Đang mê man trong đêm, Bảo Khâm chợt tỉnh giấc.
Bảo Khâm trước giờ ngủ không sâu. Khi còn ở quân doanh nàng thường xuyên ngủ trong tình trạng áo giáp không kịp trút, vũ khí gác bên người. Đến khi vào hành cung thì đã khá hơn, tốt xấu cũng ngủ đến khi trời sáng, chuyện nửa đêm tỉnh giấc đã ít hơn trước.
Nước Tần tiết trời lạnh hơn nước Trịnh, tuy mới qua Trung Thu nhưng buổi tối đã bắt đầu có gió thổi xào xạc, phát ra đủ loại âm thanh. Bảo Khâm dựng tai lắng nghe, ngoài tiếng gió thổi lá cây, trong sân dường như còn có tiếng bước chân khe khẽ. Giày đế mềm, chân bước nhẹ nhàng như con mèo trong đêm.
Bảo Khâm chợt tỉnh hoàn toàn, nàng xuống giường cầm lấy giá nến trong tay, nhẹ chân bước về phía cửa. Nàng quen ở một mình, không giữ lại ai trong phòng. Đến Thanh Nhã cũng nằm ở phòng bên cạnh nên cả căn phòng rộng rãi chỉ có mỗi nàng.
Là ai được nhỉ? Bảo Khâm suy nghĩ, là a hoàn Lý Kha Minh sắp xếp ở lại hay là thám tử huynh đệ nhà họ Tần cử đến thám thính? Ngoài hai phương án này, nàng không nghĩ còn ai có hứng thú với mình.
Người bên ngoài bước đến cửa phòng thì chợt dừng lại, yên lặng đứng ngoài, cũng không biết là đang đợi chờ gì. Bảo Khâm không hoảng loạn, thiên binh vạn mã nàng đều không sợ, huống chi là một người ở ngoài cửa. Tuy bây giờ nàng mất hết võ công nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, thân thủ vẫn nhanh nhẹn như trước, chỉ chờ người kia tiến vào…
Nàng đang suy nghĩ xem nên ra tay thế nào, người ngoài cửa đã lên tiếng, giọng nói rất nhỏ, nhưng ấm áp và kiên định. Thanh âm dịu dàng quen thuộc, ấm áp như ngọc: “Bảo Khâm, là huynh.”
Đại sư huynh!
Đầu tiên Bảo Khâm ngây người, mãi đến khi nghe thấy tiếng cười mát lạnh của sư huynh, nàng mới kịp phản ứng lại, mau chóng ném giá nến trong tay đi mở cửa, xông về phía người bên ngoài.
Bảo Khâm sinh non nên cơ thể không khoẻ mạnh. Ni cô nói nàng không đủ dương khí, sợ khó nuôi nên phải cải nam trang. Vì vậy trong phủ Tướng quân có một đại thiếu gia ngày ngày không rời bát thuốc. Khi nàng năm tuổi thì mẫu thân qua đời, phụ thân dẫn nàng lên núi Thanh Lương làm đồ đệ của Hàn Thạch lão nhân và trở thành đồ đệ cuối cùng của ông ấy.
Hàn Thạch lão nhân có tất cả ba đệ tử, nhị sư huynh Lâm Túc lão luyện thành thục, nói năng hành động còn nghiêm túc hơn cả sư phụ nàng, Bảo Khâm rất sợ huynh ấy. Nhưng mối quan hệ giữa nàng và đại sư huynh Lương Khinh Ngôn rất tốt. Lúc còn nhỏ mới lên núi, nàng luôn khóc nức nở đòi về nhà nhưng có đại sư huynh ở bên khuyên bảo, còn dẫn nàng ra sau núi bắt cá đào trứng chim, lén lút nhóm lửa nướng ăn…
Sau này đại sư huynh phải về kinh, Bảo Khâm túm áo hắn khóc một trận, lưu luyến không rời, tiễn hắn mười dặm đường. Khi mười bốn tuổi, phụ thân đón nàng về Tây Bắc học tập quy củ để chuẩn bị gả chồng, nhưng lại xảy ra chuyện bất đắc dĩ khiến nàng phải cầm quân giương cờ đánh trận.
Khi nàng mười lăm tuổi, đại sư huynh vượt ngàn dặm xa xôi từ kinh thành chạy đến lén dẫn nàng đến thị trấn nhỏ cách đó mười dặm làm lễ cập kê, sau đó sư huynh luôn ở cạnh nàng. Ngoài phụ thân và sư phụ, sư huynh là người thân nhất và được nàng tín nhiệm nhất.
“Lại khóc nhè rồi?” Lương Khinh Ngôn vỗ vào lưng nàng, cười dịu dàng hỏi: “Muội khóc thật sao?”
Bảo Khâm nhào vào lòng hắn, quay mặt đi chỗ khác lau lau, sau đó nhanh chóng quay lại, gân cổ lên nói lớn: “Ai khóc? Ai khóc cơ chứ? Huynh đừng nói linh tinh.”
Lương Khinh Ngôn cười rộ lên, bước vào phòng đóng cửa lại dỗ dành: “Phải, là huynh nói linh tinh. Nhưng mà, Bảo Khâm, nếu muội còn lớn tiếng, một lát nữa sư huynh sẽ gặp xui xẻo mất.”
Bảo Khâm lo lắng, bước nhanh ra cửa, ngó nghiêng bên ngoài vài lượt. Trong sân ngoại trừ tiếng gió thì không có gì khác thường. Hoặc có thể nói, chính việc này đã là khác thường. Nàng quay đầu nhìn Lương Khinh Ngôn, khẽ nói: “Huynh hạ thuốc?”
Lương Khinh Ngôn cười không đáp, hiển nhiên là thừa nhận.
Bảo Khâm nhìn hắn không có ý gì tốt, nhỏ giọng oán trách: “Huynh trêu muội.” Vừa nói, nàng vừa ngồi xuống tìm giá nến.
“Không cần thắp đèn đâu.” Lương Khinh Ngôn dịu giọng nói: “Huynh hạ thuốc rất nhẹ, một lát nữa chắc sẽ có người đến. Nếu thắp đèn khó tránh kẻ khác chú ý. Bên ngoài trăng sáng, chúng ta lại gần cửa sổ nói chuyện.” Nói xong hắn đi đến bên cửa sổ, nhẹ nhàng mở ra.
“Huynh phải đi ngay à?” Bảo Khâm hơi thất vọng nhưng rất nhanh đã bình thường trở lại. Lương Khinh Ngôn không trả lời. Chung tiểu tướng quân đã là tội thần được ban thuốc độc, mà đại sư huynh nàng là đệ tử thế gia tiền đồ vô lượng.
“Kinh thành hiện giờ ra sao?”
“Hỗn loạn. Sau cùng Lục điện hạ thắng, tính ra chỉ hai ngày nữa sẽ đăng cơ.”
“Lục điện hạ?” Bảo Khâm khó hiểu, tuy nàng về kinh không nhiều nhưng trong trí nhớ của nàng chưa từng xuất hiện vị Lục điện hạ này bao giờ. Mấy người con của Tiên đế không ai là kẻ tầm thường, sao cuối cùng lại là vị Lục điện hạ vô danh này thắng? “Người đó… có phải là Lục điện hạ luôn ở trên Kinh Sơn lễ Phật?”
Lương Khinh Ngôn mỉm cười gật đầu. “Phải. Thật ra muội cũng đã từng gặp rồi. Cuối năm ngoái, huynh dẫn người đến Tây Bắc, chẳng phải muội còn đánh với người một trận đó sao?”
Bảo Khâm cảm thấy mờ mịt, đầu óc rối bời, nàng ngây ra một lúc mới nghi ngờ hỏi: “Chính… chính là Lý Lục Lang? Là người bị muội đánh ngã, còn giẫm chân lên nữa?”
Cuối năm ngoái, Lương Khinh Ngôn dẫn theo một thanh niên trẻ họ Lý đến Tây Bắc. Lý Lục Lang đó là người nhã nhặn lịch sự, tính tình cố chấp, chỉ vì Bảo Khâm trêu hắn trói gà không chặt mà hắn nhất quyết đòi đấu một trận với nàng. Kết quả hắn bị Bảo Khâm đạp cho hai cước lăn ra đất nhưng vẫn không chịu thua, bò dậy đòi đánh tiếp. Nàng bực mình, lại đạp thêm phát nữa, hại “Huynh phải đi ngay à?” Bảo Khâm hơi thất vọng nhưng rất nhanh đã bình thường trở lại. Lương Khinh Ngôn không trả lời. Chung tiểu tướng quân đã là tội thần được ban thuốc độc, mà đại sư huynh nàng là đệ tử thế gia tiền đồ vô lượng.
“Kinh thành hiện giờ ra sao?”
“Hỗn loạn. Sau cùng Lục điện hạ thắng, tính ra chỉ hai ngày nữa sẽ đăng cơ.”
“Lục điện hạ?” Bảo Khâm khó hiểu, tuy nàng về kinh không nhiều nhưng trong trí nhớ của nàng chưa từng xuất hiện vị Lục điện hạ này bao giờ. Mấy người con của Tiên đế không ai là kẻ tầm thường, sao cuối cùng lại là vị Lục điện hạ vô danh này thắng? “Người đó… có phải là Lục điện hạ luôn ở trên Kinh Sơn lễ Phật?”
Lương Khinh Ngôn mỉm cười gật đầu. “Phải. Thật ra muội cũng đã từng gặp rồi. Cuối năm ngoái, huynh dẫn người đến Tây Bắc, chẳng phải muội còn đánh với người một trận đó sao?”
Bảo Khâm cảm thấy mờ mịt, đầu óc rối bời, nàng ngây ra một lúc mới nghi ngờ hỏi: “Chính… chính là Lý Lục Lang? Là người bị muội đánh ngã, còn giẫm chân lên nữa?”
Cuối năm ngoái, Lương Khinh Ngôn dẫn theo một thanh niên trẻ họ Lý đến Tây Bắc. Lý Lục Lang đó là người nhã nhặn lịch sự, tính tình cố chấp, chỉ vì Bảo Khâm trêu hắn trói gà không chặt mà hắn nhất quyết đòi đấu một trận với nàng. Kết quả hắn bị Bảo Khâm đạp cho hai cước lăn ra đất nhưng vẫn không chịu thua, bò dậy đòi đánh tiếp. Nàng bực mình, lại đạp thêm phát nữa, hại hắn nằm giường tĩnh dưỡng cũng lâu.
Nếu sớm biết hắn lên ngôi, Bảo Khâm sẽ không đánh hắn như vậy.
“Sao huynh không nói sớm?” Bảo Khâm vừa bực mình vừa sốt ruột mắng nhỏ: “Muội vốn định đợi vài năm mọi chuyện qua đi sẽ về Tây Bắc bái tế mộ cha. Lần này… lần này thì xong rồi. Sao huynh không nhắc muội trước, nếu sớm biết như vậy muội sẽ nhường hắn vài chiêu.”
Lương Khinh Ngôn phì cười, nhưng thấy vẻ mặt buồn bực của Bảo Khâm, cố gắng kiềm chế, dịu dàng an ủi: “Chẳng phải huynh cản không kịp đó sao? Chỉ tại muội ra tay vừa nhanh vừa gọn. Sau này, ừm, dù sao đánh cũng đánh rồi, nếu huynh còn nói với muội, muội sẽ suốt ngày để trong lòng, không được yên ổn. Nhưng mà Lục điện hạ trước giờ vẫn luôn độ lượng, sau khi về kinh người còn khen ngợi muội, nói muội dũng cảm giỏi giang, sẽ không vì thế mà trách tội đâu.”
Nói thì nói vậy nhưng Bảo Khâm vẫn như đang nằm mơ. Đường đường là Thiên tử nước Trịnh lại bị nàng cho mặt xám mày tro, thật sự không ghi hận sao?
Nghĩ một lúc, Bảo Khâm thấy chuyện này có suy nghĩ cũng không ích gì, thà mặc kệ cho xong. Nàng hỏi Lương Khinh Ngôn: “Sư huynh đến lúc nào thế? Huynh vào cung kiểu gì? Thanh Nhã có biết không?”
Nàng hỏi một chuỗi dài khiến Lương Khinh Ngôn cũng phải bật cười: “Bảo Khâm, muội để huynh thở cái đã. Muội hỏi nhiều như vậy huynh biết phải trả lời câu nào trước đây?”
Hai người nói chuyện một lúc, Bảo Khâm mới biết mục đích của Lương Khinh Ngôn chính là đến thăm nàng. “Thanh Nhã truyền tin nói muội đã khoẻ lên nhiều, nhưng ta vẫn không yên tâm.” Đôi mắt của Lương Khinh Ngôn sáng rực dưới đêm trăng, khuôn mặt hiền hoà, giọng nói ấm áp khiến người ta an tâm.
“Tư Đồ nói sao?”
“Hắn nói độc tố còn sót chưa tiêu trừ hết.” Bảo Khâm bất đắc dĩ thở dài, có chút hậm hực. “Muội thấy khoẻ nhiều rồi, chỉ là không được dùng lực thôi, chẳng khác các cô nương bình thường là mấy.”
Tư Đồ còn nói, độc của nàng phải mất một năm mới có thể trị sạch, nếu không sau này sẽ thường xuyên phát tác, suốt đời không được yên. Những điều này Bảo Khâm không định nói với sư huynh, nàng không muốn huynh ấy phải lo lắng.
Lương Khinh Ngôn nghiêm túc dặn dò: “Tư Đồ là đệ tử của Dược Vương, lời hắn nói muội nhất định phải nghe theo. Ta tìm hết tất cả các danh y nước Trịnh nhưng không ai dám chắc sẽ trị khỏi độc Đoạn Trường cho muội nên mới bảo hai người tạm thời cứ yên tâm ở lại, tĩnh dưỡng cho khoẻ rồi nói sau.”
Thật ra hắn cũng đã biết chuyện Tần Liệt rất coi trọng Bảo Khâm. Trong thư Thanh Nhã viết rất tỉ mỉ, chuyện người đàn ông đó ôm Bảo Khâm vào trong hành cung, gọi Thái y, thậm chí còn tặng đồ, tất cả hắn đều rõ. Nhưng hắn không thể vì vậy mà vội vàng đưa Bảo Khâm đi. Khó có cơ hội chữa khỏi triệt để độc của nàng, hắn sao có thể vì chuyện cá nhân mà bỏ mặc?
“Muội… muội ở trong cung có tốt không?” Nghĩ một lúc, Lương Khinh Ngôn mới dè dặt hỏi. Thật ra hắn rất muốn hỏi câu khác, nhưng không biết phải mở lời ra sao.
Bảo Khâm nhoẻn miệng cười. Nàng lười biếng dựa vào ghế: “Nói ra sư huynh đừng trách muội, hai tháng này là khoảng thời gian muội sống thoải mái nhất.” Không có chiến tranh, không có loạn lạc, không có chém giết, không có máu tanh. Buổi tối thậm chí còn được ngủ yên giấc, có lúc nàng còn nghĩ mình liệu có phải đang mơ?
Khuôn mặt Lương Khinh Ngôn cứng ngắc, cũng may trong phòng không thắp đèn. Hắn nhanh chóng cúi đầu xuống, Bảo Khâm không nhìn thấy gì hết.
“Vậy… con người ở đây thì sao?”
“Người?” Bảo Khâm che miệng, nhịn cười lắc đầu: “Huynh đã nghe Thanh Nhã kể rồi còn gì. Bọn muội gặp Tần Tu, hắn không nhận ra muội. Mắt đúng là…”
Lương Khinh Ngôn cúi đầu, hàng lông mi che lấp đi ánh sáng trong mắt. “Còn Tần Liệt thì sao?”
“Hắn?” Bảo Khâm hơi chau mày, tiếng nói vừa ngập ngừng vừa nghiêm túc: “Không biết có phải muội nhạy cảm hay không, muội luôn cảm thấy hình như hắn biết điều gì đó.”
“Sao cơ?” Lương Khinh Ngôn hoảng sợ.
Bảo Khâm nghe thấy giọng nói của hắn lo lắng, liền an ủi: “Có lẽ muội đa nghi thôi. Tần Liệt cả ngày trưng bản mặt đơ như khúc gỗ, bộ dạng cao thâm khó lường khiến người khác sợ hãi.” Nàng cũng chỉ gặp hắn có vài lần nhưng chưa bao giờ thấy hắn cười, thật sự rất lạnh lùng, xa cách.
Lương Khinh Ngôn thấy lúc nhắc đến Tần Liệt, vẻ mặt nàng vẫn rất bình thường, gánh nặng trong lòng như được trút xuống, nói chuyện cũng thuận miệng hơn nhiều.
Hai người tâm sự nửa tiếng, Bảo Khâm sợ thị vệ bên ngoài phát hiện liền vội vàng đuổi hắn đi. Đợi hắn ra đến cửa, Bảo Khâm chợt cảm thấy có gì đó không ổn, vô thức đưa tay kéo gấu áo hắn.
Lương Khinh Ngôn hơi chấn động, nhưng không quay người lại, chậm rãi nắm chặt tay nàng, giọng nói trầm xuống: “Muội bảo trọng, một thời gian nữa huynh sẽ đến thăm muội.”
Có lẽ do yên lòng, sau đấy Bảo Khâm ngủ rất ngon. Ngày hôm sau tỉnh dậy tinh thần thoái mái hơn nhiều. Thanh Nhã dậy muộn hơn một chút, lúc vào phòng vẫn còn ngái ngủ, vừa dụi vừa nhận tội với Bảo Khâm: “Tối qua nô tỳ ngủ say quá nên đã dậy muộn.”
Không chỉ Thanh Nhã, các a hoàn hầu hạ bên ngoài cũng rất uể oải, trong lòng Bảo Khâm hiểu rõ nhưng không tiện nói ra, chỉ cười lắc đầu: “Không sao, thời tiết mát mẻ, quả thực buồn ngủ.”
Nàng ăn sáng xong thì Tư Đồ đến, vừa vào cửa đã tươi cười: “Hôm nay tinh thần Công chúa có vẻ tốt, da mặt hồng hào, hình như có chuyện vui.”
Dù có chuyện vui cũng không thèm nói với hắn, Bảo Khâm uể oải đáp lời: “Thiếp cả ngày ở trong cung không ra khỏi cửa thì có thể có chuyện gì? Tư Đồ đại nhân đừng chê cười.”
