không có tên vì trước đó có ai biết nó đâu? Nhưng rồi gã anh cả trong Ba Thủ Lĩnh cũng đặt tên cho nó là “Khổng Thú”.
- Quái vật? – Tiểu Hồ hỏi.
- Gọi “quái vật” cũng được. Phàm cái gì mà con người không hiểu hoặc ghê sợ thì đều gọi là quái vật, nhưng biết đâu Khổng Thú lại là một vị tà thần? Hay thậm chí là một vị thần cổ xưa nào đó mà loài người lãng quên? – Cụ Cố Tổ nhún vai – Ta từng nghĩ mình là tất cả, là mọi thứ. Nhưng khi gặp Khổng Thú, ta ngộ ra mình chỉ là một sinh vật nhỏ nhoi. Ta nhận ra trời. Trời vô hạn còn ta hữu hạn. Đừng hỏi ta Khổng Thú đến từ đâu hay có vai trò gì ở thế giới Tâm Mộng, bởi ta cũng tự hỏi mình như thế sau rất nhiều năm. Có một dạo mà ta không thể nhớ là ngày tháng năm nào, khi ngồi cùng anh cả của Ba Thủ Lĩnh, ta đã hỏi Khổng Thú. Đáp lại ta, gã anh cả chỉ lắc đầu, ngay cả gã cũng không biết kia mà! Chẹp chẹp! Nên là... nếu Liệt Giả thực sự mang Khổng Thú đến thì ta rất hứng thú! Ta muốn gặp lại nó thêm lần nữa!
Bóng đèn ở nóc xe rọi rõ những háo hức trong mắt Cụ Cố Tổ. Ông già chẳng quan tâm con quái vật khủng khiếp kia sẽ gây hại thế giới thế nào mà chỉ muốn tận mắt chứng kiến cho thỏa nỗi tò mò cá nhân. Và cụ cố không giấu giếm điều đó. Tiểu Hồ hỏi:
- Cháu biết anh cả của Ba Thủ Lĩnh, thậm chí từng gặp ông ấy. Vậy ngài bao nhiêu tuổi? Ngài đã sống qua thời kỳ nào?
Cụ cố mỉm cười tự đắc rồi cũng giống bao lần khác, ông già tiếp tục im ỉm. Kiêu ngạo vì hiểu biết và giữ rịt những kiến thức trong bí mật, sau đó nở nụ cười mỉa mai trước người trẻ tuổi vốn là đặc trưng của đám đầu bạc, riêng Cụ Cố Tổ nâng tầm nó thành nghệ thuật. Mọi câu trả lời đã sờ sờ trên khóe mép cười nhếch, cái ngả lưng thư thái hay con mắt hấp háy của ông già, tưởng chừng Tiểu Hồ chỉ cần động não một chút là đoán ra. Nhưng chừng nào cụ cố vẫn im lặng thì những phỏng đoán ấy vẫn không được xác nhận. Muốn biết, nàng phải hỏi.
- Vậy... Khổng Thú đến đây bằng cách nào? – Tiểu Hồ lên tiếng, giả bộ mình đã bị cuốn theo nghệ thuật câu tò mò của cụ cố – Ngài nói rằng nó tồn tại ở một khoảng không đặc biệt, tóm lại không phải thế giới thực. Vậy nó tới đây bằng cách nào, ngài biết không?
- Thế thì mày cho ta vào thị trấn mua rượu trước! – Cụ cố quay sang nói.
- Cháu sẽ mua giùm ngài. – Tiểu Hồ trả lời.
- Thế thì còn lâu ta mới kể! – Cụ Cố Tổ quay đi đoạn trùm chăn kín mặt.
- Tùy ngài thôi, cháu cũng không cần biết nhiều. – Tiểu Hồ nhún vai ráo hoảnh – Thế giới vô hạn mà con người hữu hạn, biết nhiều biết nữa cũng chỉ đến thế mà thôi! Chúc ngài ngủ ngon!
Nói rồi cô gái trùm áo lên mặt. Cụ cố không dè con nhãi tóc vàng chơi bài dỗi ngược, trong khi lão mới là người có quyền dỗi. Niềm vui được kiêu ngạo chẳng kéo dài lâu, Cụ Cố Tổ lại một phen nhức đầu vì tiếc rượu ngon. Xe dừng giữa đồng không mông quạnh, cụ cố lết tới thị trấn gần nhất cũng è cành hông bè cơ mông, khéo chừng gãy luôn cột sống. Mà ép buộc Tiểu Hồ nổ xe đi thì cụ cố chẳng đáng mặt người mạnh thứ hai thế giới. Đấu tranh nội tâm mãi, Cụ Cố Tổ gầm gừ:
- Được rồi, ta chịu thua mày, con nhãi! Nghe xong thì nhớ mua rượu cho ta! Nghe đây, ta không rõ Khổng Thú đến thế giới thực bằng cách nào. Chỉ biết rằng khi gã anh cả của Ba Thủ Lĩnh tìm ta nhờ giúp đỡ, con quái vật đã xuất hiện. Ta không rõ tường tận câu chuyện nhưng gã anh cả nói rằng có người đã sử dụng đồ ma thuật, một chiếc đĩa vàng, để mở cánh cổng dẫn Khổng Thú tới. Đại khái là một thằng ngu ngốc nào đó lỡ nghịch dại cái đĩa và con quái vật cứ thế chườn mặt xuống Tâm Mộng thôi!
Tiểu Hồ biết chiếc đĩa vàng, thậm chí chạm vào nó vài lần. Nhưng nàng lắng nghe bằng tâm thế của đứa con nít tò mò chuyện lạ thay vì tỏ ra hiểu biết. Cô gái chống cằm chăm chú, mắt mở to không chớp. Cụ cố trông vậy thì rất hài lòng, ngửa cổ tu một ngụm rượm lớn rồi hào hứng kể:
- Như ta nói, Khổng Thú tồn tại ở thế giới đặc biệt. Để xuất hiện ở thế giới thực, nó cần đi qua một cánh cửa liên kết hai thế giới. Ta có nghe bọn khoa học gia thời nay gọi nó là... cổng không gian à? Trừu tượng vậy? Nhưng gọi là “cổng không gian” vẫn không thể bao hàm hết ý nghĩa. Vì cánh cửa đó là sự thống nhất giữa các phép thuật và mọi nguyên tố trong Ngũ Hành...
- Ý ngài là thống nhất toàn bộ quy tắc vật lý và các đại lượng không – thời gian?
Cụ cố nhìn chằm chằm Tiểu Hồ theo kiểu “Mày đùa ta à?”. Rõ ràng ông già không biết các khái niệm vật lý hay đại lượng không – thời gian. Sự hiểu biết của cụ cố hoàn toàn thuộc về thời đại cũ. Cô gái vội sửa chữa:
- Ý cháu là nếu hợp nhất mọi phép thuật và nguyên tố trong Ngũ Hành, chúng ta sẽ tạo ra cổng không gian?
- Ờ... ờ... nhưng đấy chỉ là một nửa vấn đề, nửa còn lại là “thời gian”. Nếu có loại phép thuật đảo ngược hoặc đẩy nhanh thời gian, cánh cửa sẽ mở. Nhưng trên đời chẳng có thứ phép thuật như vậy.
- Tại sao phải cần thời gian? – Tiểu Hồ hỏi.
Cụ Cố Tổ rút tẩu thuốc, châm lửa rít một hơi đoạn thở ra làn khói mỏng màu xanh lá. Khói quần tụ hình cầu thành thế giới Tâm Mộng với đủ sáu lục địa, hai đại dương cùng chín biển lớn. Cụ Cố Tổ đặt ngón trỏ vào Tây Vực Châu:
- Bây giờ là tám giờ tối ở Tây Vực Châu, còn ở Phi Thiên thành là mười một giờ sáng. Nếu cái gọi là “cổng không gian” tồn tại, nghĩa là mày có thể bước từ đây về Phi Thiên thành qua mười múi giờ! Nếu điều đó thành sự thật, nghĩa là bản thể của mày hiện diện ở hai thời điểm khác nhau. Hiểu theo một cách khác, mày đang du hành đến tương lai hoặc trở lại quá khứ. Để thực hiện điều này, cần có một loại phép thuật ngưng đọng thời gian. Không tính chiếc đĩa vàng thì đó là chuyện bất khả.