Tư Đồ chọn lấy vị trí trên cùng ngồi xuống không chút khách khí, tự mình châm trà, uống một ngụm, gật đầu lia lịa: “Trà nước Trịnh rất ngon, nước trà trong veo, lá trà mượt mà, càng hiếm thấy hơn nữa là thơm vô cùng.” Nói xong hắn nhướn mày nhìn Bảo Khâm, nịnh nọt: “Không biết trong cung Công chúa còn trà ngon như vậy không, có thể cho ta vài cân thì tốt biết bao.”
Bảo Khâm quanh năm sống ở Tây Bắc, đối với trà nghệ không biết nhiều, chi bằng tặng cho người biết thưởng trà còn hơn để lãng phí. Hơn nữa Tư Đồ có ơn cứu mạng với nàng, cho nên vừa nghe hắn nói vậy nàng không nghĩ ngợi nhiều chuẩn bị gật đầu đáp ứng. Đang định mở miệng thì Thanh Nhã đem điểm tâm vào, vội vàng lên tiếng: “Tư Đồ đại nhân, trà này không thể uống lung tung được.”
Bảo Khâm ngẩn người, không hiểu gì hết, còn Tư Đồ thì cười ha ha, vuốt cằm nói: “Không sao, không sao, đây không phải là ở nước Trịnh, Phong thành không quan trọng những thứ này. Hơn nữa hôn sự của Công chúa chắc như định đóng cột, dù ta có uống vài ngụm trà của người cũng không vấn đề gì.” Lúc hắn nói Thanh Nhã đã vào hẳn trong phòng, vừa vặn đi ngang qua chỗ Tư Đồ, nàng chau mày.
“Sao thế?” Bảo Khâm không hiểu hỏi Thanh Nhã.
Tư Đồ vốn luôn tươi cười đột nhiên trở nên thận trọng và nghiêm túc, từ từ đứng dậy, từng bước lại gần Thanh Nhã hít hít ngửi ửi. Bảo Khâm dường như nhớ ra gì đó, âm thầm chột dạ.
“Tư Đồ đại nhân?” Thanh Nhã liên tục lui về sau, vẻ mặt nghi ngờ nhìn hắn, trong mắt hiện lên sự tức giận: “Ngài đang làm gì thế?”
Tư Đồ nhíu mày không đáp, bước nhanh ra sảnh, men theo hành lang ra ngoài, sau khi rời khỏi cửa thì thở gấp, động tác nhanh đến mức Thanh Nhã không kịp cản. Bảo Khâm lo nơm nớp nhưng chỉ có thể giả vờ không biết, mở to mắt nhìn Tư Đồ đi xung quanh thăm dò, không nói câu nào.
Một lúc sau hắn mới trở lại vô cùng nghiêm túc, vừa vào cửa liền hỏi ngay: “Tối hôm qua có gì bất thường không?”
“Làm gì có gì bất thường? Tư Đồ đại nhân đừng doạ bọn nô tỳ.” Thanh Nhã ngó trái ngó phải, hơn run rẩy.
Bảo Khâm chau mày ra vẻ không hiểu, nghĩ một lúc rồi nói: “Tối hôm qua ta ngủ rất ngon, không nghe thấy tiếng động gì hết. Thanh Nhã, em thì sao?”
Thanh Nhã xấu hổ xoa miệng khẽ nói: “Nô tỳ cũng ngủ rất sâu, nếu không sáng nay đã chẳng dậy trễ như vậy.”
Tư Đồ trầm mặc hồi lâu, đột nhiên vẫy tay gọi mấy a hoàn bên ngoài vào: “Mời Tam điện hạ đến đây, nói Hành cung xảy ra chuyện.”
Mũi thính như chó vậy! Bảo Khâm rủa thầm trong lòng nhưng ngoài mặt vẫn nghiêm túc, cau mày hỏi rất đứng đắn: “Ý của Tư Đồ đại nhân là, tối qua bọn ta ngủ say là có nguyên nhân khác?”
Tư Đồ cũng không giấu giếm, trả lời nghiêm túc: “Ban nãy khi Thanh Nhã cô nương bước vào, tại hạ ngửi thấy có mùi thuốc mê nên mới nghi ngờ, đi xem thử vài vòng, bây giờ thì đã có thể khẳng định. Thuốc mê này rất tốt, nếu không phải tại hạ nhạy cảm, người khác chắc chắn không phát hiện ra điều gì khác lạ.”
Thanh Nhã bị doạ cho mặt mũi trắng bệch, vội vàng túm lấy cách tay Bảo Khâm, sốt ruột hỏi: “Công chúa không sao chứ? Chẳng may những người đó lén lút làm chuyện xấu thì biết làm thế nào?” Nói xong, Thanh Nhã gọi mấy a hoàn bên ngoài vào dặn dò lục soát kỹ càng một lượt phòng Công chúa.
Bảo Khâm cố nhịn trong lòng, có chuyện mà không thể nói, chỉ đành để mặc Thanh Nhã. May mà đầu óc Tư Đồ vẫn còn tỉnh táo, khẽ an ủi: “Nếu người đó thật sự có ác ý thì đã ra tay từ tối qua rồi, đâu cần rắc rối như vậy. Có lẽ hắn có ý đồ gì khác, hoặc là trong của hồi môn của Công chúa có thứ gì đó đáng giá bị người khác nhìn trúng cũng nên.”
Tư Đồ ngày thường luôn có bộ dạng cợt nhả nhưng đầu óc rất nhạy bén. Bảo Khâm nghĩ thầm, lát sau Tần Liệt cũng đến, không biết muốn biến Hành cung thành cái bộ dạng gì đây?
Ba người nói chuyện một lúc thì a hoàn bên ngoài vào bẩm báo, Tam điện hạ phải ra ngoại thành, sẽ đến muộn một chút, thị vệ Vương phủ là Ngũ Cân sẽ tới trước.
Bảo Khâm chưa gặp người tên là Ngũ Cân này bao giờ, hôm trước lúc gặp Tần Liệt, nàng luôn ở trong xe không ra ngoài nên chỉ nghe thấy tiếng Ngũ Cân và Lục Cân là hai hộ vệ thân cận của Tần Liệt, vẫn còn rất trẻ.
Có lẽ do ban nãy sợ hãi, bây giờ Thanh Nhã cũng quên tiệt chuyện phải mang bình phong ra chắn trước mặt Bảo Khâm. Bảo Khâm lại hoàn toàn không nghĩ tới điều đó, thế là lúc Ngũ Cân xông thẳng vào trong sảnh liền trực chào hỏi nàng. Bốn mắt nhìn nhau, Bảo Khâm thầm tán dương: “Đúng là một tráng sĩ!” Còn Ngũ Cân như nhìn thấy chuyện gì đó vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, giật nảy người: “Ô…” Sau đó lớn tiếng: “Sao lại là ngươi?”
Cái gì mà “Sao lại là ngươi?” Bảo Khâm cau mày nhìn hắn, nghi ngờ hỏi: “Ngươi từng gặp ta?”
Tư Đồ cảm thấy hứng thú, đứng một bên theo dõi, tươi cười hỏi: “Ngũ Cân, ngươi gặp Công chúa bao giờ thế? Lẽ nào tối qua người lén lút xông vào hành cung là ngươi?”
Ngũ Cân lúc bấy giờ mới đỏ mặt tía tai, kích động tự biện hộ: “Tư Đồ đại nhân, ngài đừng vu oan cho người tốt. Ta… ta… Ngũ Cân ta không phải là loại người đó. Ta chỉ thấy Công… Công chúa nhìn rất quen. Quả thực Công chúa rất giống với người đó, chính là Chung Bảo Khâm của quân Tây Bắc nước Trịnh.”
Thanh Nhã tức thì mặt trắng bệch, đến Bảo Khâm cũng ngây ra, đầu óc hỗn loạn, có thứ gì đó như cất giấu sâu bên trong đầu nhưng không thể nào nhớ ra nổi.
“Chung Bảo Khâm, ta biết!” Tư Đồ nhoẻn cười: “Chính là Chung Bảo Khâm mà Ngũ gia suốt ngày huyên thuyên, nghe nói hắn trông rất giống đàn bà, tính tình nóng nảy, lúc đánh nhau lại liều mạng, mấy năm trước còn bắt Ngũ gia làm tù binh.”
Hắn còn không biết xấu hổ nói người khác giống đàn bà, Bảo Khâm chửi thầm, cho dù nàng là nữ, mặc nam trang vào trông còn oai hùng hơn hắn. Trường thương hai tám cân hắn có dùng nổi không?
“Chính là người đó!” Ngũ Cân cười hì hì, hơi xấu hổ: “Năm ấy Ngũ gia bị hắn bao vây, Tam điện hạ lãnh quân đi cứu. Nhưng quân không thể đi nhanh, điện hạ sốt ruột liền dẫn theo mấy thị vệ bọn ta giả làm thương nhân buôn bán lương thực đi trước, không ngờ giữa đường bị người nước Yến chặn cướp, suýt mất mạng. Sau đấy chính Chung Bảo Khâm đã cứu bọn ta. Bà nó chứ, cái gã tiểu tướng quân vừa gầy vừa thon, da mịn thịt mềm nhưng bản lĩnh rất lớn. Hắn dẫn theo một đoàn quân tiên phong đánh cho bọn nước Yến kia sợ chết khiếp, rất là khoái trá!”
Trong đầu Bảo Khâm chợt bừng tỉnh, ký ức như dòng thuỷ triều tràn về.
Nàng còn cười chê Tần Tu hấp tấp, không nhớ nổi diện mạo người khác, xem ra bây giờ nàng cũng chẳng khác hắn là bao.
Bảo Khâm đương nhiên còn nhớ chuyện mình vây Tần Tu ở Xuân Cốc, cũng nhớ năm đó từng cứu mấy thương nhân buôn lương thực ở Hà Khấu, nhưng những người đó trông như thế nào, có tráng kiện như Ngũ Cân, có thư sinh như Tần Liệt hay không thì nàng không chút ấn tượng nào hết. Khi đó Bảo Khâm còn là Chung tiểu tướng quân oai phong lẫm liệt, nào chú ý đến cái tên mặt trắng non choẹt ấy làm gì.
Nói như vậy là… Tần Liệt đã nhận ra nàng từ lâu?
Hay là, hắn cũng giống Tần Tu, chỉ cho là nàng với người tên Chung Bảo Khâm kia dáng vẻ tương tự. Bảo Khâm cố nhớ lại thật kỹ lúc còn ở Tây Bắc, đặc biệt là lúc vây Tần Tu ở Xuân Cốc. Nàng quen cứ ra khỏi cửa là mặc áo giáp, đội mũ sắt, tuy có lộ mặt nhưng quá khác so với bộ dạng tóc mây trâm phượng thế này.
Bây giờ nàng trắng ngần không tì vết, cho dù nàng có đứng trước gương cũng chưa chắc nhận ra chính mình. Nói không chứng, chỉ là… nàng đã nghĩ nhiều quá thôi. Nếu không dù nàng từng cứu mạng Tần Liệt, hắn cũng cứu nàng một mạng, không vạch trần nàng đã đành, chắc chắn sẽ không đồng ý lấy một người vợ từng giả trai đánh trận đến chết đi sống lại.
Ngũ Cân lớn tiếng kể chuyện năm đó cho Tư Đồ nghe, nước miếng văng đầy. Bảo Khâm cũng không hề suy xét, ngay đến người thích sạch sẽ như Thanh Nhã lúc này cũng im lặng không nói câu nào, chỉ cúi đầu chau mày, không biết đang nghĩ gì.
Gần nửa tiếng trôi qua, Tần Liệt mới hùng hổ đi vào. Khuôn mặt hắn vẫn thâm trầm không đổi sắc, quanh người dường như có khí lạnh. Người hầu bên ngoài nhìn thấy hắn liền núp thật xa, kẻ không kịp chạy thì quỳ dưới đất sợ đến mức run lẩy bẩy không dám nói câu nào.
“A Liệt, ngươi đến rồi sao?” Chỉ có Tư Đồ không sợ chết mới dám trêu đùa hắn, híp mắt vẫy vẫy tay: “Ngũ Cân đang kể chuyện công lao vĩ đại của ngươi đấy. Không ngờ ngươi suýt chết dưới tay bọn Bắc Yến, còn được Chung tiểu tướng quân cứu ra. Sao chưa bao giờ nghe ngươi nhắc đến chuyện này nhỉ?”
Tần Liệt hơi ngẩn ra, ánh mắt nhanh chóng nhìn về phía Bảo Khâm, vừa bắt gặp ánh mắt nàng, đôi mắt đen tuyền, sáng lấp lánh, luôn luôn mang theo vẻ hứng khởi.
“Ngươi cũng không phải thê tử của ta, việc gì phải kể cho ngươi?” Tần Liệt lạnh lùng lườm Tư Đồ. Nói xong, hắn còn không vui liếc nhìn Ngũ Cân, nạt nộ: “Nhiều chuyện!”
Tần Liệt bảo Ngũ Cân dẫn theo vài thị vệ kiểm tra một lượt hành cung. Một lát sau Ngũ Cân trở lại, thì thầm gì đó vào tai hắn. Tần Liệt không nói gì, chỉ cúi đầu “ừ” một tiếng, sau đấy đột nhiên đưa mắt nhìn về phía Bảo Khâm. Đôi mắt đen thâm thuý, ánh mắt sắc bén, giống như xuyên thẳng vào trái tim người ta. Nàng cố gắng lắm mới không quay người đi, nỗ lực duy trì bộ mặt không chút cảm xúc, học theo Tần Liệt, đơ như khúc gỗ gật đầu với hắn.
Thanh Nhã vẫn còn đang rầu rĩ chuyện vừa xong, không chú ý đến động tác của hai người, chỉ có Tư Đồ nhạy bén, trong chớp mắt vừa nhìn Tần Liệt, xong lại quay sang nhìn Bảo Khâm, nụ cười kỳ quặc phơi phới trên mặt. Nàng không hiểu Tư Đồ đang cười gì, nhưng kẻ mặt lạnh nghìn năm là Tần Liệt bỗng đỏ mặt, quay người đi chỗ khác.
Tần Liệt không ở lại hành cung lâu, hắn dặn dò Ngũ Cân điều thêm thị vệ đến rồi tạm biệt rất lễ độ. Tư Đồ thấy thế cũng vội vàng đuổi theo. Vừa đứng dậy, hắn như chợt nghĩ ra điều gì, quay lại dặn: “Thuốc hôm trước không cần uống nữa. Tối này ta sẽ đổi một đơn thuốc mới và sai người đem qua đây.”
“Lại phải đổi thuốc?” Bảo Khâm nhíu mày hỏi: “Lẽ nào bệnh của ta lại tái phát?”
Tư Đồ vội vàng nói: “Không phải, không phải! Độc trên người Công chúa… không, bệnh này mỗi ngày mỗi khắc, cứ ba bữa phải đổi thuốc một lần. Nếu không, không những bệnh không khoẻ mà còn có hại cho cơ thể.” Hắn vừa nói vừa ngó nghiêng bên ngoài, mắt thấy Tần Liệt đã ra khỏi sân, không nói chuyện với Bảo Khâm nữa, ôm hòm thuốc đuổi theo.
Đợi Tư Đồ đi xa, Thanh Nhã mới ôm ngực thở phào một hơi, vẻ mặt lo lắng nhìn Bảo Khâm nói nhỏ: “Công chúa, người nói xem, Tam điện hạ không nhận ra người chứ?”
Bảo Khâm cau mày không nói gì.
“Công chúa! Lỡ như… lỡ…” Thanh Nhã có ý muốn khuyên nàng rờ khỏi hành cung về nước Trịnh nhưng nhớ đến lời dặn dò của Tư Đồ trước lúc rời đi nên đành thôi.
Bảo Khâm cũng không muốn giấu giếm Thanh Nhã, đem chuyện tối hôm trước Lương Khinh Ngôn đến thăm nói cho nàng nghe. Thanh Nhã nghe xong mới thở phào nhẹ nhõm.
Còn Tần Liệt, vừa bước ra khỏi hành cung đã lập tức nhảy lên ngựa, Tư Đồ vội vàng đuổi theo sau, vừa chạy vừa hét: “Lão Tam, ngươi đợi chút! Đợi ta! Ta có chuyện muốn hỏi!”
Tần Liệt biết tránh được một lần không tránh được mãi, đành phải xuống ngựa đợi hắn. Tư Đồ thở phì phò chạy đến trước mặt Tần Liệt nhưng lại không hỏi ngay, đôi mắt tròn xoe nhìn Tần Liệt từ trên xuống dưới thật kỹ, một lát sau lại cười phá lên rất kỳ quái.
“A Liệt, ngươi có chuyện giấu ta.” Tư Đồ hỏi với giọng điệu khẳng định. “Là chuyện liên quan đến Thất Công chúa? Đúng, chính là nàng ta.” Hắn nhanh chóng bày ra bộ dạng cười đùa cợt nhả, đắc ý nói: “Hai ta quen biết bao năm nay, ánh mắt của ngươi ta nhìn là có thể nhận ra ngay. Ngươi còn muốn giấu hả?”
Tần Liệt không phủ nhận, chỉ lạnh lùng đáp: “Không sai, ta giấu giếm, không muốn nói.” Khuôn mặt hắn vẫn lạnh như băng, trong ánh mắt ẩn chứa sự bất đắc dĩ.
Tư Đồ nhất thời kích động, vỗ tay cười lớn: “A Liệt, ngươi cũng có chút giống người rồi. Thế này mới là ngươi. Nếu không nhìn bộ mặt cá chết chẳng có tí cảm xúc nào kia, ta còn thật sự tưởng trái tim ngươi đã đóng băng. Cũng tốt, cũng tốt, Thất Công chúa xinh đẹp, tính tình phóng khoáng thoải mái, hai người các ngươi rất xứng đôi.”
Tần Liệt thấy hắn mãi không nói được chuyện gì đứng đắn cảm thấy thật phiền phức, nhảy lên ngựa rời đi. Tư Đồ vội lao lên phía trước, giữ lấy dây cương, mặt dày mày dạn nói: “Ta còn chưa nói hết, sao ngươi có thể cứ thế mà đi!”
“Ta nhổ vào!” Tư Đồ thở hổn hển đạp con ngựa của Tần Liệt, tay thì nắm chặt dây cương không cho nó đi. Con ngựa bị đau, giậm móng xuống đất, hại Tần Liệt chỉ có thể giữ chặt lấy dây cương, khó khăn lắm mới ngồi vững. Tư Đồ thấy vậy mới hết bực tức, nhếch mép cười: “Ai bảo ngươi không nói vào trọng tâm, đáng đời!”
Tần liệt bó tay với gã mặt dày này, bất đắc dĩ thở dài, nhẫn nhịn hỏi: “Ngươi rốt cuộc muốn gì?”
Tư Đồ cười ha hả, mở hòm thuốc, lục tìm bên trong, một lúc sau lấy ra một cái bình sứ đưa cho Tần Liệt, ra vẻ thần bí nói: “Cho ngươi.”
“Cái gì đây?” Tần Liệt cầm lấy, mở bình ra ngửi, trong mắt chợt hiện lên vẻ chán ghét, hung hăng ném món đồ trong tay lại cho Tư Đồ, giọng nói cứng ngắc: “Ngươi tự đi mà dùng!”
“Ta không cần!” Tư Đồ cười tươi cầm lấy chiếc bình, nói: “A Liệt, đừng lãng phí lòng tốt của người khác. Thứ này không dễ làm, ta mất bao công sức mới luyện được vài viên. Rất hiệu quả! Ngươi thật sự không cần sao? Bộ dạng của ngươi bây giờ, Thất Công chúa nhất định không ưa đâu. Đừng tưởng đẹp trai thì người ta sẽ thích, ta thấy nàng đối xử với ngươi rất khách sáo, không muốn coi ngươi như người nhà. Tốt xấu gì cũng phải dỗ dành người ta, chọc cho nàng cười, nếu không, cả ngày mặt mày như khúc gỗ, ai mà chịu nổi…”
Tư Đồ huyên thuyên một hồi, Tần Liệt đã không đủ kiên nhẫn mà quất cho hắn một roi. Tư Đồ thấy nguy hiểm, nhanh chóng buông dây cương ra, trừng mắt nhìn Tần Liệt phi như bay rồi biến mất ở cuối con đường. Hắn quay người lại thấy Ngũ Cân vẫn đứng canh ở trước cổng Hành cung, chậm rãi bước tới, ném cái bình cho hắn dặn dò: “Lúc về nhớ dỗ Vương gia nhà ngươi uống, lần này đảm bảo hiệu quả.”
Ngũ Cân liên tục xoa tay, không muốn gánh lấy chuyện khó nhằn này, mếu máo nói: “Ngài cũng biết tính cách của Vương gia, ngài ấy nói không thì tức là không. Hơn nữa thứ này có dùng được hay không, không phải đại nhân ngài nói là xong. Bao nhiêu năm như vậy rồi, ngài bắt Vương gia nhà tôi ănđủ thứ linh tinh, lần nào cũng nói có tác dụng, sao vẫn chẳng thấy gì?”
“Lần này khác…” Tư Đồ còn định khuyên tiếp, Ngũ Cân đã trốn mất dạng.
Hắn quay lại nhìn đám thị vệ gần đó, những tên này cũng sợ bị chỉ đích danh nên đều trốn hết sạch. “Cái lũ khốn kiếp, kẻ nào kế nấy gan bé như gan chuột, không được tích sự gì!” Tư Đồ vừa đi vào trong Hành cung vừa chửi: “Các ngươi không chịu giúp thì ta sẽ tìm người khác.”
Gã Tư Đồ này, lời nói cử chỉ không theo khuôn phép, làm việc gì cũng theo sở thích, cho nên hắn đi rồi mà còn quay lại, Bảo Khâm cũng không thấy có gì lạ. Thanh Nhã do biết được tin tức về Lương Khinh Ngôn nên cũng thả lỏng hơn, đối đãi với Tư Đồ cực kỳ khách sáo, không hề hỏi nguyên nhân tại sao hắn quay lại.
Đợi uống hết chén trà, Tư Đồ mới chậm rãi nói ra mục đích của mình.
“Ý Tư Đồ đại nhân là, muốn ta dụ Tam điện hạ uống thuốc này ư?” Bảo Khâm cầm bình thuốc trong tay không hiểu, nghi ngờ hỏi lại: “Ngài và Tam điện hạ chẳng phải quen nhau đã lâu sao, hà cớ gì không tự mình đưa cho ngài ấy?” Lúc nói chuyện, Bảo Khâm tò mò mở bình thuốc ra ngửi, thấy mùi nhàn nhạt, không rõ sử dụng nguyên liệu gì.
“Hắn không chịu uống.” Tư Đồ thở dài, buồn bã gãi đầu: “Ta thấy A Liệt rất thích Công chúa, nếu Công chúa dỗ, nói không chừng hắn sẽ uống.” Lời hắn nói ra quá thẳng thắn, Bảo Khâm dù mặt dày đến đâu cũng không thể nào thừa nhận được, nàng lúng túng không biết trả lời sao.
“Thuốc này là… để chữa bệnh? Tam Điện hạ bị bệnh?”
“Cũng không phải.” Tư Đồ khó xử. “Ây dà, chuyện này ta không dám nói, nếu A Liệt biết sẽ tìm ta tính sổ mất.” Miệng thì bảo không thể nói, nhưng trên mặt Tư Đồ tràn đầy hứng thú, rõ ràng là đang viết “Mau hỏi ta đi”.
Thế là, Bảo Khâm làm theo, khẽ hỏi: “Tư Đồ đại nhân cứ nói cho ta nghe đi, ta không tiết lộ cho người khác là được.” Lúc nói, nàng còn nháy mắt với Thanh Nhã. Thanh Nhã hiểu ý, mau chóng lui xuống.
Trong phòng chỉ còn lại hai người, Tư Đồ lập tức hứng thú hẳn. “Thật ra cũng không phải là chuyện gì lớn, A Liệt không ốm đau bệnh tật, chỉ là mấy năm trước đến chỗ ta uống nhầm thuốc, bị trúng độc… kết quả là… cơ mặt của hắn không thể hoạt động được nữa…”
Bảo Khâm: “…”
Hoá ra vị Vương gia này không phải thật sự lạnh lùng, mà là không thể cười nổi. Còn khiến Bảo Khâm tưởng hắn thâm sâu khó lường…
“Vậy trước đây ngài ấy cũng như thế?”
“Sao vậy được!” Tư Đồ khịt mũi. “Lúc còn nhỏ không cần phải nói, hắn suốt ngày gây gổ với người khác, đánh xong còn chạy đi mách tội, nói dối không chớp mắt, trong cung ai cũng sợ hắn.” Nhớ lại những ngày tháng thiếu thời chọc phá khắp nơi, khuôn mặt Tư Đồ nở nụ cười hoài niệm. “A Liệt cười rất đẹp, lúc đó Bệ hạ rất yêu thương hắn.”
Bảo Khâm lau mồ hôi, nàng vẫn chưa tưởng tượng được bộ dạng Tần Liệt lúc cười. Có lẽ đã quen với khuôn mặt lạnh lùng xa cách của hắn, cho nên nàng cảm thấy không hợp. Nếu thật sự có một ngày hắn cười hề hề ngốc nghếch như Tần Tu… chỉ mới nghĩ nàng đã thấy quái dị rồi. Bảo Khâm run người.
Thế nên, nàng vội ném cái bình trả lại Tư Đồ, lắc đầu cự tuyệt: “Chuyện này… nam nữ thụ thụ bất thân, thiếp và Tam Điện hạ vẫn chưa phải phu thê… Chuyện này, Tư Đồ đại nhân vẫn nên tự mình làm thì hơn.” Hơn nữa, cũng nhiều năm rồi, nếu thật sự chữa khỏi thì cần gì phải đợi đến bây giờ. Chẳng may Tần Liệt uống thuốc sinh bệnh, nàng sẽ phải chịu trách nhiệm.
Tư Đồ lại nhờ vả lần nữa nhưng Bảo Khâm kiên quyết từ chối. Tốt nhất là mau chóng gọi Thanh Nhã vào bảo nàng tiễn hắn về.
Lúc nghỉ trưa, Bảo Khâm nằm trên giường lật qua lật lại không sao ngủ nổi. Một lát lại nhớ đến chuyện này, nghĩ một hồi thì bật cười.
Không chừng, dưới vẻ ngoài lạnh lùng xa cách của hắn lại chất chứa một trái tim nồng nhiệt.
Chiều, trong cung đưa thiệp tới nói Hoàng hậu nương nương muốn mời Bảo Khâm vào cung nói chuyện.
Bảo Khâm nhìn tấm thiệp trên bàn mà khó xử. Do chưa loại bỏ hết độc trên người, nàng chỉ có thể tạm thời ở lại Phong thành, cụ thể là ở đến bao giờ cũng không rõ. Nàng vốn không có kiên nhẫn với những bữa tiệc xã giao, có thể tìm lý do từ chối là tốt nhất. Nhưng nàng dù sao cũng phải ở lại nơi này một thời gian dài, nếu không biết điều, ngày tháng sau này sợ là sẽ khó sống.
Nàng suy nghĩ cẩn thận, cuối cùng đành nhận lời. May mà ba ngày sau mới phải vào cung, Bảo Khâm có thời gian từ từ chuẩn bị.
Trong thời gian này, Tần Tu có đến thăm nàng một lần, nhắc đến chuyện hôm tết Trung Thu Tần Đế nổi trận lôi đình, nói xong còn cố tình kể xấu Tần Liệt: “Công chúa đừng bị bộ dạng chính khí lẫm liệt của Tam ca ta lừa, ta đã sớm nói huynh ấy tâm địa gian trá, không sai chút nào. Trong số mấy huynh đệ, xấu xa nhất chính là huynh ấy. Nàng xem, đến ta huynh ấy còn lợi dụng. May mà Công chúa vẫn chưa gả đi, nếu không hối hận cũng chẳng kịp. Chi bằng dứt khoát từ chối hôn sự, để huynh ấy lấy Lưu tiểu thư xấu xí kia, không thì Vương Nhạn Như cũng được. Tính tình nàng ta chắc chắn sẽ áp chế được Tam ca.”
Bảo Khâm không nhịn được cười: “Ngũ gia có vẻ rất quan tâm đến hôn sự của Tam điện hạ.”
Tần Tu dè bỉu: “Chẳng qua ta thấy không ưa bộ dạng quỷ quái của huynh ấy, cả ngày mặt mày lạnh băng, làm như người ta thiếu nợ huynh ấy không bằng.”
Nói xong, hắn cầm lấy chén trà tu một hơi rồi cười nói với Bảo Khâm: “Công chúa cũng đừng xem thường. Ta chỉ muốn tốt cho nàng, trong kinh thành này các cô nương mê mẩn Tam ca không ít, phụ hoàng ngăn được một lần cũng không thể ngăn được cả đời. Nếu Công chúa gả cho huynh ấy, sau này sẽ phiền phức vô cùng.”
Lời hắn nói không phải không có lý, nếu Bảo Khâm là Thất Công chúa thật, có lẽ cũng sẽ bị hắn thuyết phục. Nhưng nàng không phải Công chúa, không những vậy nàng còn dự định nửa năm nữa sẽ rời đi, đâu cần phải quan tâm đến chuyện Tần Liệt cưới Trắc phi.
Ở mãi trong Hành cung cũng chán, Bảo Khâm bắt đầu đùa với Tần Tu, hứng thú hỏi: “Vậy theo ý của Ngũ gia, thiếp nên làm thế nào cho phải?”
Tần Tu phấn chấn, vỗ vỗ ngực, ngẩng cao đầu, tư thế “ngoài ta ra còn ai vào đây nữa”: “Công chúa thấy bản vương thế nào?”
Bảo Khâm tuy sớm đã nghĩ đến hắn sẽ nói vậy nhưng khi thật sự nghe thấy, nàng vẫn không nhịn được cười nghiêng ngả, nói không nên lời. Nàng ôm bụng nói tiếp: “Ngũ…Ngũ gia… thiếp biết ngài anh tuấn, nhưng…” Nhưng trắng trợn dồn người ta vào chân tường như vậy, không phải quá vô lý sao!
Tần Tu định tự khen mình tiếp, Thanh Nhã cuối cùng không thể vừa mắt nổi nữa, lên tiếng cắt ngang: “Ngũ Điện hạ, ngài đừng nói linh tinh. Công chúa là Tam tẩu tương lai của ngài, nói thế không thích hợp chút nào.”
Tuy Thanh Nhã nói những lời này cho Tần Tu nghe nhưng Bảo Khâm cũng hiểu được phần nào ý tứ trong đó, cuối cùng nàng đã ý thức được giờ mình không phải ở trong quân doanh Tây Bắc.
Nàng khẽ ho hai tiếng, quay trở về dáng vẻ nghiêm chỉnh đoan trang, nghiêm túc nói: “Chuyện này không thể nói năng tuỳ tiện, Ngũ điện hạ… xin hãy tự trọng.”
Tần Tu bĩu môi, không vui lườm Thanh Nhã, nhỏ giọng oán thán: “Công chúa thì tuyệt vời thế này mà a hoàn đi theo lại chẳng thú vị gì cả.” Hắn muốn dụ Bảo Khâm nói chuyện tiếp nhưng lúc này nàng đã ý thức được thân phận của mình, cảm thấy xưng huynh gọi đệ với Tần Tu thực không thích hợp nên đưa mắt ra hiệuTần Tu hiểu ý, chỉ có thể xin phép ra về.
Đợi Tần Tu đi khỏi, Thanh Nhã tận tình khuyên nhủ Bảo Khâm, không nói gì hơn ngoài những việc mà các tiểu thư khuê các phải chú ý. Bảo Khâm khiêm tốn lắng nghe, nhưng rốt cuộc có ghi nhớ hay không thì không biết.
Ngày phải vào cung, Thanh Nhã cảm thấy rắc rối vô cùng. Nếu trang điểm cho Bảo Khâm quá đẹp, sợ sẽ bị Tần Liệt, Tần Tu trêu chọc; nếu không trang điểm, sợ sẽ có người so sánh, khó tránh làm mất mặt nước Trịnh. Cuối cùng, Thanh Nhã chọn cho Bảo Khâm một bộ váy áo màu xanh nhạt có thêu hoa văn chìm, ống tay áo và mép váy thêu có hình cỏ phụng vĩ[1], tuy không bắt mắt nhưng cũng dễ nhìn.
[1] Cỏ phụng vĩ: Còn có tên khác là cỏ kim tinh, cỏ seo gà.
“Công chúa bước ngắn thôi, ngắn chút nữa.” Lúc ra cửa, Thanh Nhã nhắc Bảo Khâm thêm một lần nữa. Trước đây Bảo Khâm bệnh nặng, bước chân bớt phóng túng, bám vào tay Thanh Nhã chậm rãi đi, quả thật trông cũng có khí chất của Công chúa. Nhưng khi sức khoẻ đã tốt lên, nàng lại không chút cố kị, sải bước y như nam nhi đại trượng phu, khí thế ào ào như vậy đâu có giống với một cô nương đoan trang, yểu điệu.
Một đoàn người bước lên xe ngựa, từ từ vào cung.
Đây là lần đầu tiên Bảo Khâm vào cung, ngày trước khi còn ở nước Trịnh cũng chỉ có một lần nàng về kinh báo cáo. Khi lên triều, nàng quỳ sau đám đại thần đông nghịt, còn Trịnh Đế ngồi ngay ngắn trên đại điện, cách rất xa, đến mặt cũng không thấy rõ. Nhưng nàng vẫn nhớ như in không khí nặng nề và áp lực khiến người ta đến thở cũng không dám ở đó.
Bởi vì Thanh Nhã liều mạng kéo nàng cho nên suốt đường đi Bảo Khâm không có cơ hội vén rèm xem bên ngoài như thế nào. Tường thành nơi này có phải cũng cao như ở nước Trịnh, bầu trời nơi này có phải cũng chật chội như thế…
Xe ngựa dừng mấy lần, chắc đã qua mấy cánh cổng cung, bên ngoài có tiếng người nói chuyện. Xe đi rất chậm, lắc lư, lắc lư khiến Bảo Khâm cũng bị lắc đến choáng váng. Nàng cố chống đỡ nhưng cuối cùng vẫn không nổi, đợi đến khi Thanh Nhã phát hiện ra có điều khác thường, Bảo Khâm đã đi vào giấc ngủ từ bao giờ.
Thanh Nhã bất đắc dĩ, định lên tiếng gọi nàng dậy, nhưng thấy dáng vẻ khi ngủ của nàng rất thoả mãn thì không đành lòng. Thanh Nhã đấu tranh tư tưởng một lúc lâu, đến tận khi xe ngựa đã dừng lại, bên ngoài có thanh âm xa lạ vang lên: “Thất Công chúa, chúng ta đến nơi rồi.”
Thanh Nhã vội vàng gọi Bảo Khâm tỉnh dậy, nàng khẽ nói: “Công chúa, người mau dậy đi, dậy đi thôi!”
Bảo Khâm xoay người ngồi ngay ngắn, thẳng lưng, tay phải sờ xung quanh, nhanh chóng chỉnh trang y phục. Chớp mắt vài cái, nàng mới dần ý thức đây không phải doanh trại Tây Bắc, nàng cũng không phải là Chung tiểu tướng quân đánh trận chém giết, người đầy máu tanh.
“Đến nơi rồi, Công chúa.” Thanh Nhã thấy sắc mặt Bảo Khâm không tốt lắm, sợ doạ đến nàng, cố gắng hạ thấp thanh âm, dịu dàng nói: “Công chúa xuống xe thôi.”
“Ừ.” Bảo Khâm day mắt, gật đầu rồi từ từ đứng dậy. Thanh Nhã sợ Bảo Khâm sẽ xách váy rồi nhảy xuống đất, vội vàng vọt lên trước xốc rèm xe, vừa chặn đường đi của nàng vừa nói: “Nô tỳ đỡ người xuống xe.”
Bảo Khâm cũng đoán được phần nào ý tứ của Thanh Nhã, không làm loạn mà rất phối hợp để Thanh Nhã đỡ, nhẹ tay nhẹ chân bước xuống xe. Phía trước đã có cô cô và thái giám đến đón, nhìn thấy hai người, họ vội vàng tiến lên hành lễ, cười nói: “Công chúa cát tường! Hoàng hậu nương nương đã chờ người ở Ninh An cung từ sớm, gặp được Công chúa, không biết người sẽ vui vẻ như thế nào!”
Bảo Khâm không biết cách chào hỏi người khác, lúc này gặp người ta, không biết nói gì, chỉ cố gắng ghi nhớ những lời Thanh Nhã đã dặn dò trước khi đi, cứ mỉm cười tự nhiên. Những chuyện khác để nàng ta lo liệu.
Suốt đường đi, quả nhiên đều là Thanh Nhã nói chuyện cùng các cô cô, Bảo Khâm chỉ cần giữ nguyên tư thế mà đi là được. Lúc này có thể nói là nàng đã thấy ích lợi của viêc Tần Liệt mặt không cảm xúc, dáng vẻ sâu xa khó lường vô cùng hữu dụng.