- Không cách nào sao? – Tiểu Hồ nghi hoặc.
- Không có cách nào cả. – Cụ cố lắc đầu, ngửa cổ tu rượu tiếp – Thời gian là những lớp màng mỏng đi xuyên qua chúng ta, xuyên qua vạn vật. Nó chưa từng sinh ra cũng không thể biến mất, sự tồn tại của nó bao hàm toàn thế giới này. Nếu quả thực... quả thực có thứ phép thuật gập lại các lớp màng mỏng của thời gian thì phải trả một cái giá tương đương cho nó. Tức là ngưng đọng thời gian ở đây thì phải hoàn trả thời gian ở chỗ khác. Nhưng đó chỉ là lý thuyết! Chẹp chẹp chẹp! Ai mà gập được thời gian? Ta cho mày một tờ giấy mỏng, bất kể to nhỏ ra sao, mày giỏi lắm chỉ gập được nó bảy lần, không hơn! Trong khi thời gian vô định hình, vô định lượng và biến chuyển liên tục, thứ mà ta tưởng là hiện tại thực chất đang thành quá khứ, và thứ mà ta tưởng là tương lai lại trở thành hiện tại. Thời gian mỏng hơn giấy mà cũng dày hơn mọi vật chất. Phép thuật nào gập được cả ba mốc thời gian đó?
Tiểu Hồ hiểu lời cụ cố. Nàng biết tính chất hoàn trả trong phép thuật. Mọi phép thuật đều cần nguồn năng lượng hoặc sự đánh đổi tương đương, nhưng thời gian không phải năng lượng cũng không phải vật thể định hình. Nó nằm ngoài tầm tay con người, thậm chí mọi sự vật hay đại lượng biểu diễn thời gian chỉ là cách diễn giải của con người chứ không phải tự thân nó là vậy. Rốt cục Tiểu Hồ không thể rút ngắn cuộc hành trình, nàng vẫn phải tìm Lập Hoa Ngân Thôn Cơ để hỏi rõ đầu đuôi ngọn ngành.
Im lặng một lát, Tiểu Hồ cất lời:
- Ngài còn người thân không?
Cụ cố không đáp mà ngáy khò khò, chai rượu trong tay vơi quá nửa. Nhưng Tiểu Hồ không tin ông già uống ngần ấy đã say. Có lẽ cụ cố không muốn trả lời, giống màn đêm Tây Vực Châu chỉ hiện lên những bóng hình đầy nghi vấn mà không cho lời giải đáp. Màn đêm có bí mật, Cụ Cố Tổ cũng vậy.
...
Ngủ được khoảng năm tiếng, Tiểu Hồ tiếp tục lái xe xuôi theo hướng tây nam, nhằm thẳng tới điểm cuối khe nứt vĩ đại. Dọc đường, cô gái đứng tim vài phen khi gặp quân đội Bắc Thần quốc. Họ đi tuần hoặc kiểm soát những lối dẫn vào khu công nghiệp chính hết sức nghiêm ngặt, không bỏ qua bất cứ xe cơ giới nào dù khách lạ hay người quen. Tiểu Hồ đã bám theo một đoàn xe buôn lậu có tiếng là “nhẵn mặt” ở Tây Vực Châu nhưng vẫn không thể lọt qua trạm kiểm soát. Đám lính sục sạo khắp xe của Tiểu Hồ, lôi ra một nùi vũ khí, thiết bị do thám hoặc súng đạn. Và tất nhiên họ lôi ra cả Cụ Cố Tổ. Bị làm phiền giấc ngủ, ông già nổi quạu:
- Làm gì thế? Không thấy người già nghỉ ngơi à? Ta cắt lưỡi chúng mày bây giờ?!
Nhìn ông già, đám lính Bắc Thần to nhỏ kháo nhau rồi kiểm tra giấy thông hành của Tiểu Hồ. Đọc một lúc, họ tái xanh mặt mũi đoạn nhanh chóng mở cửa cho Tiểu Hồ đi qua. Đó không phải là thái độ trọng thị mà giống tiễn vong đuổi tà. Cả bốn lần Tiểu Hồ gặp lính Bắc Thần quốc đều chung một kịch bản. nàng không biết gã Ly Đốc và đám phục vụ đã giở trò gì hay bản thân Cụ Cố Tổ là cái gì, nhưng ít nhất nàng không phải đọ súng, đấu kiếm hay chạy trối chết như lúc ở Cổ Lâu Trấn.
Hai ngày sau mớ rắc rối tại Cổ Lâu Trấn, nhóm Tiểu Hồ đã tới điểm cuối khe nứt vĩ đại. Ở đây có một thị trấn vô danh, ít người sinh sống và cũng là thị trấn cuối cùng của Tây Vực Châu. Từ đây lên phía bắc là một vùng hoang mạc chỉ toàn đá cứng, không có bất cứ đường mòn công trình nhân tạo nào. Cũng từ đây đi ra phía tây sẽ bắt gặp một hoang mạc lớn có tuyến đường sắt thông sang Chi Chiếu quốc – nước láng giềng của Bắc Thần quốc nhưng không thuộc liên minh Nhất Thống Cục, mà là thành viên của Trục Chữ Thập do Lưu Vân quốc đứng đầu. Ở đây chỉ có một đội bảo vệ do các ông chủ nhà máy lập nên Tiểu Hồ dễ dàng tiến vào thị trấn.
So với toàn bộ Tây Vực Châu, thị trấn vô danh này xếp chót bảng về mức độ tiện nghi và đứng đầu bảng mức độ ô nhiễm không khí. So với Cổ Lâu Trấn, nó quả thực là một chốn nhà quê chuồng gà chuồng vịt. Không nơi tụ tập giải trí, không biển hiệu quảng cáo cũng không có một cửa tiệm đúng nghĩa, thị trấn quả thực rất thích hợp cho những ông bà già sắp chết hoặc kẻ muốn tìm kiếm nơi tốt nhất để tự tử. Thứ duy nhất ồn ào và rền rĩ là nhà máy tái chế kim loại, nơi làm việc duy nhất đồng thời là công việc của đa số người dân. Thị trấn không có xưởng lọc khí nên khói bụi đóng tầng đóng tảng trong không khí, bằng mắt thường cũng nhận ra, nên ai nấy đều kè kè mặt nạ phòng độc mọi nơi mọi lúc.
Và rất khó để mua bán nếu không hỏi thăm dân bản địa. Các cửa hàng trong thị trấn vô danh bán đủ thứ tạp phí lù, không chuyên biệt loại mặt hàng nào. Tiểu Hồ đã nghĩ mấy nơi bán thực phẩm có rượu nhưng thực tế nơi duy nhất bán rượu lại là tiệm sửa chữa da giày. Cô gái cùng Cụ Cố Tổ đến tiệm, bà già chủ hàng lục ra một chai rượu khắm lặm mùi da giày đoạn đưa cụ cố, giọng cắn cảu:
- Còn đúng một chai! Một đồng vàng nhé!
Một đồng quá đắt cho một chai rượu nhưng Cụ Cố Tổ chẳng để tâm. Cụ cố ném đồng vàng cho bà chủ hàng, hỏi:
- Hàng bán nồi vẫn còn chứ? Chủ hàng chưa chết chứ hả?
- Vẫn bán, thằng cha điên khùng đó... – Bà chủ hàng chữa giày bĩu môi chỏng lỏn –...thời nào rồi còn nặn đất làm nồi? Ngày nào cũng bày một lô một lốc tràn ra đường, không thể chịu nổi! Sao thằng chả không chết luôn cho rồi?!