Hậu cung nước Tần không xa xỉ như Bảo Khâm vẫn tưởng tượng, phòng ốc đều cao ráo rộng rãi, không xa hoa lộng lẫy như những cung điện ở nước Trịnh mà Bảo Khâm từng thấy. Cả đoàn người đi khoảng một khắc thì đến Ninh An cung, cũng chính là nơi Hoàng hậu ở.
Bên ngoài đã có cung nữ đợi sẵn, tất cả đều mặc y phục màu lam nhạt, trông giống như các tinh linh của nước. Nhìn thấy Bảo Khâm đã đến, tất cả vội vàng ra bái kiến.
Quy củ nước Tần không nghiêm ngặt như nước Trịnh, cung nữ sau khi hành lễ thì bắt đầu hoạt bát hẳn lên, nói chuyện không câu nệ tiểu tiết, cười đùa khen ngợi Bảo Khâm: “Đã nghe danh Thất Công chúa xinh đẹp từ lâu, chúng nô tỳ đợi chờ mãi, hôm nay được gặp mặt, thật không uổng công. Công chúa thật sự rất đẹp!”
Bảo Khâm cố giữ nguyên dáng vẻ cao thâm khó lường, chỉ hơi hơi mỉm cười.
Vừa nói chuyện, các cung nữ vừa dẫn nàng vào trong phòng.
Hoàng hậu không ở trong đại điện mà ở Thiện điện, cùng các phi tần nói chuyện, uống trà, không khách sáo với nàng mà giống như thực sự coi nàng là người trong nhà.
Vừa vào trong phòng, Bảo Khâm đã nhìn thấy một phu nhân xinh đẹp ngồi ở đầu, mặc bộ y phục màu lam thêu hoa hồng, trên đầu cài đoá mẫu đơn to. Nếu là người khác chắc chắn sẽ trông đầy tục khí, nhưng đồ được mặc trên người bà ấy lại toát vẻ cao quý
Đây đúng là Hoàng hậu nước Tần. Bảo Khâm nghĩ thầm trong lòng, ánh mắt lơ đãng liếc nhìn những người còn lại một lượt, tuy mỗi người một vẻ nhưng luận về khí chất ung dung kia, không ai sánh được với Hoàng hậu.
Bảo Khâm vừa định cúi người hành lễ, đột nhiên một cô nương xông ra, hung hăng trừng mắt nhìn nàng, tức giận hét lớn: “Thì ra là cô!”
Bảo Khâm nheo mắt, trên mặt vẫn giữ nguyên nụ cười khách sáo xa cách, thản nhiên gật đầu với nàng ta: “Chào Nhị tiểu thư!”
Thì ra, cơ mặt không thể co giãn rất có ích.
“Nhạn Như, sao lại vô lễ như vậy!” Sắc mặt Thái tử phi khó coi, trầm mặt khẽ quở trách Vương Nhạn Như, lúng túng cúi đầu nói với Bảo Khâm: “Xá muội vô lễ, mong Công chúa không trách tội.”
Bảo Khâm lắc đầu khách sáo: “Không sao.” Nói xong, nàng cũng không so đo với Vương Nhị tiểu thư, nghiêm chỉnh tới chào hỏi Hoàng hậu.
Hoàng hậu hiền hoà nói: “Bệ hạ rất yêu thương Tam nhi, xem tướng mạo của Công chúa, cả Hoàng cung này không ai sánh bằng.” Hoàng hậu rất thẳng thắn, nghĩ gì nói lấy, câu nói vừa rồi khiến Vương Nhạn Như mặt mày trắng bệch.
Thái tử phi che miệng bật cười, nói tiếp: “Lời này của mẫu hậu nếu nói ở bên ngoài, nhi thần thì không sao, nhưng Nhạn nhi nhà con sẽ khóc mất.”
Hoàng hậu vội vàng xoa dịu, cười nói: “Nhạn Như cũng rất xinh, Uyển Như cũng rất đẹp. Các cô nương tuổi trẻ đều xinh đẹp, mấy bà già bọn ta không sao bì nổi.”
Các phi tần ngồi bên cạnh vội vàng nịnh bợ: “Hoàng hậu nương nương đừng nói vậy, nếu người là bà già, chúng thần thiếp sao dám ra khỏi cửa nữa.”
Mọi người rối rít hùa theo, Bảo Khâm cũng nhếch miệng cười. Chỉ có Vương Nhạn Như vẫn nhìn chằm chằm Bảo Khâm, ánh mắt như muốn toé lửa.
Bảo Khâm xưa nay chưa từng giao thiệp với người trong cung, cũng không biết phải nói chuyện thế nào. Hoàng hậu và Thái tử phi có thể xem như hiền hoà, thấy Bảo Khâm không nói chuyện, chỉ nghĩ rằng nàng xấu hổ nên càng thêm nhiệt tình, kéo nàng lại dịu dàng hỏi han chuyện phong tục bản sắc nước Trịnh. Các phi tần ở bên cạnh thì cười phụ hoạ, không khí trong Thiện điện thoải mái dễ chịu.
Chỉ có Nhị tiểu thư họ Vương không vừa mắt Bảo Khâm, trừng mắt nhìn nàng lạnh lùng, thái độ thù địch rõ ràng. Nàng coi như không thấy, lễ phép mỉm cười với mọi người, thi thoảng nói một hai câu, tuy không nhiệt tình nhưng cũng không đến nỗi thất lễ.
Các phi tần ngồi chơi một lúc thì lần lượt xin phép ra về. Trong phòng chỉ còn lại Hoàng hậu và Thái tử phi, Vương Nhạn Như cũng ở lại. Bảo Khâm vốn định tìm lý do cáo lui nhưng Hoàng hậu nói muốn nàng ở lại dùng bữa, nàng không tiện từ chối đành miễn cưỡng ở lại.
Nàng tuy chưa bao giờ dùng bữa trong cung nhưng đã nghe sư phụ nói qua, cái gọi là Ngự thiện[2] thực chất chỉ được vẻ bề ngoài, lúc dọn lên bàn thức ăn đã nguội lạnh, nhạt nhẽo vô vị… Cho nên, Bảo Khâm không có chút hứng thú nào với Ngự thiện.
[2] Đồ ăn chuyên dùng cho vua, chúa trong cung.
Vương Nhạn Như mặt mũi xám xịt, vẻ không vui hiện rõ trên mặt, bị Thái tử phi đá chân mấy cái mới dần dần dịu lại nhưng không hề cười với Bảo Khâm cái nào. Chỉ có Hoàng hậu rất thích nói chuyện với Bảo Khâm, hỏi nàng phong cảnh trên đường đi từ nước Trịnh sang nước Tần, sau đó không ngừng cảm thán: “Vẫn là phong cảnh nước Trịnh tú lệ, Phong thành nơi đây quá cứng nhắc.”
Bảo Khâm nghe vậy lấy làm lạ, nghiêm chỉnh đánh giá vị Hoàng hậu này. Lúc trước nàng không để ý, bây giờ nhìn kỹ mới phát hiện Hoàng hậu mình hạc xương mai, khuôn mặt tròn trịa thanh tú, đuôi lông mày không giống các phu nhân khác ở nước Tần, trông lại có nét của các cô gái Giang Nam.
“Thất Công chúa không biết đấy thôi, mẫu hậu cũng là người nước Trịnh.” Thái tử phi thấy Bảo Khâm hoài nghi, liền lên tiếng giải thích: “Tiêu thị ở Nam Dương, Công chúa đã nghe bao giờ chưa?”
Tiêu thị ở Nam Dương! Bảo Khâm chợt rùng mình. Tuy đã là chuyện nhiều năm về trước nhưng Tiêu thị ở Nam Dương luôn luôn được phụ thân và sư phụ nàng nhắc đến.
Tiêu thị vùng Nam Dương từng là gia tộc hiển hách nhất nước Trịnh, đời nào cũng có nhân tài kiệt xuất. Từ khi lập quốc đã có ba vị là Nhất phẩm Thừa tướng, được người ta gọi đùa là “Tiêu bán triều”[3]. Nhưng ba mươi năm trước, Tiêu thị di dân lên phía Bắc, đến nước Tần, sau đó thì mai danh ẩn tích. Bảo Khâm không ngờ, Hoàng hậu nước Tần lại là người Tiêu gia.
[3] Tiêu bán triều: Một nửa triều đình là họ Tiêu.
Bây giờ, ánh mắt nàng nhìn vị Hoàng hậu này không giống trước. Không phải là cảm giác thân thiết nảy sinh vì đều là người nước Trịnh, mà là khi nàng lên núi Thanh Lương học nghệ, sư phụ đưa cho nàng mấy quyển sách, nghe nói đều bắt nguồn từ Tiêu gia. Từ lúc ấy, Bảo Khâm có cảm giác sùng bái ngưỡng mộ khó tả với gia tộc thần bí này.
Sau đấy, Bảo Khâm không còn che giấu như trước nữa, nói chuyện cũng thoải mái tự nhiên. Nàng vốn không phải là một cô nương khuê các nên đọc nhiều sách, hiểu biết rộng, những người luôn sống trong cung như Hoàng hậu và Thái tử phi không thể so sánh nổi. Không bao lâu hai vị kia đều bị những tập tục và mấy câu chuyện kỳ lạ trong dân gian của nàng thu hút, đến Vương Nhạn Như cũng mở to mắt ra nhìn, thấy rất thú vị.
Nói chuyện một lúc, cung nữ bước vào hỏi bao giờ dùng bữa bọn họ mới nhớ đến việc ăn cơm, nhất thời không nén nổi cười phá lên. Vương Nhạn Như cũng không còn thù địch như lúc đầu, chủ động kéo tay áo Bảo Khâm sốt ruột hỏi: “Sau này Huyền Nữ và Thần Tiên có ở bên nhau không? Có phải mẹ Huyền Nữ muốn chia rẽ uyên ương?”
Bảo Khâm thấy khó xử. Ban đầu khi nàng kể về những tập tục ở Tây Bắc, Vương Nhạn Như không có chút hứng thú nào, nhưng sau khi kể một số chuyện về tài tử giai nhân, nàng ta liền bám chặt lấy nàng không rời. Đúng là “thiếu nữ mười sáu mộng mơ”! Nàng ta quả thật đã quên luôn chuyện mình là tiểu thư khuê các.
Ấn tượng của Bảo Khâm về Vương Nhạn Như không phải quá tệ, nàng ta là thiên kim tiểu thư được cưng chiều, tính tình kiêu ngạo nhưng không phải người xấu, hai người cũng dần hoà hợp. Bảo Khâm chợt nghe thấy tiếng cung nữ bên ngoài vào báo, Thái tử và Tam điện hạ cầu kiến.
Vương Nhạn Như sửng sốt, sau đó ánh mắt như dao động nhìn chằm chằm Bảo Khâm, đẩy nàng ra.
“Mau cho truyền!” Hoàng hậu vui vẻ nói: “Hôm nay thật đúng dịp, vừa vặn mấy huynh đệ Liệt nhi đến thỉnh an. Thất Công chúa vẫn chưa gặp nó nhỉ? Liệt nhi còn non trẻ, cũng không biết phải đến Hành cung thăm công chúa.”
Khoé mắt Bảo Khâm giật giật, nàng nghĩ thầm, Hoàng hậu nương nương à, xem ra ngài vẫn chưa thật sự hiểu Tần Liệt rồi.
Lúc nói chuyện, Thái tử và Tần Liệt lần lượt bước vào, cả hai định hành lễ với Hoàng hậu thì bị người ngăn lại, Hoàng hậu còn chỉ vào Bảo Khâm nhiệt tình giới thiệu với Tần Liệt: “Liệt nhi, con đoán xem ai đây?”
Tần Liệt còn phối hợp với Hoàng hậu, nhíu mày tỏ vẻ không biết. Hoàng hậu bèn tươi cười nói: “Đây là Thất Công chúa nước Trịnh, là nương tử tương lai của con đó. Mau nhìn xem, Công chúa thật xinh đẹp!”
Tần Liệt nghe xong còn chăm chú nhìn Bảo Khâm, đôi mắt đen lấp lánh, khuôn mặt tuy vẫn lạnh lùng nhưng ánh mắt thì ấm áp. “Mẫu hậu nói phải, nương tử của con rất đẹp.”
Bảo Khâm dù có mặt dày, nghe hắn thẳng thắn khen ngợi như vậy cũng hơi hơi ngượng ngùng. Vương Nhạn Như còn khó chịu hơn, từ lúc Tần Liệt bước vào, ánh mắt nàng ta luôn dõi theo hắn nhưng mãi vẫn chẳng thấy Tần Liệt nhìn mình, trái lại hắn còn liên tục “liếc mắt đưa tình” với Bảo Khâm. Nếu không phải đang ở trong cung, e là nàng ta sẽ nổi điên lên mất.
Thái tử hiểu được nỗi lòng của “cô em vợ” từ lâu, sợ nàng ta nhất thời không khống chế được tình cảm sẽ làm loạn bèn nhanh chóng đổi chủ đề, cười nói với Hoàng hậu: “Nghe nói đầu bếp trong cung làm món ăn mới, nhi thần cố tình kéo Tam đệ đến chỗ mẫu hậu ăn chực, người đừng tiếc đấy!”
“Con học theo Tu nhi nói những lời lém lỉnh thế này từ bao giờ thế!” Hoàng hậu hiền hoà nhìn hắn: “Ta còn không hiểu con sao! Chẳng qua ta chỉ kêu Uyển Như sang nói chuyện cùng mà con đã vội vội vàng vàng đuổi theo, sợ ta giữ Uyển Như ở lại Ninh An cung à?”
Mọi người trong phòng cười rộ lên, Thái tử bị nói trúng tim đen nhưng không hề lúng túng, cười đáp lời Hoàng hậu: “Mẫu hậu đừng trêu chúng con nữa.” Nói xong, hắn vừa vui vẻ, vừa xấu hổ nhìn Thái tử phi, tiếp lời: “Uyển Như mới có tin vui, nhi thần không yên lòng nổi.”
“Ấy, sao chàng lại nói ra rồi?” Thái tử phi cừa giận dỗi vừa ngượng ngùng trừng mắt với Thái tử.
Hoàng hậu nghe xong thì vui mừng, nói: “Đây là chuyện vui, chuyện vui mà. Uyển Như cũng thật là, tin tức tốt lành như vậy mà không chịu nói sớm. Ngọc Trúc, nhanh lên, mau lấy đệm Như Ý của ta ra đây, Uyển Như đang có bầu, phải tĩnh tm. Tấm đệm Như Ý này là của cao tăng trên chùa Hộ Quốc tặng cho ta, có công dụng thanh tâm. Còn nữa, còn nữa…” Hoàng hậu vừa mở miệng, liền tặng thưởng như nước chảy. Thái tử phi liên tục từ chối, còn Thái tử thì thản nhiên như không.
Thái tử phi mới mang bầu được hai tháng nên chưa lộ bụng ra ngoài. Bảo Khâm trước đó tuy đã nhìn thấy phụ nữ có thai, nhưng đều nhìn từ xa, chỉ thấy cái bụng to nhô lên rất doạ người, còn Thái tử phi vẫn mảnh khảnh, không giống chút nào. Nàng nhìn vòng eo nho nhỏ của Thái tử phi, rất khó tưởng tượng trong cái bụng bằng phẳng kia ại có em bé.
Vương Nhạn Như thấy bộ dạng ngốc nghếch của Bảo Khâm liền mở miệng định châm chọc, vừa lên tiếng thì bị Thái tử phi đá vào chân nhắc nhở, nàng ta cảm thấy uất ức vô cùng. Liếc sang nhìn Tần Liệt, thấy hắn ung dung ngồi cạnh Bảo Khâm, dáng vẻ rất tự nhiên, trong lòng Vương Nhạn Như chua xót, khó chịu vô ngần.
Nói chuyện một lúc thì đến bữa. Hoàng hậu ngồi ở vị trí chủ toạ, Thái tử và Thái tử phi ngồi một bên. Vương Nhạn Như định ngồi cạnh Tần Liệt thì nhìn thấy bộ mặt lạnh lùng của hắn, trong lòng sợ sệt.
Bảo Khâm chọn vị trí sau cùng để ngồi. Vừa ngồi xuống, bên cạnh đột nhiên có thêm một người. Nàng quay sang thì thấy Tần Liệt rất tự nhiên ngồi đó, dường như cảm thấy không có gì là không ổn cả.
Bộ dạng “đó là lẽ đương nhiên” của hắn khiến Bảo Khâm nhất thời không hiểu nổi quy tắc của nước Tần. Lẽ nào trong quy định ở nơi này, chỉ cần đính hôn, dù chưa thành thân cũng đã có thể đối đãi với nhau như vợ chồng chính thức?
Trong lúc Bảo Khâm còn bất ngờ, Tần Liệt đã đưa cho nàng tách trà, nói: “Nàng khát rồi, uống chén nước trước đi.”
Thái tử ngồi đối diện đang ân cần rót trà cho Thái tử phi, nghe thấy lời Tần Liệt liền len lén ngẩng lên cười với hắn. Tần Liệt coi như không thấy, bộ mặt lạnh lùng tiếp tục gắp thức ăn cho Bảo Khâm: “Khoai sọ ninh rất mềm, nàng có muốn ăn không? À, còn rượu thì không được uống! Bệnh của nàng vẫn chưa khỏi hẳn…”
Bảo Khâm mới ngửi hơi rượu đã bị Tần Liệt nhìn ra. Chỉ ông trời mới biết đã bao lâu rồi nàng chưa được uống rượu. Lúc ở Hành cung bị Thanh Nhã cấm đã đành, bây giờ ngửi thấy hương rượu thơm lừng, con sâu rượu trong bụng nàng chỉ muốn chui ra. Rồi lại nhìn đống thức ăn đầy ắp này, nàng thật sự không hứng thú chút nào.
Tần Liệt thấy thế, mắt hơi ánh lên ý cười. Hắn suy nghĩ, cuối cùng nói với Hoàng hậu: “Mẫu hậu keo kiệt quá, cung của người không phải mới có rượu trái cây được tiến cống sao? Người không nỡ bỏ ra chiêu đã tụi con ạ?”
Hoàng hậu có chút bất ngờ, nghi hoặc hỏi: “Liệt nhi, trước giờ không phải con thích uống rượu Ngọc Tương Quỳnh Nam sao? Bữa trước còn chê rượu trái cây nhạt nhẽo vô vị, sao bây giờ…” Hoàng hậu nói được một nửa thì chợt hiểu ra, vỗ tay cười lớn, nhìn Bảo Khâm: “Rượu trái cây rất được, rất được!” Nói xong, bà sai cung nữ: “Còn đứng đó làm gì, mau đi lấy rượu cho Liệt nhi.”
Vợ chồng Thái tử bật cười thành tiếng, ngoài Vương Nhạn Như và Thanh Nhã, mọi người đều mỉm cười nhìn Tần Liệt và Bảo Khâm, ánh mắt sáng rực khiến Bảo Khâm sắp không chống đỡ nổi.
Rất nhanh, cung nữ đã mang lên một bình rượu trái cây. Tần Liệt không cần cung nữ ở sau hầu hạ, tự mình rót rượu, dưới cái nhìn lấp lánh của mọi người, vẻ mặt hắn rất tự nhiên đưa chén cho Bảo Khâm: “Rượu này uống không say, nhưng nàng cũng không được uống nhiều.”
Bảo Khâm gật đầu với hắn nói: “Cảm ơn Tam điện hạ!” Nàng tự thấy da mặt mình đã dày lắm rồi, bây giờ mới biết so với người nào đó còn kém xa.
Nhưng Bảo Khâm xưa nay rộng lượng, bị mọi người cười một trận xong cũng bình thường trở lại. Dù sao nàng cũng không ở nơi này cả đời, người bên cạnh có cười, cũng là cười Thất Công chúa, không liên quan gì đến nàng. Nghĩ vậy, nàng nhanh chóng khôi phục như bình thường, không những thoải mái uống rượu, đến thức ăn Tần Liệt gắp cho, nàng cũng ăn hết.
Dù sao cũng là cung Hoàng hậu, đồ ăn đẹp đẽ lộng lẫy không nói làm gì, mùi vị cũng tuyệt, không giống như những gì sư huynh kể: không thể nuốt trôi.
Bữa ăn này mỗi người đều có tâm tư riêng. Bảo Khâm ăn uống chuyên chú, Thanh Nhã lòng như lửa đốt, Vương Nhạn Như nghiến răng nghiến lợi, Thái tử và Thái tử phi chàng chàng thiếp thiếp, còn Hoàng hậu thì vui mừng ra mặt. Lúc nhìn vợ chồng Thái tử, lúc quay sang nhìn Tần Liệt và Bảo Khâm, lúc thì thầm than thở: “Hoàng đế nước Trịnh chết thật không đúng lúc, nếu chịu đựng thêm mấy ngày thì đã không cản trở đôi trẻ…”
Dùng bữa xong mọi người nói chuyện tiếp, đang nói Hoàng hậu chợt nghĩ ra điều gì đó, bảo Thái tử: “Nếu Uyển Như đã có thai, con nên dành nhiều thời gian chăm sóc Uyển Như. Buổi săn bắn mùa thu vào cuối tháng cũng không cần đi nữa, cứ ở lại trong kinh thành phụ giúp phụ hoàng con lo chuyện triều đình.”
Thái tử đang định trả lời, Thái tử phi đã cười nói xen vào: “Con đa tạ mẫu hậu quan tâm, nhưng Thái tử quanh năm ở trong kinh thành, khó có dịp ra ngoài, nhi thần thật sự không muốn trói buộc chàng trong cung. Dù sao cuối tháng con cũng đã sang tháng thứ ba, thai nhi dần ổn định, không cần quá lo lắng. Hơn nữa, nhi thần cũng không phải mang thai lần đầu tiên, nếu làm quá, người khác thấy nhất định sẽ cười chê. Chỉ là buổi săn bắn con không đi được rồi, Thái tử xem xem nên đưa Văn Tú hay Ngưng Sương cùng đi?”
Hoàng hậu chau mày quở trách: “Con hiền lành quá rồi.” Hoàng hậu lại nghĩ gì đó, quay sang nói với Thái tử: “Gì mà Văn Tú, Ngưng Sương! Cái bộ dạng hồ ly của chúng nó ta không thích. Một người cũng không được đi cùng. Chẳng phải trong phủ con vẫn còn mấy thị thiếp sao, đến lúc đó chọn một đứa nhanh nhẹn là được. Dù sao cũng chỉ chăm sóc sinh hoạt ngày thường, mười mấy hai mươi ngày là về kinh rồi.”
Văn Tú và Ngưng Sương đều là Trắc phi của Đông cung. Đặc biệt Đổng Ngưng Sương, cha là Đổng Xương Hoà – Binh bộ Thị lang, rất được Tần Đế trọng dụng, gần đây còn có tin hắn sắp được thăng chức. Bởi vậy, tuy nhà họ Đổng chưa có gì nhưng ở trong Đông cung đã rất hả hê, hành vi cử chỉ kiêu ngạo. Tuy trước mặt Thái tử phi vẫn rất lễ độ, nhưng nếu có một ngày nàng ta sinh con trai, chỉ e đến Thái tử phi cũng không thèm coi ra gì.
Bình thường ở trong cung, Thái tử phi vẫn luôn dùng Cung quy áp chế nàng ta, nếu để nàng ta đi theo Thái tử đến chỗ săn bắn, lại còn là mười mấy hai mươi ngày, ai mà biết sẽ có chuyện gì. Cho nên nghe Hoàng hậu nói xong, trong lòng Thái tử phi cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn.
Hoàng hậu một mặt bảo vệ Thái tử phi, mặt khác cũng đang nhắc nhở nàng ta. Phủ Quốc công có một Thái tử phi đã đủ rồi, nếu còn thêm một Tam Vương phi nữa, sau này khó tránh khỏi có loạn ngoại thích. Thái tử phi trong lòng hiểu rõ từ lâu, nhưng vẫn ngại chưa nói cho Vương Nhạn Như.
Thái tử cười dỗ dành Hoàng hậu: “Nghe mẫu hậu nói kìa, nhi thần chỉ đi có mười mấy ngày, bên cạnh cũng không phải không có người hầu hạ, cần gì phải đưa thị thiếp đi cùng. Tam đệ trước giờ đều có một mình, lần này để nhi thần bầu bạn với đệ ấy.
Tần Liệt nghe xong lườm hắn một cái, không nói gì.
Hoàng Hậu cười phá lên, chỉ vào hắn: “Liệt nhi chẳng phải còn có Thất Công chúa sao?”
Bảo Khâm sửng sốt, không hiểu sao tự nhiên lại nhắc đến mình. Thanh Nhã định mở miệng từ chối nhưng ngại quy củ, không dám nói gì, nôn nóng đến mức hai mức đỏ hoe.
Tần Liệt cúi đầu nhìn Bảo Khâm, dịu dàng hỏi: “Công chúa cùng đi nhé?”
“Nàng ta cũng đi?” Vương Nhạn Như không nhẫn nhịn nổi nữa, cười lạnh buông lời chế giễu: “Người ta là Thất Công chúa cành vàng lá ngọc, không giống với chúng ta đều là người thô kệch. Đừng nói là săn bắn, chỉ sợ đến ngựa cũng chẳng biết cưỡi.”
Từ lúc trúng độc, Bảo Khâm vẫn chưa được ra ngoài, xương cốt sắp rụng rời hết rồi. Vừa nghe thấy mọi người nhắc đến việc săn bắn, nàng liền nóng lòng muốn thử. Nhưng Vương Nhạn Như nói cũng không sai, thường ngày Thất Công chúa không ra khỏi cung bao giờ, đâu biết cưỡi ngựa. Nếu nàng đi theo, chẳng may không nhịn được săn vài con thỏ, há chẳng phải sẽ bị lộ tẩy sao?
“Không sao.” Tần Liệt lạnh lùng nhìn Vương Nhạn Như, sau đó lại quay sang Bảo Khâm, ánh mắt hắn trở nên dịu dàng: “Ta sẽ dạy nàng.”
“Được! Được!” Hoàng hậu vỗ tay, nói với Ngọc Trúc: “Đem con ngựa Như Phong của bổn cung cho Công chúa, để Tần Liệt dạy Công chúa cưỡi. Vẫn còn nửa tháng nữa, lo gì không học được.” Nói xong, bà vui vẻ nhìn Tần Liệt và Bảo Khâm: “Như Phong rất dễ bảo, Công chúa không cần sợ hãi. Liệt nhi phải kiên nhẫn, Công chúa là nữ nhi, con đừng coi nàng giống đám đàn ông thô lỗ ngoài doanh trại.”
Tần Liệt nghiêm túc gật đầu. Bảo Khâm vội vàng đứng dậy, tạ ơn Hoàng hậu.
Mọi người ngồi chơi đến giờ Mùi, thấy Hoàng hậu bắt đầu buồn ngủ mới xin phép ra về. Tần Liệt đưa Bảo Khâm về tận cửa Hành cung, ánh mắt lấp lánh nhìn nàng một lúc, giống như đợi nàng mở lời giữ mình lại.
Thanh Nhã thấy thế, vội vàng chen lên trước chào Tần Liệt, khách sáo đuổi người: “Tam điện hạ đi thong thả!” Khó khăn lắm nàng mới đuổi được hắn đi.
Sau khi về cung, Thanh Nhã muốn bàn bạc lại với Bảo Khâm nhưng vừa vào cửa đã thấy nàng ngáp ngủ, uể oải nói: “Để ta ngủ đã, mệt chết đi được!”
Khi Bảo Khâm dậy, ngựa Hoàng hậu tặng cũng đã được đưa đến. Nàng nhanh chóng rửa mặt, vui mừng phấn khởi chạy ra xem. Ngựa phương Bắc to lớn, chạy nhanh, sức bền cũng tốt, đặc biệt là ngựa chiến nước Tần, Bảo Khâm rất thích.
Nàng ở trong quân doanh bốn năm, thay hai con ngựa. Con đầu tiên tên là Thiểm Điện, ngựa ô cao lớn, màu lông óng ánh như gấm, vô cùng thông minh thiện chiến. Nó đã theo nàng không biết bao nhiêu trận đánh. Trong một lần giao tranh với Bắc Yến, nó bị trúng hai mũi tên, tuy giữ được mạng nhưng không thể ra chiến trường được nữa.
Sau đó nàng đổi một con ngựa cái, gọi là Đặc Lặc. Con ngựa này do sư huynh mang từ thung lũng Hà Sáo về, so với ngựa của nước Tần còn to lớn hơn, uy phong lẫm liệt, chạy nhanh như bay. Đặc Lặc vẫn theo Bảo Khâm cho tới tận khi nàng bị ép uống rượu độc, không biết hiện giờ nó thế nào rồi.
Bảo Khâm chạy đến chuồng ngựa như một cơn gió. Từ xa đã thấy mọi người tụ tập một chỗ, nói chuyện gì đó rất ồn ào. Thấy Bảo Khâm xuất hiện, tất cả mau chóng nhường đường, người chăn ngựa tươi cười đón tiếp nàng, cung kính hành lễ rồi nịnh nọt: “Hoàng hậu nương nương đã sai người mang Như Phong đến, Công chúa mau lại nhìn xem, thật đúng là ngựa tốt!”
Bảo Khâm nhìn con ngựa nhỏ xinh xắn trong chuồng, nghẹn họng không nói nổi một lời.
Vóc dáng nhỏ bé, ánh mắt ngoan ngoãn dễ bảo cùng với bộ yên ngựa tinh xảo hoa lệ, chỗ nào cũng như đang tuyên bố thân phận “cao quý” của nó. Thứ này chỉ nhìn được không dùng được, quất một roi đủ khiến nó không gượng dậy nổi. Bảo Khâm ôm trán, hơi nhếch miệng, khó xử mà khen ngợi một câu: “Quá nhiên xinh đẹp!”
“Công chúa có muốn thử không?” Người chăn ngựa nhiệt tình dắt Như Phong đến trước mặt Bảo Khâm, hơi vỗ lên lưng, con ngựa liền khuỵu chân trước xuống.
“Không… không cần đâu…” Bảo Khâm quay người một cách gian nan, khống chế bản thân không đá một cái. “Như Phong mới được đưa đến, để nó nghỉ ngơi một lát rồi tính sau.” Cái thứ yếu đuối mỏng manh như vậy mà cũng gọi là ngựa sao? Bảo Khâm thật sự lo rằng mình sẽ đè gãy chân nhỏ nhắn của nó mất.
Nàng thất vọng về phòng, Thanh Nhã dè dặt khuyên nhủ: “Nếu không Công chúa đừng đi nữa. Sức khoẻ của người vẫn chưa tốt lên hẳn, đường đi xóc nảy, nô tỳ sợ người không chịu được.”
“Muốn đi cũng chả có tác dụng gì.” Bảo Khâm ngã xuống giường, buồn rầu nói: “Con ngựa nhỏ đó, ta không muốn cưỡi, mất mặt lắm!”
Thanh Nhã vội vàng hùa theo: “Công chúa nói phải, con ngựa đó chẳng ra sao cả, không khác gì con lừa. Con lừa của người ta có khi còn hơn. Nếu Công chúa cưỡi thứ đó, đừng nói đi săn, ngay cả đi dạo cũng khó.”
Bảo Khâm buồn bực trở về giường nằm, lật qua lật lại mãi vẫn không ngủ được. Nàng là người hoạt bát, giờ sức khoẻ cũng khá dần, nàng không muốn ở lì trong cung. Khó khăn lắm mới có cơ hội ra ngoài, sao có thể chỉ vì một con ngựa mà bỏ lỡ được.
Càng nghĩ càng khó chịu, nàng xoay người ngồi dậy, chống cằm suy nghĩ, sau đó gọi Thanh Nhã: “Em sai người đi tìm Tần Tu, hỏi xem hắn có thể cho ta mượn ngựa không.” Dù sao nàng và Tần Tu cũng có “giao tình” nhiều năm, cho nên lần này người đầu tiên nàng nghĩ đến chính là hắn. Còn Tần Liệt, Bảo Khâm vừa nghĩ đến vẻ mặt của mọi người trong cung liền thấy xấu hổ. Nàng dù sao cũng là nữ nhi, nay còn mang theo thân phận Công chúa, đương nhiên không thể tuỳ tiện tìm “Phu quân tương lai” nhờ vả được.
“Công chúa vẫn muốn đi sao?” Thanh Nhã khó xử nhíu mày. “Chẳng qua là đi săn thôi mà, đợi sau khi về nước Trịnh, chỗ nào chẳng thể săn bắn. Công chúa cần gì phải đi góp vui như vậy?”
“Chẳng phải bây giờ vẫn chưa thể về sao?” Bảo Khâm nói: “Ngày nào cũng ở trong cung, ta buồn chán đến chết mất!”
Thanh Nhã hiểu tính nàng, nói một là một hai là hai nên biết mình khuyên cũng vô dụng, chỉ có thể nghe theo. Nàng ta suy nghĩ một lúc rồi nói: “Chi bằng đi tìm Tư Đồ đại nhân thì hơn.” Tư Đồ tuy phóng túng ngương ngạnh nhưng dù sao cũng không có ý với Bảo Khâm, đỡ lo người ta thừa cơ nịnh bợ.
Chỉ cần có ngựa, tìm ai có gì khác nhau? Bảo Khâm đang định gật đầu, a hoàn bên ngoài chạy vào báo: “Công chúa! Công chúa! Tam điện hạ sai thị vệ đến tặng ngựa.”
Ngựa Tần Liệt tặng!
Bảo Khâm lấy lại tinh thần, xoay người nhảy dựng lên, vội vàng hỏi: “Đâu? Đâu? Ngươi đã thấy chưa?”
“Ngựa được dắt đến chuồng rồi ạ. Công chúa có muốn qua xem thử không?”
Đương nhiên là có rồi. Trong đầu Bảo Khâm lập tức nghĩ đến hình ảnh Tần Liệt xuất hiện ở Phong thành, con ngựa hắn cưỡi nàng không dám nghĩ đến, nhưng ngựa của những thị vệ khác đều rất tốt, chọn đại một con cũng rất oai phong lẫm liệt.
Đến chuồng ngựa, nhìn thấy con ngựa oai phong to lớn như một đám mây đen, Bảo Khâm vừa kinh ngạc vừa vui sướng. Mắt nhìn ngựa của nàng rất tốt, vừa thấy đã nhận ra đây là con bảo mã yêu quý của Tần Liệt, trong lúc vui vẻ nàng cũng đồng thời tán dương Tần Liệt một câu: “Tam gia quả nhiên là người có nghĩa khí!”
Thanh Nhã nhìn thấy con hắc mã xong, trong lòng không vui chút nào. Chỉ là Bảo Khâm phấn khích quá mức, hại nàng mấy lần định nhắc, nhưng lời đến miệng rồi lại phải nuốt vào bụng. Tuy mới ở bên cạnh có mấy tháng nhưng tính tình Bảo Khâm ra sao nàng cũng hiểu được phần nào. Những chuyện khác Bảo Khâm có thể không quan tâm, nhưng cứ nhắc đến đánh trận hay tỉ thí là lại hăng hái ngay, phải tranh giành đến lúc một mất một còn mới chịu.
“Tên nó là gì?” Bảo Khâm vuốt ve bộ lông đen tuyền của con ngựa, hào hứng hỏi Ngũ Cân. Nhưng con ngựa này hơi kiêu ngạo, quay sang phì phì khinh thường Bảo Khâm rồi quẫy đuôi chạy đi.
Ngũ Cân sợ Bảo Khâm tức giận, vội vàng giải thích: “Nó tên là Táp Lỗ, là bảo bối của Tam gia, chỉ mình Vương gia cưỡi được nó, những người khác đến chạm vào nó cũng không chịu. Để mang được nó đến đây, tiểu nhân đã tốn không ít sức lực. Công chúa nhìn này, chân tiểu nhân còn bị nó đá hai cái.”
Người trông ngựa đứng sau cũng vội hùa theo: “Công chúa, con Táp Lỗ này người không thể chạm vào. Nó rất hung dữ, khi nãy nó còn khách khí với người, chứ nô tài vừa lại gần, nó đã giơ chân lên định đá, làm nô tài sợ chết khiếp.”
Bọn họ không nói thì thôi, càng nói càng khiến Bảo Khâm hứng thú, nàng chỉ mong có thể lập tức nhảy lên lưng ngựa chạy một vòng. Bảo Khâm bảo Ngũ Cân đem yên cương đặt lên lưng ngựa, còn mình vén tay áo chuẩn bị nhảy lên. Ngũ Cân sắp khóc ra nước mắt rồi, khổ sở cầu xin nàng: “Công chúa, người đừng làm khó chúng tiểu nhân, người vẫn nên đợi lát nữa Tam gia đến rồi tính. Nếu Công chúa xảy ra chuyện gì, Tam gia sẽ giết tiểu nhân mất. Hơn nữa…” Cuối cùng hắn cũng nghĩ ra một lý do thích đáng: “Trong sân chật chội, hay là để mai Tam gia đưa Công chúa đến bãi săn rồi hẵng cưỡi.”