Trước bà già độc mồm độc miệng, cụ cố chỉ cười hề hề. Ông già cởi mặt nạ phòng độc, nhấp thử tí rượu cho lợm giọng rồi nhổ toẹt xuống đất, mồm lẩm bẩm chửi “Cái con khỉ, toàn cồn!”. Nhưng sau rốt cụ cố vẫn nốc thứ cồn ấy vào ruột, cười cười nói nói:
- Lâu lâu mới tái ngộ kẻ giữ cửa đền Mộc Thần. Bao lâu rồi? Ba thế kỷ không? Chẹp chẹp! Khó nhớ quá! Lúc ta trao lại ngôi đền Mộc Thần cho người kế nhiệm, hắn chỉ là thằng nhóc học việc. Một đứa bé khá xinh trai. Còn giờ, hờ hờ, thằng bé xinh trai đó chắc đã rụng hết răng. Hắn tên là... tên là... con khỉ! Quên mất rồi! Ta chỉ nhớ ta thường gọi hắn là Mắt Xanh!
- Ngài quên sao? – Tiểu Hồ hỏi kháy.
- Bộ não chỉ có thể lưu trữ các sự kiện trong ba trăm năm đổ lại. – Cụ Cố Tổ gõ gõ vào thái dương – Ta chỉ nhớ những gì ấn tượng nhất thôi! Đừng cười, con nhãi, thử sống lâu như ta và mày sẽ hiểu thế nào là thời gian thực sự.
Cụ cố khệnh khạng bước nhưng không có vẻ gì là quên đường. Ông già dẫn Tiểu Hồ vòng qua những tòa nhà bê tông xập xệ, mái tôn đóng két bụi và những ô cửa sổ giăng màng ngăn không khí bẩn. Cuối cùng họ dừng lại trước cửa hàng bán nồi. Nó đích xác là cửa hàng duy nhất ở thị trấn này có biển hiệu và buôn bán đúng thứ mặt hàng mà biển hiệu quảng cáo. Bán Nồi – chỉ một chữ duy nhất như thế, bên dưới tấm biển la liệt những chiếc nồi đất. Hàng tá nồi kiểu cổ xưa với miệng rộng, thân bè, thích hợp cho món nấu hầm hàng tiếng đồng hồ của người Bắc Thần. Đến giờ người Bắc Thần quốc vẫn thích và ăn những món đó, nhưng không phải ở đây, không phải Tây Vực Châu này, nơi mà cuộc sống công nghiệp biến con người thành máy móc. Nồi xếp đống thành chồng một, tất cả bạc màu tựa cuộc đời bạc bẽo. Có lẽ chúng đã ở đây hàng trăm năm nhưng không một ai thèm nhìn ngó. Thậm chí ngay cả chủ nhân cửa hàng cũng biến đi đâu chẳng rõ.
Lúc này, kẻ duy nhất chịu nhìn ngó đống nồi là Cụ Cố Tổ. Ông già nhón chân lần mò giữa các chồng nồi, lật cái nọ xem cái kia rồi lớn giọng:
- Còn vạc không? Ta cần cái vạc! Mắt Xanh, mày có nhà không?
Có tiếng lệch xệch lách cách từ bên trong cửa hàng vọng ra. Cửa mở, liền sau đó xuất hiện một ông già cao tuổi lưng còng, khoác trên người một nùi giẻ rách – chúng thực sự là “giẻ rách” vì không thể phân biệt được đâu là tay áo và đâu là vạt áo. Trên đầu ông già đeo chiếc kính to tướng chắn bụi, cổ khoác mấy chiếc máy kỳ quặc như máy đo đạc. Nhưng dù kỳ dị, già cỗi hay xơ xác tới đâu, ông ta vẫn hiện lên những nét đặc biệt như mái tóc màu nâu và đôi mắt màu xanh thẳm. Tiểu Hồ hơi ngờ ngợ. Trông thấy Cụ Cố Tổ, ông chủ bán nồi Mắt Xanh nọ há hốc miệng:
- Ngài?! Thực sự là ngài?! Ngài đã quay về!
- Phải, là ta. – Cụ cố đáp – Mày chưa chết hả? Tốt, ta cần một cái vạc, mày hiểu ý ta chứ? Một cái vạc! Ta có đầy đủ ba món đồ vật ở đây rồi, không cần lo. Có gì ăn không? Mày có tủ lạnh chứ?
Ông chủ bán nồi vừa gật đầu, cụ cố liền tót vào nhà ngay. Dáng vẻ của ông chủ khiến Tiểu Hồ ngờ ngợ, nhìn mãi không thôi. Nàng nhận ra khuôn mặt ông ta có những nét góc cạnh của dân phương tây, không phải người phương đông, nhất là cái mũi thẳng tắp khoằm khoằm như mỏ chim ưng. Quan trọng hơn cả, nàng cảm giác có thứ gì đấy hết sức quen thuộc. Ông chủ bán nồi nhìn Tiểu Hồ, mở lời:
- Ta nhớ mặt từng đứa phục vụ của cụ cố. Thi thoảng chúng qua đây lấy nguyên liệu. Bé con không phải một trong số chúng. Nhưng trên đời chẳng mấy ai được đi cùng Cụ Cố Tổ, bé con thuộc số ít đó. Vậy ngươi muốn hỏi ta điều gì?
Đôi mắt xanh thẳm của ông già làm Tiểu Hồ khó thở. Nàng biết một cặp mắt tương tự đang ngồi trên ngai vàng Phi Thiên thành và cũng sắp sửa rời khỏi ngai vàng đó. Cô gái hỏi:
- Ngài là ai? Tại sao ngài có đôi mắt giống Bạch Dương Đệ Thập? Tôi biết đôi mắt này!
- Thế bé con là ai mà biết Bạch Dương Đệ Thập? – Ông chủ bán nồi hỏi lại.
- Tôi là Tiểu Hồ, hộ vệ thánh sứ của công chúa Lục Châu, con gái Bạch Dương Đệ Thập. Từ bé tôi đã gặp ngài Đệ Thập. – Tiểu Hồ trả lời.
Ông chủ hàng bán nồi ngó xuống Tiểu Hồ. Bấy giờ cô gái mới để ý ông ta tuy còng lưng nhưng vẫn cao hơn mình một chút. Người đàn ông dùng mấy cái máy đeo cổ soi Tiểu Hồ một lượt rồi đáp:
- Không nói dối. Được thôi, ta sẽ trả lời. Ta họ Bạch Dương, tên Lục Triều. Nói cách khác, ta là tổ tiên của Bạch Dương Đệ Thập và con bé Lục Châu. Cháu gái Lục Châu của ta vẫn khỏe chứ?
- Vâng... vâng... công chúa vẫn khỏe, thưa ngài! – Tiểu Hồ lắp bắp – Nhưng tại sao ngài ở đây?
- Chuyện rất dài. Thời gian, ôi thời gian! – Lục Triều thở dài – Nhưng ngươi có thể hiểu rằng Ngũ Pháp Sư từng can thiệp chính trị thế giới, khi ấy họ còn nhiều tiếng nói. Để làm tin và cầu cạnh khi cần, các dòng họ lớn mà thường là dòng họ đế vương sẽ gửi con cái mình theo Ngũ Pháp Sư. Mẹ ta, Bạch Dương Đệ Tứ, nữ hoàng đầu tiên của Phi Thiên quốc đã gửi ta tới đền thờ Mộc Thần. Ta từng chủ trì đền thờ này cho tới khi trao lại nó cho Lập Hoa Ngân Thôn Cơ và trở thành người canh giữ đền. Vào đi, bé con, hãy ăn một bữa trước khi tiến vào đền thờ. Có bánh bột mì, trứng, thịt hun khói và pho-mát, hy vọng ngươi sẽ thích.
Ông chủ hàng bán nồi ghé đầu mời Tiểu Hồ vào nhà cùng nụ cười thân thiện. Tiểu Hồ ngơ ngác bước theo, mặt nghệt ra còn hai lỗ tai ù ù. Nàng không biết Cụ Cố Tổ đang giữ rịt bao nhiêu bí mật nữa. Ở một nghĩa khác, Cụ Cố Tổ chính là nếp gập thời gian, nơi hội tụ của quá khứ, hiện tại và tương lai. Vả lại, bản thân con vượn già kém văn minh đó chính là phép thuật. – Tiểu Hồ dợm nghĩ.