Lời hắn nói quả thật rất có lý, Bảo Khâm nghĩ một lúc, cuối cùng cũng nghe theo, luyến tiếc vỗ vào mông ngựa, dịu dàng nói: “Thôi vậy, đợi ngày mai tìm nơi rộng rãi rồi đi, chỗ này mi không chạy nổi.”
Ngũ Cân thấy vậy rất muốn cười. “Thất Công chúa” này tuy đối xử với người nào cũng khách sáo, nhưng chưa từng thấy nàng dịu dàng hiền hậu bao giờ. Tam gia nghĩ đủ mọi cách lấy lòng người ta, kết quả vẫn không bằng một con ngựa, thật đúng là lấy đá đập vào chân mình.
Sau đó Ngũ Cân về Vương phủ gọi mã đồng[4] chăm sóc Táp Lỗ đến. Do con ngựa này tính tình quá hung hãn, người chăn ngựa ở Hành cung không đến gần nổi, đến cho ăn nó cũng chẳng chịu, kiêu căng vô cùng. Đương nhiên chuyện này Bảo Khâm không hay biết, buổi tối nàng ngủ rất ngon. Mới sáng sớm hôm sau nàng đã thay đồ để chuẩn bị cưỡi ngựa.
[4] Thằng bé phụ trách trông coi ngựa.
Trong đồ cưới của Thất Công chúa có không ít thứ tốt, vải vóc đều là hàng chất lượng cao, khi cắt ngắn bớt thì vừa vặn với người, đặc biệt còn có hai bộ đồ cưỡi ngựa màu đỏ, Bảo Khâm vừa nhìn đã thích. Chỉ tiếc nàng đang trong thời gian chịu tang, không được mặc y phục màu sắc rực rỡ tươi sáng, lôi ra vuốt ve xong đành phải bỏ lại vào hòm.
Sau khi thay quần áo, a hoàn đến báo Tần Liệt đã tới. Bảo Khâm vui mừng ra mặt, chạy nhanh ra ngoài.
Ngũ Cân đã dắt sẵn Táp Lỗ ra, còn Tần Liệt cưỡi một con hắc mã khác, cũng cao to tráng kiện, nhưng ở mi tâm có nhúm lông màu bạc, làm giảm đi sự dũng mãnh mà khiến nó trở nên đáng yêu hơn.
Bảo Khâm không nói gì đã muốn chạy đến “cướp” Táp Lỗ, Ngũ Cân sợ nó nổi điên ảnh hưởng đến mình, vội vàng buông dây cương, lùi ra sau. Vừa lùi, miệng vừa lớn tiếng gọi Tần Liệt: “Tam gia, ngài xem, tiểu nhân cũng bó tay thôi!”
Hắn còn chưa dứt lời, Bảo Khâm đã leo lên lưng ngựa. Táp Lỗ lập tức nổi điên, nhảy dựng lên, lắc người liên tục giống như muốn hất ngã nàng. Thanh Nhã đứng sau mà sợ hết hồn, mặt mày trắng bệch, vừa hoảng sợ thét lên vừa muốn xông vào giúp đỡ nhưng lại bị ánh mắt lạnh băng của Tần Liệt doạ cho lui xuống.
“Để nàng ấy tự mình điều khiển.” Tần Liệt không hề có ý muốn giúp, ngồi im trên lưng ngựa, khoanh tay đứng nhìn.
Táp Lỗ là con ngựa mà Tần Liệt yêu quý, đã đi theo hắn nhiều năm. Bao lâu nay ai cũng đối xử với nó rất khách sáo, chưa thấy người nào dám “lỗ mãng vô lễ” như Bảo Khâm, chẳng nói câu nào đã nhảy lên đòi cưỡi. Cho nên nó mới ra sức nhảy vọt lên, nổi điên lao về tứ phía.
Bên ngoài Hành cung tuy cũng rộng rãi nhưng nào đủ chỗ cho Táp Lỗ chạy, nó hí dài rồi xoay người giương vó phi sang một đường khác, động tác nhanh như chớp, không kịp chờ người ta phản ứng. Ngũ Cân và Thanh Nhã đều sững sờ nhìn Táp Lỗ chở Bảo Khâm vụt đi thật xa, theo sau là Tần Liệt. Đợi hai người tỉnh lại, đã không còn trông thấy bóng dáng họ.
“Về thôi!” Ngũ Cân hươ hươ tay trước mặt Thanh Nhã, cười chế giễu: “Bây giờ chúng ta có cưỡi gì cũng không thể đuổi kịp nữa rồi.”
Về phần Bảo Khâm, Táp Lỗ vụt chạy về phía cửa Đông, suốt đường đi tìm đủ mọi biện pháp hất ngã nàng nhưng nàng giống như mọc rễ trên lưng nó, không mảy may làm sao, đã thế còn không ngừng đánh nó, khiến Táp Lỗ đau muốn ré lên.
Cũng không biết chạy bao lâu, phòng ốc và người xung quanh ít dần, đi thêm một lúc chỉ nhìn thấy màu xanh tươi bát ngát. Táp Lỗ dần chậm lại, phát ra những tiếng thở dốc. Bảo Khâm thấy vậy, không hề khách khí đánh nó thêm một cái nữa, Táp Lỗ uất ức hí vang. Một lát sau, cuối cùng nó cũng im lặng, ngoan ngoãn dừng bước, cụp đầu xuống, không còn trông thấy bộ dạng kiêu ngạo nữa.
“Công chúa cưỡi ngựa rất giỏi, xem ra không cần bản vương dạy nữa.” Đột nhiên giọng nói Tần Liệt vang lên từ phía sau, Bảo Khâm quay lại mới phát hiện ra hắn đã đứng đấy từ lúc nào. Cả người nàng bỗng hoá đá, chau mày, cố gắng mở miệng, xoay người mỉm cười gượng gạo, lên tiếng giải thích: “Ta… từng học cưỡi ngựa rồi.”
Tần Liệt nghe vậy cũng không truy hỏi, chỉ gật đầu nói: “Vậy càng tốt!” Hắn khẽ vỗ lên lưng ngựa, con ngựa dần bước thong thả đến chỗ Bảo Khâm, giữa hai người chỉ còn cách hai, ba thước. Cơ thể của Bảo Khâm không còn như trước, giằng co một lúc với Táp Lỗ bắt đầu toát mồ hôi, hai má đỏ ửng, hô hấp không đều.
Tần Liệt lấy túi nước đưa cho Bảo Khâm, thấp giọng nói: “Công chúa uống chút nước trước đi, lát nữa chúng ta về, tới quán trà là có thể dừng chân nghỉ ngơi.”
Bảo Khâm không chút do dự nhận lấy túi nước, mở nắp ra uống vài ngụm, rất phóng khoáng vung tay áo lau miệng. Đang lau dở thì chợt nhớ ra, liền len lén nhìn sang Tần Liệt, thấy hắn không nhìn mình mới vội vàng bỏ tay xuống, lấy chiếc khăn tay trong túi ra, chậm rãi đưa lên lau miệng, trông rất ra dáng.
Đợi nàng lau miệng xong, Tần Liệt mới quay lại, đón lấy túi nước trong tay nàng một cách tự nhiên. Sau đó, hắn cũng ngửa mặt lên uống một ngụm. Lúc uống, hắn còn cố ý nhìn Bảo Khâm, hy vọng trông thấy vẻ mặt ngượng ngùng của nàng. Nhưng Bảo Khâm hoàn toàn không ý thức được có gì không hợp, nhoẻn miệng cười với hắn, rất khách khí.
Đầu óc Tần Liệt như bị lấp kín, không để ý nên bị một ngụm nước lạnh làm cho ho sặc sụa một lúc. Bảo Khâm không nói không rằng vỗ vỗ vào lưng hắn, động tác rất mạnh mẽ, “bộp bộp” thành tiếng. May là tuy Tần Liệt có khuôn mặt thư sinh, nhưng thân thể rắn chắc, nếu thật sự là một kẻ trói gà không chặt, e rằng xương cốt đã bị nàng vỗ cho rụng rời.
Đợi Tần Liệt trở lại bình thường, hai người mới thúc ngựa chầm chậm đi về. Bảo Khâm cứ nghĩ đến việc xưa nay hắn cẩn thận bình tĩnh mà cũng có lúc mắc sai lầm, trong lòng cảm thấy rất buồn cười, nhưng mỗi lần định cười, nhìn khuôn mặt chưa từng giãn ra của hắn thì không nhếch mép nổi.
Hai người đi được một lát thì thấy quán trà như Tần Liệt nói.
Nói là quán trà, thực tế chỉ là cái lều được dựng lên, bên trong đặt hai cái bàn, bày vài cái ghế. Chủ quán là một đôi vợ chồng già tóc hoa râm nhưng vẫn còn minh mẫn, bước đi không hề chậm chạp mà ổn định vững chãi.
Nhìn thấy hai người Tần Liệt và Bảo Khâm đến, bà lão nhiệt tình chào hỏi: “Tần gia đến rồi, mau ngồi xuống đi. Tôi bảo ông lão đi pha trà.” Nói xong, bà lão hét lớn “Ông ơi, mau mng trà lên!”
Bảo Khâm ngạc nhiên, nhân lúc bà lão đi pha trà, ghé vào người Tần Liệt khẽ hỏi: “Bà ấy biết ngài?”
Mấy tháng nay nàng được nuông chiều, Thanh Nhã theo thói quen điều chế một số loại kem dưỡng da, dùng một thời gian, làn da của nàng ngày càng thêm mềm mại. Tuy Bảo Khâm không to son trát phấn nhưng trên người luôn có hương thơm tự nhiên thoang thoảng. Khi nàng đến gần, hương thơm lan vào mũi Tần Liệt, quyến rũ không lời.
Đường đường là Chiến thần Đại Tần mà cũng có lúc ngây người, lát sau mới nhớ đến việc phải trả lời, hắn dằn lòng, khẽ nói: “Ta có đến mấy lần nên bà lão nhớ mặt.” Lúc nói, ánh mắt hắn không nhìn Bảo Khâm, giả vờ tìm chỗ ngồi, nhanh chóng vào trong lều.
Rất nhanh sau đó, bà lão đã mang một bình trà nóng lên, cười nói với Tần Liệt: “Là trà thu nhà vừa mới sao, không biết Tần gia uống có quen không?”
Tần Liệt không trả lời, quay sang nhìn Bảo Khâm, hỏi: “Trà nước Tần rất đặc, không biết nàng uống có quen không?”
“Không sao.” Bảo Khâm vội trả lời. Nàng không phải khách sáo, mà là Tây Bắc gần nước Tần, cách ăn uống cũng không khác biệt là bao. Chúng quân sĩ trong doanh trại Tây Bắc hầu hết đều uống trà đặc. Lúc hãm cầm dao chém một nhát rồi đun thật kỹ, đến khi nước đỏ chuyển đen, uống vào giải khát rất tốt.
Nói xong, Bảo Khâm cầm bình trà rót cho mình và Tần Liệt mỗi người một chén. Nước trà ở đây trong hơn so với trà nàng hay uống ở Tây Bắc, có lẽ do bị sao khê, trà hơi khét, uống vào có vị khác lạ.
Tần Liệt thấy nàng uống rất ngon, trong lòng cũng dễ chịu. Hắn gọi bà lão tới nhờ cho hai con ngựa uống nước cho đỡ khát. Hai người ngồi dùng trà, nói chuyện linh tinh một hồi rồi mới đứng dậy ra về.
Vừa chuẩn bị đi dắt ngựa, Táp Lỗ đã chạy đến. Nó tủi thân chạy đến trước mặt Tần Liệt, thấy hắn không quan tâm đến mình mới chạy qua chỗ Bảo Khâm, vẫy vẫy đuôi.
Bảo Khâm nhìn dáng vẻ nịnh nọt này khác hoàn toàn với một Táp Lỗ kiêu căng lúc trước, không nhịn được ôm bụng cười phá lên, vỗ vào lưng nó: “Ta còn tưởng ngựa giống như chủ, thì ra mi cũng học cái trò xu nịnh này. Giữ bộ mặt đơ như khúc gỗ làm gì, bị ta quất cho vài roi, đánh cho vài cái, cuối cùng vẫn phải ngoan ngoãn nghe lời…”
Tần Liệt lắc lắc đầu nhìn nàng, mặt đơ như khúc gỗ, không nói gì.
Bảo Khâm đi được không bao lâu bắt đầu tỉnh ra, cảm thấy có điều bất ổn. Nhưng lời đã nói như bát nước hắt đi, nàng cũng không thể giải thích lại với Tần Liệt nữa. Nghĩ một lúc, nàng cảm thấy đầu óc quay cuồng, quyết định bỏ qua, mà thấy Tần Liệt vẫn bình thường nàng lại tiếp tục cùng hắn trò chuyện như cũ.
Cả hai người ở bên ngoài uống toàn nước với trà, bụng vẫn rỗng. Vừa về đến Hành cung, Bảo Khâm vội vàng bảo Thanh Nhã chuẩn bị cơm, mời Tần Liệt ở lại cùng ăn. Tần Liệt chỉ đợi câu này của nàng, lập tức nước đẩy thuyền trôi, xuôi theo ý nàng, khiến Thanh Nhã buồn bực đau lòng.
Thanh Nhã ở trong Hành cung như hổ rình mồi, Tần Liệt không thể cùng ngồi ăn với Bảo Khâm. Không những thế, nàng ta còn bắt hắn ngồi ăn ở ngoài điện, cách Bảo Khâm một tấm bình phong lớn. Đừng nói nhìn thấy người ta, ngay đến giọng nói cũng không nghe nổi. Tần Liệt không tiện nhiều lời, chỉ có thể chán nản cúi đâu ngồi ăn, đến rượu cũng không uống.
Bảo Khâm cảm thấy không quen nhưng Thanh Nhã lời lẽ hùng hồn, quả thực có chỗ đúng. Hơn nữa, nàng ta còn là người của sư huynh, nàng vẫn nên nể mặt chút.
Ăn trưa xong, Tần Liệt không hề rời đi. Hắn nói hôm nay Bảo Khâm mệt nhọc, sợ nàng không thoải mái nên sai Ngũ Cân gọi Tư Đồ đến. Còn hắn nhân cơ hội ở lại, không ngừng nói chuyện với nàng. Tần Liệt kiến thức bao la, nói đều là những câu chuyện hào hùng trong quân đội, Bảo Khâm nghe chăm chú, mấy lần không kìm lòng được lên tiếng phụ hoạ, đều bị ánh mắt của Thanh Nhã bắt im lặng. Cẩn thận suy ngẫm, nhất thời nàng thấy toát cả mồ hôi.
Không lâu sau Tư Đồ đến. Hắn ôm theo hòm thuốc, cúi đầu ủ rũ. Vừa vào cửa đã oán hận nói với Tần Liệt: “Không biết kiếp trước ta nợ gì ngươi, khó khăn lắm mới được nghỉ ngơi, đang chuẩn bị tìm Tiểu Thuý thì bị Ngũ Cân kéo lại. Sau này ta mà không lấy được vợ, ngươi cũng đừng mong được yên ổn.”
Tần Liệt lườm hắn, giống như không nghe thấy hắn nói gì, chỉ lạnh lùng bảo: “Ngươi xem cho Công chúa đi, hôm nay nàng đi cưỡi ngựa, ta sợ sức khỏe của nàng không trụ nổi.”
“Cưỡi ngựa thì có gì phải cuống lên, sức khoẻ của Công chúa cũng không tệ đến vậy.” Tuy nói thế, Tư Đồ vẫn ngồi xuống bắt mạch cho Bảo Khâm. Ngón tay vừa chạm vào mạch tượng, đôi lông mày của hắn liền nhướn lên. Hắn nhìn Bảo Khâm trước, sau đó lại quay sang nhìn Tần Liệt, nghi ngờ hỏi: “Công chúa cưỡi ngựa gì mà khí huyết đảo lộn như vậy?”
“Táp Lỗ.”
Tư Đồ há hốc mồm, một lúc sau vẫn chưa khép lại. Mãi hắn mới thu tay, lau trán khẽ cảm thán: “A Liệt, lần này ngươi đúng là đã dốc hết vốn liếng ra rồi! À, Táp Lỗ vẫn khoẻ chứ?”
Tần Liệt chậm rãi quay đầu nhìn hắn, ánh mắt không vui.
Bảo Khâm cũng đưa mắt sang nhìn Tư Đồ, hỏi: “Tư Đồ đại nhân cảm thấy thiếp có thể giết chết hay là ăn tươi Táp Lỗ?”
Tư Đồ cảm thấy không ổn, vội vàng nói: “Xin lỗi, ta sai rồi!” Hắn không có ý tốt nhìn hai người cười mờ ám: “Hai người còn chưa bái đường đã cùng một lập trường rồi. Nếu sau này thành gia lập thất, chẳng phải lời nói của ta không còn chỗ đứng sao? Đúng là tính nết y hệt nhau, nếu không sao lại có câu ‘không phải người một nhà, không vào cùng một cửa’ được!”
Tần Liệt và Bảo Khâm không phản ứng gì, nhưng Thanh Nhã sắp tức chết rồi. Nàng ta vội lên tiếng phản đối: “Tư Đồ đại nhân, Công chúa nhà nô tỳ còn đang chịu tang, sao ngài có thể nói như vậy. Thật sự quá vô lễ!”
Tư Đồ bị mắng cũng không nói gì, chỉ cười hì hì nhìn Tần Liệt, dáng vẻ cợt nhả, giống như đợi hắn giải vây cho mình.
Tần Liệt mặt không cảm xúc, chuyển chủ đề: “Sức khoẻ Công chúa thế nào rồi? Có cần uống thuốc không? Hoàng hậu nương nương mời nàng cuối tháng đi săn, ngươi thấy nàng có thể đi không? Nếu không được đành đợi lần sau vậy.”
Bảo Khâm vừa nghe thế liền vội vàng nói: “Sao lại không được? Sức khoẻ của thiếp rất tốt, đến Táp Lỗ còn bị thuần phục. Sau này cũng chỉ là cưỡi ngựa đi bộ, không mất sức.” Nàng ở trong Hành cung lâu quá rồi, sức khoẻ mãi mới khá lên. Nàng tìm đủ mọi cách để có thể ra ngoài, nếu không sẽ cảm thấy khó chịu. Nếu Tần Liệt không cho nàng đi, sợ là nàng sẽ trốn theo mất!
Tư Đồ tiếp xúc với nàng cũng lâu rồi nên cũng hiểu được phần nào tính tình của nàng, hắn cười nói: “Không sao, không sao. Công chúa đã khoẻ nhiều rồi, ra ngoài đi lại cũng tốt, có thể hoạt động gân cốt, việc hồi phục cũng nhanh hơn. Nhưng người phải cẩn thận, không được quá sức như hôm nay.” Nói xong, hắn làm mặt quỷ với Tần Liệt: “Hơn nữa, bên cạnh Công chúa còn có Tam gia bảo vệ. Có hắn, Công chúa sẽ không sao đâu.”
Tần Liệt gật đầu không cảm xúc. Hắn nhìn Bảo Khâm khẽ hỏi: “Ngày mai nàng có muốn ra ngoài không?”
Ánh mắt Bảo Khâm sáng rực, trên mặt mang theo mong đợi: “Đi đâu?”
“Phía Tây thành có chùa Ninh Sơn. Lão hoà thượng ở đó chơi cờ rất giỏi. Dưới chân núi còn bán thịt nướng, dê nướng ở đó rất tuyệt.” Hắn nói chuyện mặt không có cảm xúc gì, nhưng giọng nói và ngữ điệu thật mê người, Bảo Khâm không cưỡng lại được mê hoặc, chưa nghĩ ngợi đã đồng ý: “Sáng ngày mai chúng ta sẽ đi.”
“Nô tỳ cũng đi.” Thanh Nhã thấy tình hình không được tốt, vội vàng nói: “Công chúa dù sao cũng là phận nữ nhi, sao có thể ra ngoài một mình được. Có nô tỳ đi cùng, Công chúa cũng thuận tiện hơn.”
“Ngươi biết cưỡi ngựa?” Tần Liệt lạnh lùng hỏi.
Thanh Nhã chợt ngẩn ra, cắn môi, mãi không nói được câu nào.
“Ngày mai ta sẽ bảo Ngũ Cân dạy ngươi cưỡi ngựa.” Tần Liệt hoàn toàn không để ý đến Thanh Nhã, tự mình sắp xếp như vậy. “Đợi khi nào ngươi cưỡi được rồi hẵng nói.” Hắn nói lời nào cũng cương quyết, trước sau như một, khiến người khác không dám phản đối. Thanh Nhã rất rất không muốn, nhưng nhìn thấy bộ mặt lạnh lùng của Tần Liệt, nửa lời từ chối cũng không dám nói.
Đợi hắn và Tư Đồ đi khỏi, nàng mới buồn bực ôm đầu, khuyên nhủ Bảo Khâm hết nước hết cái: “Công chúa, nô tỳ cảm thấy ánh mắt của Tam gia rất ngoan độc, hôm nay người phóng túng quá rồi. Dù là các cô nương ở nước Tần cũng không dám cưỡi ngựa tùy tiện, vậy mà người lại còn hùng hổ như vậy, chẳng lẽ Công chúa không sợ bị ngài ấy nhìn ra sơ hở sao? Đến lúc đó, có muốn đi cũng khó.”
Bảo Khâm suy nghĩ thật kỹ, nhớ lại dáng vẻ Tần Liệt lúc sáng, nàng lắc đầu: “Ta nói mình từng học cưỡi ngựa, hắn không nghi ngờ chút nào hết. Chung gia đời đời học võ, Thất Công chúa là thân thích, đừng nói là cưỡi ngựa, biết vài chiêu quyền cước cũng không có gì kỳ lạ.”
Lý do của nàng cũng có căn cứ, Thanh Nhã không còn lời nào để phản biện, cúi đầu suy nghĩ, sau đó mới nói nhỏ: “Nhưng nô tỳ thấy, Tam gia… Tam gia có phải đối xử với Công chúa… tốt quá mức không? Ngài ấy sẽ không thực sự coi người là Công chúa đấy chứ?” Thanh Nhã không tiện nói trực tiếp với nàng, đành vòng vo nhắc nhở, hy vọng Bảo Khâm có thể hiểu.
Nhưng Bảo Khâm không phải là người hay vòng vo, đương nhiên nàng không hiểu, cười nói: “Đương nhiên hắn phải coi ta là Công chúa rồi, nếu không sao lại vài ngày đến một lần được?” Hơn nữa, Táp Lỗ hắn còn đem tặng, thể hiện rõ thái độ với nương tử tương lai. Nếu hắn đã vạch trần được thân thế của nàng, có khi còn tóm cổ lại chứ nói gì đến đối xử ân cần như thế? Bảo Khâm nghĩ vậy.
Thanh Nhã không biết nên nói gì cho tốt.
Ăn cơm tối xong, Thanh Nhã bảo bọn người hầu ra ngoài hết, chạy đến bên cạnh Bảo Khâm nói nhỏ: “Chủ nhân sợ nô tỳ chăm sóc người không chu đáo nên phái hai người nữa đến. Nhưng Hành cung quản lý nghiêm chặt, nô tỳ không xếp người vào được. Công chúa xem…”
Từ ngày Lương Khinh Ngôn đột nhập vào Hành cung bị Tư Đồ phát hiện, số thị vệ bên ngoài Hành cung đã tăng lên không ít, toàn bộ đều là người của Tần Liệt. Đối với chuyện người ra kẻ vào quản lý rất nghiêm, đặc biệt là đám người đến từ nước Trịnh đều bị lần lượt điều ra ngoài. Thậm chí, a hoàn Lý Kha Minh để lại cũng biến mất không tung tích. Bên cạnh Bảo Khâm, ngoại trừ Thanh Nhã, còn lại tất cả đều do Tần Liệt phái đến.
Bảo Khâm suy nghĩ, sau đó khẽ lắc đầu: “Em biết trước giờ ta không quản mấy chuyện này, nếu như mở miệng đòi điều người đến đây, chắc chắn sẽ khiến người ta chú ý. Cứ để bọn họ đợi bên ngoài trước, bao giờ cần dùng thì tính sau. Dù sao bây giờ ta cũng rất an toàn, nếu như trong Phong thành có người nhận ra ta, chỉ cần bên nước Trịnh nhất quyết không thừa nhận thì họ cũng đâu thể làm được gì.” Phía nước Trịnh còn có sư huynh, hẳn sẽ không chặn đường lui của nàng.
Phiền toái trước mắt không phải vấn đề này, Thanh Nhã than thầm, trong đầu hiện lên ánh mắt của Tần Liệt, lại nhìn Bảo Khâm vẫn ngây thơ, không biết nên khóc hay nên cười. Nói không chừng vị Tam Vương gia kia còn đau đầu hơn nàng.
Buổi tối ngủ một giấc ngon lành, sáng hôm sau Bảo Khâm trở nên phấn chấn. Nàng ăn sáng, vừa thay xong y phục thì nghe a hoàn báo Tần Liệt đã đến. Đợi nàng quấn áo chỉnh tề đi ra, có mấy người vội vàng chạy đến nói: “Công chúa, Ngũ gia cũng đến rồi.”
“Tần Tu cũng đến, vậy càng tốt.” Bảo Khâm vung roi, vang lên “vút vút”, “Vừa khéo có thể đi cùng bọn ta.”
Ba người ra ngoài hơn là cô nam quả nữ ở chung một chỗ. Thanh Nhã thờ phào, cảm tình với Tần Tu lại tăng thêm một phần.
Khi Bảo Khâm đến Thiên điện, hai huynh đệ họ Tần đã ngồi đó, nhưng không khí trong phòng không được tốt cho lắm. Tần Liệt mặt lạnh lùng, cầm chén trà không thèm để ý đến Tần Tu, còn Tần Tu vẻ mặt lưu manh, cười nhếch mép, không ngừng liếc mắt nhìn Tần Liệt, trong ánh mắt viết rõ bốn từ không-có-ý-tốt.
Đợi Bảo Khâm tới, Tần Tu chạy ra đón trước, dáng vẻ gần gũi thân thiết, chỉ còn thiếu mỗi việc khoác vai bá cổ mà thôi. Hắn mỉm cười nói với Bảo Khâm: “Công chúa thật là, đi ra ngoài chơi mà không rủ ta một câu, rõ ràng không coi ta là bạn bè.”
Bảo Khâm tuy không biết mình với hắn thân thiết như vậy từ bao giờ, nhưng cũng không thể để hắn mất mặt trước bao nhiêu người, liền cười đáp: “Ngũ gia quyền quý bận bịu, ta nào dám không biết xấu hổ làm phiền ngài.” Nếu hắn đã thích làm bạn bè thân thiết, Bảo Khâm cũng không thể cứ “thiếp thế này, thiếp thế kia” được, nên nàng cũng tuỳ tiện chuyển cách xưng hô.
Nàng vừa dứt lời, Tần Liệt liền liếc mắt nhìn qua, cảm giác gió lạnh vù vù thổi qua khiến Bảo Khâm lập tức tự kiểm điểm lại mình. Có phải nàng đã nói sai rồi không?
Bảo Khâm trước giờ ngủ không sâu. Khi còn ở quân doanh nàng thường xuyên ngủ trong tình trạng áo giáp không kịp trút, vũ khí gác bên người. Đến khi vào hành cung thì đã khá hơn, tốt xấu cũng ngủ đến khi trời sáng, chuyện nửa đêm tỉnh giấc đã ít hơn trước.
Nước Tần tiết trời lạnh hơn nước Trịnh, tuy mới qua Trung Thu nhưng buổi tối đã bắt đầu có gió thổi xào xạc, phát ra đủ loại âm thanh. Bảo Khâm dựng tai lắng nghe, ngoài tiếng gió thổi lá cây, trong sân dường như còn có tiếng bước chân khe khẽ. Giày đế mềm, chân bước nhẹ nhàng như con mèo trong đêm.
Bảo Khâm chợt tỉnh hoàn toàn, nàng xuống giường cầm lấy giá nến trong tay, nhẹ chân bước về phía cửa. Nàng quen ở một mình, không giữ lại ai trong phòng. Đến Thanh Nhã cũng nằm ở phòng bên cạnh nên cả căn phòng rộng rãi chỉ có mỗi nàng.
Là ai được nhỉ? Bảo Khâm suy nghĩ, là a hoàn Lý Kha Minh sắp xếp ở lại hay là thám tử huynh đệ nhà họ Tần cử đến thám thính? Ngoài hai phương án này, nàng không nghĩ còn ai có hứng thú với mình.
Người bên ngoài bước đến cửa phòng thì chợt dừng lại, yên lặng đứng ngoài, cũng không biết là đang đợi chờ gì. Bảo Khâm không hoảng loạn, thiên binh vạn mã nàng đều không sợ, huống chi là một người ở ngoài cửa. Tuy bây giờ nàng mất hết võ công nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, thân thủ vẫn nhanh nhẹn như trước, chỉ chờ người kia tiến vào…
Nàng đang suy nghĩ xem nên ra tay thế nào, người ngoài cửa đã lên tiếng, giọng nói rất nhỏ, nhưng ấm áp và kiên định. Thanh âm dịu dàng quen thuộc, ấm áp như ngọc: “Bảo Khâm, là huynh.”
Đại sư huynh!
Đầu tiên Bảo Khâm ngây người, mãi đến khi nghe thấy tiếng cười mát lạnh của sư huynh, nàng mới kịp phản ứng lại, mau chóng ném giá nến trong tay đi mở cửa, xông về phía người bên ngoài.
Bảo Khâm sinh non nên cơ thể không khoẻ mạnh. Ni cô nói nàng không đủ dương khí, sợ khó nuôi nên phải cải nam trang. Vì vậy trong phủ Tướng quân có một đại thiếu gia ngày ngày không rời bát thuốc. Khi nàng năm tuổi thì mẫu thân qua đời, phụ thân dẫn nàng lên núi Thanh Lương làm đồ đệ của Hàn Thạch lão nhân và trở thành đồ đệ cuối cùng của ông ấy.
Hàn Thạch lão nhân có tất cả ba đệ tử, nhị sư huynh Lâm Túc lão luyện thành thục, nói năng hành động còn nghiêm túc hơn cả sư phụ nàng, Bảo Khâm rất sợ huynh ấy. Nhưng mối quan hệ giữa nàng và đại sư huynh Lương Khinh Ngôn rất tốt. Lúc còn nhỏ mới lên núi, nàng luôn khóc nức nở đòi về nhà nhưng có đại sư huynh ở bên khuyên bảo, còn dẫn nàng ra sau núi bắt cá đào trứng chim, lén lút nhóm lửa nướng ăn…
Sau này đại sư huynh phải về kinh, Bảo Khâm túm áo hắn khóc một trận, lưu luyến không rời, tiễn hắn mười dặm đường. Khi mười bốn tuổi, phụ thân đón nàng về Tây Bắc học tập quy củ để chuẩn bị gả chồng, nhưng lại xảy ra chuyện bất đắc dĩ khiến nàng phải cầm quân giương cờ đánh trận.
Khi nàng mười lăm tuổi, đại sư huynh vượt ngàn dặm xa xôi từ kinh thành chạy đến lén dẫn nàng đến thị trấn nhỏ cách đó mười dặm làm lễ cập kê, sau đó sư huynh luôn ở cạnh nàng. Ngoài phụ thân và sư phụ, sư huynh là người thân nhất và được nàng tín nhiệm nhất.
“Lại khóc nhè rồi?” Lương Khinh Ngôn vỗ vào lưng nàng, cười dịu dàng hỏi: “Muội khóc thật sao?”
Bảo Khâm nhào vào lòng hắn, quay mặt đi chỗ khác lau lau, sau đó nhanh chóng quay lại, gân cổ lên nói lớn: “Ai khóc? Ai khóc cơ chứ? Huynh đừng nói linh tinh.”
Lương Khinh Ngôn cười rộ lên, bước vào phòng đóng cửa lại dỗ dành: “Phải, là huynh nói linh tinh. Nhưng mà, Bảo Khâm, nếu muội còn lớn tiếng, một lát nữa sư huynh sẽ gặp xui xẻo mất.”
Bảo Khâm lo lắng, bước nhanh ra cửa, ngó nghiêng bên ngoài vài lượt. Trong sân ngoại trừ tiếng gió thì không có gì khác thường. Hoặc có thể nói, chính việc này đã là khác thường. Nàng quay đầu nhìn Lương Khinh Ngôn, khẽ nói: “Huynh hạ thuốc?”
Lương Khinh Ngôn cười không đáp, hiển nhiên là thừa nhận.
Bảo Khâm nhìn hắn không có ý gì tốt, nhỏ giọng oán trách: “Huynh trêu muội.” Vừa nói, nàng vừa ngồi xuống tìm giá nến.
“Không cần thắp đèn đâu.” Lương Khinh Ngôn dịu giọng nói: “Huynh hạ thuốc rất nhẹ, một lát nữa chắc sẽ có người đến. Nếu thắp đèn khó tránh kẻ khác chú ý. Bên ngoài trăng sáng, chúng ta lại gần cửa sổ nói chuyện.” Nói xong hắn đi đến bên cửa sổ, nhẹ nhàng mở ra.
“Huynh phải đi ngay à?” Bảo Khâm hơi thất vọng nhưng rất nhanh đã bình thường trở lại. Lương Khinh Ngôn không trả lời. Chung tiểu tướng quân đã là tội thần được ban thuốc độc, mà đại sư huynh nàng là đệ tử thế gia tiền đồ vô lượng.
“Kinh thành hiện giờ ra sao?”
“Hỗn loạn. Sau cùng Lục điện hạ thắng, tính ra chỉ hai ngày nữa sẽ đăng cơ.”
“Lục điện hạ?” Bảo Khâm khó hiểu, tuy nàng về kinh không nhiều nhưng trong trí nhớ của nàng chưa từng xuất hiện vị Lục điện hạ này bao giờ. Mấy người con của Tiên đế không ai là kẻ tầm thường, sao cuối cùng lại là vị Lục điện hạ vô danh này thắng? “Người đó… có phải là Lục điện hạ luôn ở trên Kinh Sơn lễ Phật?”
Lương Khinh Ngôn mỉm cười gật đầu. “Phải. Thật ra muội cũng đã từng gặp rồi. Cuối năm ngoái, huynh dẫn người đến Tây Bắc, chẳng phải muội còn đánh với người một trận đó sao?”
Bảo Khâm cảm thấy mờ mịt, đầu óc rối bời, nàng ngây ra một lúc mới nghi ngờ hỏi: “Chính… chính là Lý Lục Lang? Là người bị muội đánh ngã, còn giẫm chân lên nữa?”
Cuối năm ngoái, Lương Khinh Ngôn dẫn theo một thanh niên trẻ họ Lý đến Tây Bắc. Lý Lục Lang đó là người nhã nhặn lịch sự, tính tình cố chấp, chỉ vì Bảo Khâm trêu hắn trói gà không chặt mà hắn nhất quyết đòi đấu một trận với nàng. Kết quả hắn bị Bảo Khâm đạp cho hai cước lăn ra đất nhưng vẫn không chịu thua, bò dậy đòi đánh tiếp. Nàng bực mình, lại đạp thêm phát nữa, hại “Huynh phải đi ngay à?” Bảo Khâm hơi thất vọng nhưng rất nhanh đã bình thường trở lại. Lương Khinh Ngôn không trả lời. Chung tiểu tướng quân đã là tội thần được ban thuốc độc, mà đại sư huynh nàng là đệ tử thế gia tiền đồ vô lượng.
“Kinh thành hiện giờ ra sao?”
“Hỗn loạn. Sau cùng Lục điện hạ thắng, tính ra chỉ hai ngày nữa sẽ đăng cơ.”
“Lục điện hạ?” Bảo Khâm khó hiểu, tuy nàng về kinh không nhiều nhưng trong trí nhớ của nàng chưa từng xuất hiện vị Lục điện hạ này bao giờ. Mấy người con của Tiên đế không ai là kẻ tầm thường, sao cuối cùng lại là vị Lục điện hạ vô danh này thắng? “Người đó… có phải là Lục điện hạ luôn ở trên Kinh Sơn lễ Phật?”
Lương Khinh Ngôn mỉm cười gật đầu. “Phải. Thật ra muội cũng đã từng gặp rồi. Cuối năm ngoái, huynh dẫn người đến Tây Bắc, chẳng phải muội còn đánh với người một trận đó sao?”
Bảo Khâm cảm thấy mờ mịt, đầu óc rối bời, nàng ngây ra một lúc mới nghi ngờ hỏi: “Chính… chính là Lý Lục Lang? Là người bị muội đánh ngã, còn giẫm chân lên nữa?”