[1]: xem lại Quyển 3 Chương 124, Tiểu Hồ đã nhờ công chúa viết một bức thư gửi cho Thôn Tàng trước khi đến Diệp quốc
- Không! Chúng ta không vào thị trấn! Cháu không nhắc lại nữa đâu! Chúng ta lên bảng tin truy nã rồi! Ngài nghĩ Tinh Ngôn Gia chịu ngồi yên? Ông ta đang lùng sục chúng ta khắp Tây Vực Châu. Chúng ta không thể đối đầu quân đội Bắc Thần quốc! Ngài có thể nhưng cháu thì không!
- Mày nghĩ ta ngu chắc, con nhãi? Chẹp chẹp! – Cụ cố chép miệng – Nếu là truy nã thật thì đừng nói ta, ngay cả Bất Vọng hoặc Liệt Giả cũng không thể thoát khỏi nơi này. Biết tại sao không? Vì người Bắc Thần chỉ tử tế với kẻ đã chết. Nhưng yên tâm đi, thằng nhóc Ly Đốc và bọn phục vụ sẽ giải quyết hết. Nó được việc lắm...
- Không là không! – Tiểu Hồ nổi đóa cắt ngang – Cháu không vào thị trấn! Nếu ngài muốn thì đường ai nấy đi!
Một, hai giây sau, Tiểu Hồ nhận ra mình vừa hét vào mặt người mạnh thứ hai thế giới, lòng bất giác run sợ. Nhưng Cụ Cố Tổ chỉ hằm hằm kéo mũ trùm kín mặt rồi ngả ghế ngáy phì phò. Tiểu Hồ thở phào. Ông già nóng tính thành quen nhưng có lẽ không chấp đứa nhãi con như nàng. Sự thật là nàng bịa chuyện nhằm tránh ông già gây sự. Đúng như cụ cố nói, chẳng có thông báo lệnh truy nã hay lệnh phong tỏa nào, Tây Vực Châu vẫn thanh bình trong khói bụi ô nhiễm như bao lâu nay vẫn thế. Tiểu Hồ phỏng đoán “đám giúp việc” của Cụ Cố Tổ đã giải quyết tất cả.
Kể từ đó hai người không trò chuyện, chỉ còn chiếc xe điện độc thoại suốt cuộc hành trình. Chiếc xe đi theo con đường vòng nằm ngoài khu khai thác, hoang vu và ít được cải tạo, đa phần là những lối mòn hằn lốt bánh xe cơ giới do đám buôn lậu đi lâu mà thành hình. Từ sớm, dân buôn lậu đã khai thác tuyến đường này để chở hàng hóa vào khu khai thác hoặc thị trấn, đồng thời mang vật liệu thừa cùng sản phẩm kém chất lượng ra ngoài. Đường mòn gồ ghề đá cứng lõm ổ gà trũng ổ trâu, chiếc xe điện hiếm khi nào cân bằng mà thường xuyên lắc lư, chốc chốc gằn tiếng máy vượt những hố sụt với cái miệng lởm chởm ngoạm chặt bánh. Chiếc xe muốn hai con người ngồi trong lên tiếng.
Nhưng mọi nỗ lực của chiếc xe đều vô ích, người lái cứ lái còn người ngủ cứ ngủ. Nó đành lầm lũi chạy dưới mặt trời trắng dã tựa con mắt trợn ngược, bóng hình nhỏ bé chậm rãi kẻ một vệt khói bụi li ti qua vùng đất đá xám khổng lồ trọc thụi lụi không một bóng cây xanh. Có lúc nó bị nuốt chửng bởi cái bóng của dãy núi lởm chởm thủng lỗ chỗ như tổ mối trải khắp từ phía bắc xuống phía tây. Tây Vực Châu vốn ảm đạm vì khí quyển ô nhiễm, những cái bóng còn u ám hơn. Tiểu Hồ nhỏng cổ ngó mấy lỗ thủng và nhận ra bên cạnh chúng là nhiều máy đào chỏng chơ, giàn giáo xây dở hoặc máy xúc hỏng hóc. Đã có giai đoạn người Bắc Thần tới đây và đặt mìn phá đá tìm mỏ quang tố. Họ phá liên tục rồi cũng bỏ liên tục vì chẳng đào được một mảnh kim loại nào, vứt lại hàng tá máy móc cùng vô số vết thương cho dãy núi.
Dãy núi dài mãi dài mãi, chiếc xe đi từ trưa đến chiều muộn vẫn không hết. Trời tối nhanh, Tiểu Hồ bật đèn pha rọi đường. Nàng phát hiện vài đoạn chân núi phập phồng vô số bọng khí ú nu màu vàng lợt, chúng vỡ ra rồi tiếp tục mưng mủ bọng khí mới. Dù ngồi trong xe nhưng Tiểu Hồ vẫn ngửi được mùi hôi thối loảng thoảng. Chúng là hậu quả từ việc đào sâu mà không tính toán, không khảo sát nên đụng trúng khối khí ngầm độc hại. Một thời kỳ khai phá của người Bắc Thần kết thúc bằng công trường ngổn ngang, những hàng rào quây tạm bợ quanh hố khí ngầm và một vùng đất không sự sống. Thật khó tưởng tượng Tây Vực Châu từng có thuở tươi xanh tốt lá như Cụ Cố Tổ nói. Tiểu Hồ muốn nghe kể về thời kỳ đẹp đẽ đó, ngặt nỗi nàng đang tránh mặt Cụ Cố Tổ. Phía bên kia, ông già cũng im lặng, bộ mặt sàu sạu như quả cam ủng. Cụ cố giận Tiểu Hồ vì không cho ổng mua rượu.
Mãi khi đêm xuống, Tiểu Hồ và Cụ Cố Tổ mới chịu mở miệng. Hai người họ chẳng giống nhau điểm gì trừ việc cần nghe cái gì đấy trước lúc ngủ. Giữa nơi đồng không mông quạnh tối đen như mực, thứ duy nhất đáp ứng được nhu cầu “nghe cái gì đấy” là máy phát thanh trên xe điện. Tiểu Hồ thích âm nhạc – lẽ thường ở các cô gái trẻ, và loại nhạc mà nàng thích không xập xình cũng chát chúa như búa đinh chọc vào tai người già. Cụ Cố Tổ dĩ nhiên không ưa, bèn đổi sang chương trình thời sự Bắc Thần quốc. Tiểu Hồ chẳng vừa, đợi ông già thiu thiu ngủ thì chuyển kênh. Bị nhạc nhẽo đánh thức, cụ cố bực mình đổi kênh cũ. Vậy là cuộc chiến giành máy phát thanh diễn ra, ông già không nhường còn cô gái ngoan cố chẳng kém. Sau rốt cụ cố đe dọa:
- Này con nhãi, nếu mày tiếp tục nghe thứ nhạc chết tiệt đó thì chúng ta xong việc nhé! Đường ai nấy đi, thế nào?
Tiểu Hồ đắn đo, cuối cùng ấm ức chịu thua. Lúc nàng quay đi, cụ cố thở phì phò đằng mũi, đấm đùi phanh phách thể hiện sự chiến thắng tuyệt đối. Kênh thời sự Bắc Thần quốc thì chán không thể tả. Đám biên tập viên Bắc Thần nói nhiều, nói nhanh như súng bắn nhưng chỉ quanh đi quẩn lại chủ đề ca ngợi hoàng đế lẫn chính phủ, phô trương sức mạnh kinh tế Bắc Thần quốc hoặc sức mạnh quân sự khối liên minh Nhất Thống Cục. Thi thoảng họ mời mấy cô gái dễ thương chui lên từ lỗ nẻ nào đấy và phỏng vấn dăm câu hỏi chính trị nhằm câu khách, trong khi những câu trả lời – vốn được soạn thảo sẵn – thì không mấy khác biệt. Tiểu Hồ không chịu nổi, đành trùm áo khoác lên mặt và cố quăng mình vào giấc ngủ.
- Tại sao mày tìm Lập Hoa Ngân Thôn Cơ, con nhóc? – Cụ Cố Tổ mở lời, xem chừng đã chán cảnh im lặng ở vùng đất hoang vu – Mày biết tại sao thằng nhóc Tây Minh phải nhờ ta dẫn mày đi gặp Thôn Cơ không? Thứ nhất: không thể tìm Ngũ Pháp Sư nếu không biết cách. Thứ hai: Ngũ Pháp Sư không thân thiện như đám thánh sứ, chúng nguy hiểm như lũ nhện bỏ bùa. Ta ghét thánh sứ nhưng phải thừa nhận điều đó. Ta đã gặp con bé Thôn Cơ vài lần, nó là một đứa quái gở! Mày muốn gì từ đứa quái gở đó, con nhãi tóc vàng?
Tiểu Hồ không trả lời. Cụ Cố Tổ cũng giống màn đêm ở Tây Vực Châu: gió thổi vi vu song thi thoảng rù rù vài ngọn roi gió bụi bặm quất ô cửa xe điện, bóng tối đen sầm giấu trong mình hằng sa bí mật mà chẳng ai dám tìm hiểu dù rằng nó chưa gây hại hay bộc lộ sự nguy hiểm nào. Ngày rời Phi Thiên thành, nàng đã nghe Bất Vọng cảnh báo đủ điều và ngay cả bức thư của Tây Minh cũng không có dòng nào khuyên nàng nên đặt niềm tin Cụ Cố Tổ. Ở trường hợp này, Tiểu Hồ chấp nhận làm đứa con ngoan chứ không định trứng khôn hơn vịt. Vả lại nàng không tin lời ông già vì chẳng ai trên đời quái gở như ổng – nàng dám khẳng định điều ấy.
- Gần đây bọn chiến binh đồn ầm lên Tuyệt Tưởng Thành đã xảy ra chuyện... – Cụ Cố Tổ ngả ghế –...mấy đứa phục vụ nói với ta rằng Liệt Giả vừa dẫn dụ một thứ gì đó rất kinh khủng đến thế giới này, một thứ gì đó không tồn tại qua sách vở mà truyền miệng qua nhiều thế hệ. Chà, nếu thằng nhóc Liệt Giả dẫn “nó” tới thì hay ho phải biết! Sống đến giờ cũng không uổng!
Nghe vậy, Tiểu Hồ lập tức đoán ra vài chuyện. Nàng không biết thứ kinh khủng nọ có hình dáng ra sao nhưng rõ ràng Liệt Giả đã mở cổng không gian. Trong lĩnh vực tin đồn, nàng hoàn toàn tin tưởng Cụ Cố Tổ.
Hồi đầu năm, Tiểu Hồ đến Diệp quốc. Bằng bức thư tay giới thiệu của công chúa Lục Châu, nàng kết thân và được Thôn Tàng bảo trợ – người mà giờ đây là Phó Tổng Lãnh liên minh Khối Ngũ Giác[1]. Nhờ vậy, nàng có thể tiếp cận các thư viện theo danh sách do đại thánh sứ Tây Minh để lại. Trong thời gian này, Tiểu Hồ phát hiện các tài liệu đều chung một đặc điểm: mọi phiên bản thật của những truyện cổ Diệp quốc chỉ ra sự tồn tại của cổng không gian và nó luôn dẫn về “một nơi có ngọn tháp cao phun ánh sáng lam bạc” – chính là Tuyệt Tưởng Thành cùng tòa tháp Ngọn Xám. Giống anh chàng Từ Thức mà nàng đọc được ở truyện cổ Xích Quỷ, người Diệp quốc cũng có nhiều nhân vật từng đặt chân tới Tuyệt Tưởng Thành. Nói cách khác, con người thuở xa xưa đã biết cổng không gian, nhưng vì lý do nào đấy mà họ giấu nhẹm rồi biến sự thực thành chuyện dọa trẻ con lên ba.
“Cổng không gian thật sự tồn tại sao, cha?” – Tiểu Hồ hỏi đại thánh sứ Tây Minh. Thời điểm nàng đặt câu hỏi là lúc chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành leo thang ác liệt, Hoàng Tử Cát chưa chết và người Tuyệt Tưởng nghĩ họ sắp chiến thắng. “Con từng hỏi nhiều người, hỏi cả các pháp sư hùng mạnh, họ nói cổng không gian là tạo vật chỉ tồn tại trong tưởng tượng, một thứ bẻ cong luật lệ mà con người hằng khao khát nhưng không bao giờ thực hiện được. Tại sao Liệt Giả tìm nó? Nó đâu có thật?” – Nàng tiếp tục.
“Có thể Liệt Giả đã tìm thấy chi tiết quan trọng giữa vô vàn bí mật trên thế giới Tâm Mộng, hoặc đơn giản là niềm tin sắt đá của gã khiến ta bị lung lay. Gã là kiểu người như thế.” – Đại thánh sứ Tây Minh đáp lời – “Nhưng không chỉ Liệt Giả quan tâm cổng không gian. Thầy của ta khi còn sống cũng từng nghiên cứu nó. Ông ấy nói rằng cổng không gian chẳng bẻ cong luật lệ như người ta thường nói, mà hợp nhất toàn bộ quy tắc vật lý lẫn các đại lượng. Muốn thế, phải tìm ra một đường dẫn liên kết toàn bộ đại lượng vật chất hoặc một công thức thỏa mãn toàn bộ quy tắc vật lý, nếu được vậy, cổng không gian sẽ hình thành. Đáng tiếc là thầy nói mấy thứ đó khi ta còn quá trẻ, còn mải miết tìm kiếm vinh quang trong Thời Đại Thủy Triều.”
“Bây giờ thì sao? Cha nghĩ cái cổng đó tồn tại không?” – Tiểu Hồ tiếp lời.
“Ta chưa dám khẳng định, cần phải đọc nhiều tài liệu hơn nữa. Bất luận kết quả cuộc chiến thế nào, ta sẽ ghé qua các thư viện cổ xưa ở phương đông rồi phương bắc. Nhưng tài liệu mà anh bạn Vô Phong tìm kiếm ở thư viện Xích Quỷ rồi quyển sách mà Trần Độ đưa ta đều đề cập cổng không gian. Một sự ngẫu nhiên đáng lưu ý. Vả lại Trần Độ là kẻ thực tế, lão già đó chẳng bao giờ tốn mồ hôi cho chuyện vô căn cứ.”
“Vậy Liệt Giả tính làm gì với cái cổng đó? Ông ta định mở ra cái gì?”
“Ta không biết, con gái. Thế giới vô hạn mà ta thì hữu hạn.” – Tây Minh lúc lắc đầu – “Ta biết vài người có thể giải đáp câu hỏi này. Có lẽ sau cuộc chiến, ta cần gặp họ...”
Dự định của đại thánh sứ Tây Minh không bao giờ thành sự thật và Tiểu Hồ đang nối tiếp công việc đó. Từ cuộc nói chuyện nọ, nàng đã băng qua Diệp quốc rồi có mặt ở đây, ngay giữa nơi hoang vu không bóng người này với một lão già vừa nguy hiểm vừa kém văn minh. Nghĩ ngợi một lúc, Tiểu Hồ hỏi Cụ Cố Tổ:
- “Nó” mà ngài nói là cái gì?
Cụ cố thở phì phì tự mãn, hai cánh mũi nở to. Trêu trọc lũ nhóc khiến chúng phát điên và đặt ra những câu hỏi làm chúng tò mò luôn đứng đầu danh mục tiêu khiển của ông già. Cụ Cố Tổ huơ tay diễn tả:
- Một tạo vật vĩ đại tới nỗi không ai tưởng tượng nổi, một con quái vật không tồn tại ở thế giới Tâm Mộng hay thế giới thực mà chúng ta đang sống. Nó lang thang đâu đó giữa một thế giới đặc biệt mà chẳng đôi mắt hay trí tuệ siêu phàm nào với tới. Vì quá to lớn nên “nó” không được ghi chép cũng không được nhớ tới, nói đúng hơn là chẳng ai rõ chân dạng của nó ra sao mà mô tả. Nhưng từ những kẻ đã chứng kiến, đó là một khoảnh khắc không thể quên, nó sẽ găm vào não chừng nào bộ não đó chưa lủng. “Nó” không có tên vì trước đó có ai biết nó đâu? Nhưng rồi gã anh cả trong Ba Thủ Lĩnh cũng đặt tên cho nó là “Khổng Thú”.
- Quái vật? – Tiểu Hồ hỏi.
- Gọi “quái vật” cũng được. Phàm cái gì mà con người không hiểu hoặc ghê sợ thì đều gọi là quái vật, nhưng biết đâu Khổng Thú lại là một vị tà thần? Hay thậm chí là một vị thần cổ xưa nào đó mà loài người lãng quên? – Cụ Cố Tổ nhún vai – Ta từng nghĩ mình là tất cả, là mọi thứ. Nhưng khi gặp Khổng Thú, ta ngộ ra mình chỉ là một sinh vật nhỏ nhoi. Ta nhận ra trời. Trời vô hạn còn ta hữu hạn. Đừng hỏi ta Khổng Thú đến từ đâu hay có vai trò gì ở thế giới Tâm Mộng, bởi ta cũng tự hỏi mình như thế sau rất nhiều năm. Có một dạo mà ta không thể nhớ là ngày tháng năm nào, khi ngồi cùng anh cả của Ba Thủ Lĩnh, ta đã hỏi Khổng Thú. Đáp lại ta, gã anh cả chỉ lắc đầu, ngay cả gã cũng không biết kia mà! Chẹp chẹp! Nên là... nếu Liệt Giả thực sự mang Khổng Thú đến thì ta rất hứng thú! Ta muốn gặp lại nó thêm lần nữa!
Bóng đèn ở nóc xe rọi rõ những háo hức trong mắt Cụ Cố Tổ. Ông già chẳng quan tâm con quái vật khủng khiếp kia sẽ gây hại thế giới thế nào mà chỉ muốn tận mắt chứng kiến cho thỏa nỗi tò mò cá nhân. Và cụ cố không giấu giếm điều đó. Tiểu Hồ hỏi:
- Cháu biết anh cả của Ba Thủ Lĩnh, thậm chí từng gặp ông ấy. Vậy ngài bao nhiêu tuổi? Ngài đã sống qua thời kỳ nào?
Cụ cố mỉm cười tự đắc rồi cũng giống bao lần khác, ông già tiếp tục im ỉm. Kiêu ngạo vì hiểu biết và giữ rịt những kiến thức trong bí mật, sau đó nở nụ cười mỉa mai trước người trẻ tuổi vốn là đặc trưng của đám đầu bạc, riêng Cụ Cố Tổ nâng tầm nó thành nghệ thuật. Mọi câu trả lời đã sờ sờ trên khóe mép cười nhếch, cái ngả lưng thư thái hay con mắt hấp háy của ông già, tưởng chừng Tiểu Hồ chỉ cần động não một chút là đoán ra. Nhưng chừng nào cụ cố vẫn im lặng thì những phỏng đoán ấy vẫn không được xác nhận. Muốn biết, nàng phải hỏi.
- Vậy... Khổng Thú đến đây bằng cách nào? – Tiểu Hồ lên tiếng, giả bộ mình đã bị cuốn theo nghệ thuật câu tò mò của cụ cố – Ngài nói rằng nó tồn tại ở một khoảng không đặc biệt, tóm lại không phải thế giới thực. Vậy nó tới đây bằng cách nào, ngài biết không?
- Thế thì mày cho ta vào thị trấn mua rượu trước! – Cụ cố quay sang nói.
- Cháu sẽ mua giùm ngài. – Tiểu Hồ trả lời.
- Thế thì còn lâu ta mới kể! – Cụ Cố Tổ quay đi đoạn trùm chăn kín mặt.
- Tùy ngài thôi, cháu cũng không cần biết nhiều. – Tiểu Hồ nhún vai ráo hoảnh – Thế giới vô hạn mà con người hữu hạn, biết nhiều biết nữa cũng chỉ đến thế mà thôi! Chúc ngài ngủ ngon!
Nói rồi cô gái trùm áo lên mặt. Cụ cố không dè con nhãi tóc vàng chơi bài dỗi ngược, trong khi lão mới là người có quyền dỗi. Niềm vui được kiêu ngạo chẳng kéo dài lâu, Cụ Cố Tổ lại một phen nhức đầu vì tiếc rượu ngon. Xe dừng giữa đồng không mông quạnh, cụ cố lết tới thị trấn gần nhất cũng è cành hông bè cơ mông, khéo chừng gãy luôn cột sống. Mà ép buộc Tiểu Hồ nổ xe đi thì cụ cố chẳng đáng mặt người mạnh thứ hai thế giới. Đấu tranh nội tâm mãi, Cụ Cố Tổ gầm gừ:
- Được rồi, ta chịu thua mày, con nhãi! Nghe xong thì nhớ mua rượu cho ta! Nghe đây, ta không rõ Khổng Thú đến thế giới thực bằng cách nào. Chỉ biết rằng khi gã anh cả của Ba Thủ Lĩnh tìm ta nhờ giúp đỡ, con quái vật đã xuất hiện. Ta không rõ tường tận câu chuyện nhưng gã anh cả nói rằng có người đã sử dụng đồ ma thuật, một chiếc đĩa vàng, để mở cánh cổng dẫn Khổng Thú tới. Đại khái là một thằng ngu ngốc nào đó lỡ nghịch dại cái đĩa và con quái vật cứ thế chườn mặt xuống Tâm Mộng thôi!
Tiểu Hồ biết chiếc đĩa vàng, thậm chí chạm vào nó vài lần. Nhưng nàng lắng nghe bằng tâm thế của đứa con nít tò mò chuyện lạ thay vì tỏ ra hiểu biết. Cô gái chống cằm chăm chú, mắt mở to không chớp. Cụ cố trông vậy thì rất hài lòng, ngửa cổ tu một ngụm rượm lớn rồi hào hứng kể:
- Như ta nói, Khổng Thú tồn tại ở thế giới đặc biệt. Để xuất hiện ở thế giới thực, nó cần đi qua một cánh cửa liên kết hai thế giới. Ta có nghe bọn khoa học gia thời nay gọi nó là... cổng không gian à? Trừu tượng vậy? Nhưng gọi là “cổng không gian” vẫn không thể bao hàm hết ý nghĩa. Vì cánh cửa đó là sự thống nhất giữa các phép thuật và mọi nguyên tố trong Ngũ Hành...
- Ý ngài là thống nhất toàn bộ quy tắc vật lý và các đại lượng không – thời gian?
Cụ cố nhìn chằm chằm Tiểu Hồ theo kiểu “Mày đùa ta à?”. Rõ ràng ông già không biết các khái niệm vật lý hay đại lượng không – thời gian. Sự hiểu biết của cụ cố hoàn toàn thuộc về thời đại cũ. Cô gái vội sửa chữa:
- Ý cháu là nếu hợp nhất mọi phép thuật và nguyên tố trong Ngũ Hành, chúng ta sẽ tạo ra cổng không gian?
- Ờ... ờ... nhưng đấy chỉ là một nửa vấn đề, nửa còn lại là “thời gian”. Nếu có loại phép thuật đảo ngược hoặc đẩy nhanh thời gian, cánh cửa sẽ mở. Nhưng trên đời chẳng có thứ phép thuật như vậy.
- Tại sao phải cần thời gian? – Tiểu Hồ hỏi.
Cụ Cố Tổ rút tẩu thuốc, châm lửa rít một hơi đoạn thở ra làn khói mỏng màu xanh lá. Khói quần tụ hình cầu thành thế giới Tâm Mộng với đủ sáu lục địa, hai đại dương cùng chín biển lớn. Cụ Cố Tổ đặt ngón trỏ vào Tây Vực Châu:
- Bây giờ là tám giờ tối ở Tây Vực Châu, còn ở Phi Thiên thành là mười một giờ sáng. Nếu cái gọi là “cổng không gian” tồn tại, nghĩa là mày có thể bước từ đây về Phi Thiên thành qua mười múi giờ! Nếu điều đó thành sự thật, nghĩa là bản thể của mày hiện diện ở hai thời điểm khác nhau. Hiểu theo một cách khác, mày đang du hành đến tương lai hoặc trở lại quá khứ. Để thực hiện điều này, cần có một loại phép thuật ngưng đọng thời gian. Không tính chiếc đĩa vàng thì đó là chuyện bất khả.
- Không cách nào sao? – Tiểu Hồ nghi hoặc.
- Không có cách nào cả. – Cụ cố lắc đầu, ngửa cổ tu rượu tiếp – Thời gian là những lớp màng mỏng đi xuyên qua chúng ta, xuyên qua vạn vật. Nó chưa từng sinh ra cũng không thể biến mất, sự tồn tại của nó bao hàm toàn thế giới này. Nếu quả thực... quả thực có thứ phép thuật gập lại các lớp màng mỏng của thời gian thì phải trả một cái giá tương đương cho nó. Tức là ngưng đọng thời gian ở đây thì phải hoàn trả thời gian ở chỗ khác. Nhưng đó chỉ là lý thuyết! Chẹp chẹp chẹp! Ai mà gập được thời gian? Ta cho mày một tờ giấy mỏng, bất kể to nhỏ ra sao, mày giỏi lắm chỉ gập được nó bảy lần, không hơn! Trong khi thời gian vô định hình, vô định lượng và biến chuyển liên tục, thứ mà ta tưởng là hiện tại thực chất đang thành quá khứ, và thứ mà ta tưởng là tương lai lại trở thành hiện tại. Thời gian mỏng hơn giấy mà cũng dày hơn mọi vật chất. Phép thuật nào gập được cả ba mốc thời gian đó?
Tiểu Hồ hiểu lời cụ cố. Nàng biết tính chất hoàn trả trong phép thuật. Mọi phép thuật đều cần nguồn năng lượng hoặc sự đánh đổi tương đương, nhưng thời gian không phải năng lượng cũng không phải vật thể định hình. Nó nằm ngoài tầm tay con người, thậm chí mọi sự vật hay đại lượng biểu diễn thời gian chỉ là cách diễn giải của con người chứ không phải tự thân nó là vậy. Rốt cục Tiểu Hồ không thể rút ngắn cuộc hành trình, nàng vẫn phải tìm Lập Hoa Ngân Thôn Cơ để hỏi rõ đầu đuôi ngọn ngành.
Im lặng một lát, Tiểu Hồ cất lời:
- Ngài còn người thân không?
Cụ cố không đáp mà ngáy khò khò, chai rượu trong tay vơi quá nửa. Nhưng Tiểu Hồ không tin ông già uống ngần ấy đã say. Có lẽ cụ cố không muốn trả lời, giống màn đêm Tây Vực Châu chỉ hiện lên những bóng hình đầy nghi vấn mà không cho lời giải đáp. Màn đêm có bí mật, Cụ Cố Tổ cũng vậy.
...
Ngủ được khoảng năm tiếng, Tiểu Hồ tiếp tục lái xe xuôi theo hướng tây nam, nhằm thẳng tới điểm cuối khe nứt vĩ đại. Dọc đường, cô gái đứng tim vài phen khi gặp quân đội Bắc Thần quốc. Họ đi tuần hoặc kiểm soát những lối dẫn vào khu công nghiệp chính hết sức nghiêm ngặt, không bỏ qua bất cứ xe cơ giới nào dù khách lạ hay người quen. Tiểu Hồ đã bám theo một đoàn xe buôn lậu có tiếng là “nhẵn mặt” ở Tây Vực Châu nhưng vẫn không thể lọt qua trạm kiểm soát. Đám lính sục sạo khắp xe của Tiểu Hồ, lôi ra một nùi vũ khí, thiết bị do thám hoặc súng đạn. Và tất nhiên họ lôi ra cả Cụ Cố Tổ. Bị làm phiền giấc ngủ, ông già nổi quạu:
- Làm gì thế? Không thấy người già nghỉ ngơi à? Ta cắt lưỡi chúng mày bây giờ?!
Nhìn ông già, đám lính Bắc Thần to nhỏ kháo nhau rồi kiểm tra giấy thông hành của Tiểu Hồ. Đọc một lúc, họ tái xanh mặt mũi đoạn nhanh chóng mở cửa cho Tiểu Hồ đi qua. Đó không phải là thái độ trọng thị mà giống tiễn vong đuổi tà. Cả bốn lần Tiểu Hồ gặp lính Bắc Thần quốc đều chung một kịch bản. nàng không biết gã Ly Đốc và đám phục vụ đã giở trò gì hay bản thân Cụ Cố Tổ là cái gì, nhưng ít nhất nàng không phải đọ súng, đấu kiếm hay chạy trối chết như lúc ở Cổ Lâu Trấn.
Hai ngày sau mớ rắc rối tại Cổ Lâu Trấn, nhóm Tiểu Hồ đã tới điểm cuối khe nứt vĩ đại. Ở đây có một thị trấn vô danh, ít người sinh sống và cũng là thị trấn cuối cùng của Tây Vực Châu. Từ đây lên phía bắc là một vùng hoang mạc chỉ toàn đá cứng, không có bất cứ đường mòn công trình nhân tạo nào. Cũng từ đây đi ra phía tây sẽ bắt gặp một hoang mạc lớn có tuyến đường sắt thông sang Chi Chiếu quốc – nước láng giềng của Bắc Thần quốc nhưng không thuộc liên minh Nhất Thống Cục, mà là thành viên của Trục Chữ Thập do Lưu Vân quốc đứng đầu. Ở đây chỉ có một đội bảo vệ do các ông chủ nhà máy lập nên Tiểu Hồ dễ dàng tiến vào thị trấn.
So với toàn bộ Tây Vực Châu, thị trấn vô danh này xếp chót bảng về mức độ tiện nghi và đứng đầu bảng mức độ ô nhiễm không khí. So với Cổ Lâu Trấn, nó quả thực là một chốn nhà quê chuồng gà chuồng vịt. Không nơi tụ tập giải trí, không biển hiệu quảng cáo cũng không có một cửa tiệm đúng nghĩa, thị trấn quả thực rất thích hợp cho những ông bà già sắp chết hoặc kẻ muốn tìm kiếm nơi tốt nhất để tự tử. Thứ duy nhất ồn ào và rền rĩ là nhà máy tái chế kim loại, nơi làm việc duy nhất đồng thời là công việc của đa số người dân. Thị trấn không có xưởng lọc khí nên khói bụi đóng tầng đóng tảng trong không khí, bằng mắt thường cũng nhận ra, nên ai nấy đều kè kè mặt nạ phòng độc mọi nơi mọi lúc.
Và rất khó để mua bán nếu không hỏi thăm dân bản địa. Các cửa hàng trong thị trấn vô danh bán đủ thứ tạp phí lù, không chuyên biệt loại mặt hàng nào. Tiểu Hồ đã nghĩ mấy nơi bán thực phẩm có rượu nhưng thực tế nơi duy nhất bán rượu lại là tiệm sửa chữa da giày. Cô gái cùng Cụ Cố Tổ đến tiệm, bà già chủ hàng lục ra một chai rượu khắm lặm mùi da giày đoạn đưa cụ cố, giọng cắn cảu:
- Còn đúng một chai! Một đồng vàng nhé!
Một đồng quá đắt cho một chai rượu nhưng Cụ Cố Tổ chẳng để tâm. Cụ cố ném đồng vàng cho bà chủ hàng, hỏi:
- Hàng bán nồi vẫn còn chứ? Chủ hàng chưa chết chứ hả?
- Vẫn bán, thằng cha điên khùng đó... – Bà chủ hàng chữa giày bĩu môi chỏng lỏn –...thời nào rồi còn nặn đất làm nồi? Ngày nào cũng bày một lô một lốc tràn ra đường, không thể chịu nổi! Sao thằng chả không chết luôn cho rồi?!
Trước bà già độc mồm độc miệng, cụ cố chỉ cười hề hề. Ông già cởi mặt nạ phòng độc, nhấp thử tí rượu cho lợm giọng rồi nhổ toẹt xuống đất, mồm lẩm bẩm chửi “Cái con khỉ, toàn cồn!”. Nhưng sau rốt cụ cố vẫn nốc thứ cồn ấy vào ruột, cười cười nói nói:
- Lâu lâu mới tái ngộ kẻ giữ cửa đền Mộc Thần. Bao lâu rồi? Ba thế kỷ không? Chẹp chẹp! Khó nhớ quá! Lúc ta trao lại ngôi đền Mộc Thần cho người kế nhiệm, hắn chỉ là thằng nhóc học việc. Một đứa bé khá xinh trai. Còn giờ, hờ hờ, thằng bé xinh trai đó chắc đã rụng hết răng. Hắn tên là... tên là... con khỉ! Quên mất rồi! Ta chỉ nhớ ta thường gọi hắn là Mắt Xanh!
- Ngài quên sao? – Tiểu Hồ hỏi kháy.
- Bộ não chỉ có thể lưu trữ các sự kiện trong ba trăm năm đổ lại. – Cụ Cố Tổ gõ gõ vào thái dương – Ta chỉ nhớ những gì ấn tượng nhất thôi! Đừng cười, con nhãi, thử sống lâu như ta và mày sẽ hiểu thế nào là thời gian thực sự.
Cụ cố khệnh khạng bước nhưng không có vẻ gì là quên đường. Ông già dẫn Tiểu Hồ vòng qua những tòa nhà bê tông xập xệ, mái tôn đóng két bụi và những ô cửa sổ giăng màng ngăn không khí bẩn. Cuối cùng họ dừng lại trước cửa hàng bán nồi. Nó đích xác là cửa hàng duy nhất ở thị trấn này có biển hiệu và buôn bán đúng thứ mặt hàng mà biển hiệu quảng cáo. Bán Nồi – chỉ một chữ duy nhất như thế, bên dưới tấm biển la liệt những chiếc nồi đất. Hàng tá nồi kiểu cổ xưa với miệng rộng, thân bè, thích hợp cho món nấu hầm hàng tiếng đồng hồ của người Bắc Thần. Đến giờ người Bắc Thần quốc vẫn thích và ăn những món đó, nhưng không phải ở đây, không phải Tây Vực Châu này, nơi mà cuộc sống công nghiệp biến con người thành máy móc. Nồi xếp đống thành chồng một, tất cả bạc màu tựa cuộc đời bạc bẽo. Có lẽ chúng đã ở đây hàng trăm năm nhưng không một ai thèm nhìn ngó. Thậm chí ngay cả chủ nhân cửa hàng cũng biến đi đâu chẳng rõ.
Lúc này, kẻ duy nhất chịu nhìn ngó đống nồi là Cụ Cố Tổ. Ông già nhón chân lần mò giữa các chồng nồi, lật cái nọ xem cái kia rồi lớn giọng:
- Còn vạc không? Ta cần cái vạc! Mắt Xanh, mày có nhà không?
Có tiếng lệch xệch lách cách từ bên trong cửa hàng vọng ra. Cửa mở, liền sau đó xuất hiện một ông già cao tuổi lưng còng, khoác trên người một nùi giẻ rách – chúng thực sự là “giẻ rách” vì không thể phân biệt được đâu là tay áo và đâu là vạt áo. Trên đầu ông già đeo chiếc kính to tướng chắn bụi, cổ khoác mấy chiếc máy kỳ quặc như máy đo đạc. Nhưng dù kỳ dị, già cỗi hay xơ xác tới đâu, ông ta vẫn hiện lên những nét đặc biệt như mái tóc màu nâu và đôi mắt màu xanh thẳm. Tiểu Hồ hơi ngờ ngợ. Trông thấy Cụ Cố Tổ, ông chủ bán nồi Mắt Xanh nọ há hốc miệng:
- Ngài?! Thực sự là ngài?! Ngài đã quay về!
- Phải, là ta. – Cụ cố đáp – Mày chưa chết hả? Tốt, ta cần một cái vạc, mày hiểu ý ta chứ? Một cái vạc! Ta có đầy đủ ba món đồ vật ở đây rồi, không cần lo. Có gì ăn không? Mày có tủ lạnh chứ?
Ông chủ bán nồi vừa gật đầu, cụ cố liền tót vào nhà ngay. Dáng vẻ của ông chủ khiến Tiểu Hồ ngờ ngợ, nhìn mãi không thôi. Nàng nhận ra khuôn mặt ông ta có những nét góc cạnh của dân phương tây, không phải người phương đông, nhất là cái mũi thẳng tắp khoằm khoằm như mỏ chim ưng. Quan trọng hơn cả, nàng cảm giác có thứ gì đấy hết sức quen thuộc. Ông chủ bán nồi nhìn Tiểu Hồ, mở lời:
- Ta nhớ mặt từng đứa phục vụ của cụ cố. Thi thoảng chúng qua đây lấy nguyên liệu. Bé con không phải một trong số chúng. Nhưng trên đời chẳng mấy ai được đi cùng Cụ Cố Tổ, bé con thuộc số ít đó. Vậy ngươi muốn hỏi ta điều gì?
Đôi mắt xanh thẳm của ông già làm Tiểu Hồ khó thở. Nàng biết một cặp mắt tương tự đang ngồi trên ngai vàng Phi Thiên thành và cũng sắp sửa rời khỏi ngai vàng đó. Cô gái hỏi:
- Ngài là ai? Tại sao ngài có đôi mắt giống Bạch Dương Đệ Thập? Tôi biết đôi mắt này!
- Thế bé con là ai mà biết Bạch Dương Đệ Thập? – Ông chủ bán nồi hỏi lại.
- Tôi là Tiểu Hồ, hộ vệ thánh sứ của công chúa Lục Châu, con gái Bạch Dương Đệ Thập. Từ bé tôi đã gặp ngài Đệ Thập. – Tiểu Hồ trả lời.
Ông chủ hàng bán nồi ngó xuống Tiểu Hồ. Bấy giờ cô gái mới để ý ông ta tuy còng lưng nhưng vẫn cao hơn mình một chút. Người đàn ông dùng mấy cái máy đeo cổ soi Tiểu Hồ một lượt rồi đáp:
- Không nói dối. Được thôi, ta sẽ trả lời. Ta họ Bạch Dương, tên Lục Triều. Nói cách khác, ta là tổ tiên của Bạch Dương Đệ Thập và con bé Lục Châu. Cháu gái Lục Châu của ta vẫn khỏe chứ?
- Vâng... vâng... công chúa vẫn khỏe, thưa ngài! – Tiểu Hồ lắp bắp – Nhưng tại sao ngài ở đây?
- Chuyện rất dài. Thời gian, ôi thời gian! – Lục Triều thở dài – Nhưng ngươi có thể hiểu rằng Ngũ Pháp Sư từng can thiệp chính trị thế giới, khi ấy họ còn nhiều tiếng nói. Để làm tin và cầu cạnh khi cần, các dòng họ lớn mà thường là dòng họ đế vương sẽ gửi con cái mình theo Ngũ Pháp Sư. Mẹ ta, Bạch Dương Đệ Tứ, nữ hoàng đầu tiên của Phi Thiên quốc đã gửi ta tới đền thờ Mộc Thần. Ta từng chủ trì đền thờ này cho tới khi trao lại nó cho Lập Hoa Ngân Thôn Cơ và trở thành người canh giữ đền. Vào đi, bé con, hãy ăn một bữa trước khi tiến vào đền thờ. Có bánh bột mì, trứng, thịt hun khói và pho-mát, hy vọng ngươi sẽ thích.
Ông chủ hàng bán nồi ghé đầu mời Tiểu Hồ vào nhà cùng nụ cười thân thiện. Tiểu Hồ ngơ ngác bước theo, mặt nghệt ra còn hai lỗ tai ù ù. Nàng không biết Cụ Cố Tổ đang giữ rịt bao nhiêu bí mật nữa. Ở một nghĩa khác, Cụ Cố Tổ chính là nếp gập thời gian, nơi hội tụ của quá khứ, hiện tại và tương lai. Vả lại, bản thân con vượn già kém văn minh đó chính là phép thuật. – Tiểu Hồ dợm nghĩ.
[1]: xem lại Quyển 3 Chương 124, Tiểu Hồ đã nhờ công chúa viết một bức thư gửi cho Thôn Tàng trước khi đến Diệp quốc
/334
|