Cuối năm ngoái, Lương Khinh Ngôn dẫn theo một thanh niên trẻ họ Lý đến Tây Bắc. Lý Lục Lang đó là người nhã nhặn lịch sự, tính tình cố chấp, chỉ vì Bảo Khâm trêu hắn trói gà không chặt mà hắn nhất quyết đòi đấu một trận với nàng. Kết quả hắn bị Bảo Khâm đạp cho hai cước lăn ra đất nhưng vẫn không chịu thua, bò dậy đòi đánh tiếp. Nàng bực mình, lại đạp thêm phát nữa, hại hắn nằm giường tĩnh dưỡng cũng lâu.
Nếu sớm biết hắn lên ngôi, Bảo Khâm sẽ không đánh hắn như vậy.
“Sao huynh không nói sớm?” Bảo Khâm vừa bực mình vừa sốt ruột mắng nhỏ: “Muội vốn định đợi vài năm mọi chuyện qua đi sẽ về Tây Bắc bái tế mộ cha. Lần này… lần này thì xong rồi. Sao huynh không nhắc muội trước, nếu sớm biết như vậy muội sẽ nhường hắn vài chiêu.”
Lương Khinh Ngôn phì cười, nhưng thấy vẻ mặt buồn bực của Bảo Khâm, cố gắng kiềm chế, dịu dàng an ủi: “Chẳng phải huynh cản không kịp đó sao? Chỉ tại muội ra tay vừa nhanh vừa gọn. Sau này, ừm, dù sao đánh cũng đánh rồi, nếu huynh còn nói với muội, muội sẽ suốt ngày để trong lòng, không được yên ổn. Nhưng mà Lục điện hạ trước giờ vẫn luôn độ lượng, sau khi về kinh người còn khen ngợi muội, nói muội dũng cảm giỏi giang, sẽ không vì thế mà trách tội đâu.”
Nói thì nói vậy nhưng Bảo Khâm vẫn như đang nằm mơ. Đường đường là Thiên tử nước Trịnh lại bị nàng cho mặt xám mày tro, thật sự không ghi hận sao?
Nghĩ một lúc, Bảo Khâm thấy chuyện này có suy nghĩ cũng không ích gì, thà mặc kệ cho xong. Nàng hỏi Lương Khinh Ngôn: “Sư huynh đến lúc nào thế? Huynh vào cung kiểu gì? Thanh Nhã có biết không?”
Nàng hỏi một chuỗi dài khiến Lương Khinh Ngôn cũng phải bật cười: “Bảo Khâm, muội để huynh thở cái đã. Muội hỏi nhiều như vậy huynh biết phải trả lời câu nào trước đây?”
Hai người nói chuyện một lúc, Bảo Khâm mới biết mục đích của Lương Khinh Ngôn chính là đến thăm nàng. “Thanh Nhã truyền tin nói muội đã khoẻ lên nhiều, nhưng ta vẫn không yên tâm.” Đôi mắt của Lương Khinh Ngôn sáng rực dưới đêm trăng, khuôn mặt hiền hoà, giọng nói ấm áp khiến người ta an tâm.
“Tư Đồ nói sao?”
“Hắn nói độc tố còn sót chưa tiêu trừ hết.” Bảo Khâm bất đắc dĩ thở dài, có chút hậm hực. “Muội thấy khoẻ nhiều rồi, chỉ là không được dùng lực thôi, chẳng khác các cô nương bình thường là mấy.”
Tư Đồ còn nói, độc của nàng phải mất một năm mới có thể trị sạch, nếu không sau này sẽ thường xuyên phát tác, suốt đời không được yên. Những điều này Bảo Khâm không định nói với sư huynh, nàng không muốn huynh ấy phải lo lắng.
Lương Khinh Ngôn nghiêm túc dặn dò: “Tư Đồ là đệ tử của Dược Vương, lời hắn nói muội nhất định phải nghe theo. Ta tìm hết tất cả các danh y nước Trịnh nhưng không ai dám chắc sẽ trị khỏi độc Đoạn Trường cho muội nên mới bảo hai người tạm thời cứ yên tâm ở lại, tĩnh dưỡng cho khoẻ rồi nói sau.”
Thật ra hắn cũng đã biết chuyện Tần Liệt rất coi trọng Bảo Khâm. Trong thư Thanh Nhã viết rất tỉ mỉ, chuyện người đàn ông đó ôm Bảo Khâm vào trong hành cung, gọi Thái y, thậm chí còn tặng đồ, tất cả hắn đều rõ. Nhưng hắn không thể vì vậy mà vội vàng đưa Bảo Khâm đi. Khó có cơ hội chữa khỏi triệt để độc của nàng, hắn sao có thể vì chuyện cá nhân mà bỏ mặc?
“Muội… muội ở trong cung có tốt không?” Nghĩ một lúc, Lương Khinh Ngôn mới dè dặt hỏi. Thật ra hắn rất muốn hỏi câu khác, nhưng không biết phải mở lời ra sao.
Bảo Khâm nhoẻn miệng cười. Nàng lười biếng dựa vào ghế: “Nói ra sư huynh đừng trách muội, hai tháng này là khoảng thời gian muội sống thoải mái nhất.” Không có chiến tranh, không có loạn lạc, không có chém giết, không có máu tanh. Buổi tối thậm chí còn được ngủ yên giấc, có lúc nàng còn nghĩ mình liệu có phải đang mơ?
Khuôn mặt Lương Khinh Ngôn cứng ngắc, cũng may trong phòng không thắp đèn. Hắn nhanh chóng cúi đầu xuống, Bảo Khâm không nhìn thấy gì hết.
“Vậy… con người ở đây thì sao?”
“Người?” Bảo Khâm che miệng, nhịn cười lắc đầu: “Huynh đã nghe Thanh Nhã kể rồi còn gì. Bọn muội gặp Tần Tu, hắn không nhận ra muội. Mắt đúng là…”
Lương Khinh Ngôn cúi đầu, hàng lông mi che lấp đi ánh sáng trong mắt. “Còn Tần Liệt thì sao?”
“Hắn?” Bảo Khâm hơi chau mày, tiếng nói vừa ngập ngừng vừa nghiêm túc: “Không biết có phải muội nhạy cảm hay không, muội luôn cảm thấy hình như hắn biết điều gì đó.”
“Sao cơ?” Lương Khinh Ngôn hoảng sợ.
Bảo Khâm nghe thấy giọng nói của hắn lo lắng, liền an ủi: “Có lẽ muội đa nghi thôi. Tần Liệt cả ngày trưng bản mặt đơ như khúc gỗ, bộ dạng cao thâm khó lường khiến người khác sợ hãi.” Nàng cũng chỉ gặp hắn có vài lần nhưng chưa bao giờ thấy hắn cười, thật sự rất lạnh lùng, xa cách.
Lương Khinh Ngôn thấy lúc nhắc đến Tần Liệt, vẻ mặt nàng vẫn rất bình thường, gánh nặng trong lòng như được trút xuống, nói chuyện cũng thuận miệng hơn nhiều.
Hai người tâm sự nửa tiếng, Bảo Khâm sợ thị vệ bên ngoài phát hiện liền vội vàng đuổi hắn đi. Đợi hắn ra đến cửa, Bảo Khâm chợt cảm thấy có gì đó không ổn, vô thức đưa tay kéo gấu áo hắn.
Lương Khinh Ngôn hơi chấn động, nhưng không quay người lại, chậm rãi nắm chặt tay nàng, giọng nói trầm xuống: “Muội bảo trọng, một thời gian nữa huynh sẽ đến thăm muội.”
Có lẽ do yên lòng, sau đấy Bảo Khâm ngủ rất ngon. Ngày hôm sau tỉnh dậy tinh thần thoái mái hơn nhiều. Thanh Nhã dậy muộn hơn một chút, lúc vào phòng vẫn còn ngái ngủ, vừa dụi vừa nhận tội với Bảo Khâm: “Tối qua nô tỳ ngủ say quá nên đã dậy muộn.”
Không chỉ Thanh Nhã, các a hoàn hầu hạ bên ngoài cũng rất uể oải, trong lòng Bảo Khâm hiểu rõ nhưng không tiện nói ra, chỉ cười lắc đầu: “Không sao, thời tiết mát mẻ, quả thực buồn ngủ.”
Nàng ăn sáng xong thì Tư Đồ đến, vừa vào cửa đã tươi cười: “Hôm nay tinh thần Công chúa có vẻ tốt, da mặt hồng hào, hình như có chuyện vui.”
Dù có chuyện vui cũng không thèm nói với hắn, Bảo Khâm uể oải đáp lời: “Thiếp cả ngày ở trong cung không ra khỏi cửa thì có thể có chuyện gì? Tư Đồ đại nhân đừng chê cười.”
Tư Đồ chọn lấy vị trí trên cùng ngồi xuống không chút khách khí, tự mình châm trà, uống một ngụm, gật đầu lia lịa: “Trà nước Trịnh rất ngon, nước trà trong veo, lá trà mượt mà, càng hiếm thấy hơn nữa là thơm vô cùng.” Nói xong hắn nhướn mày nhìn Bảo Khâm, nịnh nọt: “Không biết trong cung Công chúa còn trà ngon như vậy không, có thể cho ta vài cân thì tốt biết bao.”
Bảo Khâm quanh năm sống ở Tây Bắc, đối với trà nghệ không biết nhiều, chi bằng tặng cho người biết thưởng trà còn hơn để lãng phí. Hơn nữa Tư Đồ có ơn cứu mạng với nàng, cho nên vừa nghe hắn nói vậy nàng không nghĩ ngợi nhiều chuẩn bị gật đầu đáp ứng. Đang định mở miệng thì Thanh Nhã đem điểm tâm vào, vội vàng lên tiếng: “Tư Đồ đại nhân, trà này không thể uống lung tung được.”
Bảo Khâm ngẩn người, không hiểu gì hết, còn Tư Đồ thì cười ha ha, vuốt cằm nói: “Không sao, không sao, đây không phải là ở nước Trịnh, Phong thành không quan trọng những thứ này. Hơn nữa hôn sự của Công chúa chắc như định đóng cột, dù ta có uống vài ngụm trà của người cũng không vấn đề gì.” Lúc hắn nói Thanh Nhã đã vào hẳn trong phòng, vừa vặn đi ngang qua chỗ Tư Đồ, nàng chau mày.
“Sao thế?” Bảo Khâm không hiểu hỏi Thanh Nhã.
Tư Đồ vốn luôn tươi cười đột nhiên trở nên thận trọng và nghiêm túc, từ từ đứng dậy, từng bước lại gần Thanh Nhã hít hít ngửi ửi. Bảo Khâm dường như nhớ ra gì đó, âm thầm chột dạ.
“Tư Đồ đại nhân?” Thanh Nhã liên tục lui về sau, vẻ mặt nghi ngờ nhìn hắn, trong mắt hiện lên sự tức giận: “Ngài đang làm gì thế?”
Tư Đồ nhíu mày không đáp, bước nhanh ra sảnh, men theo hành lang ra ngoài, sau khi rời khỏi cửa thì thở gấp, động tác nhanh đến mức Thanh Nhã không kịp cản. Bảo Khâm lo nơm nớp nhưng chỉ có thể giả vờ không biết, mở to mắt nhìn Tư Đồ đi xung quanh thăm dò, không nói câu nào.
Một lúc sau hắn mới trở lại vô cùng nghiêm túc, vừa vào cửa liền hỏi ngay: “Tối hôm qua có gì bất thường không?”
“Làm gì có gì bất thường? Tư Đồ đại nhân đừng doạ bọn nô tỳ.” Thanh Nhã ngó trái ngó phải, hơn run rẩy.
Bảo Khâm chau mày ra vẻ không hiểu, nghĩ một lúc rồi nói: “Tối hôm qua ta ngủ rất ngon, không nghe thấy tiếng động gì hết. Thanh Nhã, em thì sao?”
Thanh Nhã xấu hổ xoa miệng khẽ nói: “Nô tỳ cũng ngủ rất sâu, nếu không sáng nay đã chẳng dậy trễ như vậy.”
Tư Đồ trầm mặc hồi lâu, đột nhiên vẫy tay gọi mấy a hoàn bên ngoài vào: “Mời Tam điện hạ đến đây, nói Hành cung xảy ra chuyện.”
Mũi thính như chó vậy! Bảo Khâm rủa thầm trong lòng nhưng ngoài mặt vẫn nghiêm túc, cau mày hỏi rất đứng đắn: “Ý của Tư Đồ đại nhân là, tối qua bọn ta ngủ say là có nguyên nhân khác?”
Tư Đồ cũng không giấu giếm, trả lời nghiêm túc: “Ban nãy khi Thanh Nhã cô nương bước vào, tại hạ ngửi thấy có mùi thuốc mê nên mới nghi ngờ, đi xem thử vài vòng, bây giờ thì đã có thể khẳng định. Thuốc mê này rất tốt, nếu không phải tại hạ nhạy cảm, người khác chắc chắn không phát hiện ra điều gì khác lạ.”
Thanh Nhã bị doạ cho mặt mũi trắng bệch, vội vàng túm lấy cách tay Bảo Khâm, sốt ruột hỏi: “Công chúa không sao chứ? Chẳng may những người đó lén lút làm chuyện xấu thì biết làm thế nào?” Nói xong, Thanh Nhã gọi mấy a hoàn bên ngoài vào dặn dò lục soát kỹ càng một lượt phòng Công chúa.
Bảo Khâm cố nhịn trong lòng, có chuyện mà không thể nói, chỉ đành để mặc Thanh Nhã. May mà đầu óc Tư Đồ vẫn còn tỉnh táo, khẽ an ủi: “Nếu người đó thật sự có ác ý thì đã ra tay từ tối qua rồi, đâu cần rắc rối như vậy. Có lẽ hắn có ý đồ gì khác, hoặc là trong của hồi môn của Công chúa có thứ gì đó đáng giá bị người khác nhìn trúng cũng nên.”
Tư Đồ ngày thường luôn có bộ dạng cợt nhả nhưng đầu óc rất nhạy bén. Bảo Khâm nghĩ thầm, lát sau Tần Liệt cũng đến, không biết muốn biến Hành cung thành cái bộ dạng gì đây?
Ba người nói chuyện một lúc thì a hoàn bên ngoài vào bẩm báo, Tam điện hạ phải ra ngoại thành, sẽ đến muộn một chút, thị vệ Vương phủ là Ngũ Cân sẽ tới trước.
Bảo Khâm chưa gặp người tên là Ngũ Cân này bao giờ, hôm trước lúc gặp Tần Liệt, nàng luôn ở trong xe không ra ngoài nên chỉ nghe thấy tiếng Ngũ Cân và Lục Cân là hai hộ vệ thân cận của Tần Liệt, vẫn còn rất trẻ.
Có lẽ do ban nãy sợ hãi, bây giờ Thanh Nhã cũng quên tiệt chuyện phải mang bình phong ra chắn trước mặt Bảo Khâm. Bảo Khâm lại hoàn toàn không nghĩ tới điều đó, thế là lúc Ngũ Cân xông thẳng vào trong sảnh liền trực chào hỏi nàng. Bốn mắt nhìn nhau, Bảo Khâm thầm tán dương: “Đúng là một tráng sĩ!” Còn Ngũ Cân như nhìn thấy chuyện gì đó vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, giật nảy người: “Ô…” Sau đó lớn tiếng: “Sao lại là ngươi?”
Cái gì mà “Sao lại là ngươi?” Bảo Khâm cau mày nhìn hắn, nghi ngờ hỏi: “Ngươi từng gặp ta?”
Tư Đồ cảm thấy hứng thú, đứng một bên theo dõi, tươi cười hỏi: “Ngũ Cân, ngươi gặp Công chúa bao giờ thế? Lẽ nào tối qua người lén lút xông vào hành cung là ngươi?”
Ngũ Cân lúc bấy giờ mới đỏ mặt tía tai, kích động tự biện hộ: “Tư Đồ đại nhân, ngài đừng vu oan cho người tốt. Ta… ta… Ngũ Cân ta không phải là loại người đó. Ta chỉ thấy Công… Công chúa nhìn rất quen. Quả thực Công chúa rất giống với người đó, chính là Chung Bảo Khâm của quân Tây Bắc nước Trịnh.”
Thanh Nhã tức thì mặt trắng bệch, đến Bảo Khâm cũng ngây ra, đầu óc hỗn loạn, có thứ gì đó như cất giấu sâu bên trong đầu nhưng không thể nào nhớ ra nổi.
“Chung Bảo Khâm, ta biết!” Tư Đồ nhoẻn cười: “Chính là Chung Bảo Khâm mà Ngũ gia suốt ngày huyên thuyên, nghe nói hắn trông rất giống đàn bà, tính tình nóng nảy, lúc đánh nhau lại liều mạng, mấy năm trước còn bắt Ngũ gia làm tù binh.”
Hắn còn không biết xấu hổ nói người khác giống đàn bà, Bảo Khâm chửi thầm, cho dù nàng là nữ, mặc nam trang vào trông còn oai hùng hơn hắn. Trường thương hai tám cân hắn có dùng nổi không?
“Chính là người đó!” Ngũ Cân cười hì hì, hơi xấu hổ: “Năm ấy Ngũ gia bị hắn bao vây, Tam điện hạ lãnh quân đi cứu. Nhưng quân không thể đi nhanh, điện hạ sốt ruột liền dẫn theo mấy thị vệ bọn ta giả làm thương nhân buôn bán lương thực đi trước, không ngờ giữa đường bị người nước Yến chặn cướp, suýt mất mạng. Sau đấy chính Chung Bảo Khâm đã cứu bọn ta. Bà nó chứ, cái gã tiểu tướng quân vừa gầy vừa thon, da mịn thịt mềm nhưng bản lĩnh rất lớn. Hắn dẫn theo một đoàn quân tiên phong đánh cho bọn nước Yến kia sợ chết khiếp, rất là khoái trá!”
Trong đầu Bảo Khâm chợt bừng tỉnh, ký ức như dòng thuỷ triều tràn về.
Nàng còn cười chê Tần Tu hấp tấp, không nhớ nổi diện mạo người khác, xem ra bây giờ nàng cũng chẳng khác hắn là bao.
Bảo Khâm đương nhiên còn nhớ chuyện mình vây Tần Tu ở Xuân Cốc, cũng nhớ năm đó từng cứu mấy thương nhân buôn lương thực ở Hà Khấu, nhưng những người đó trông như thế nào, có tráng kiện như Ngũ Cân, có thư sinh như Tần Liệt hay không thì nàng không chút ấn tượng nào hết. Khi đó Bảo Khâm còn là Chung tiểu tướng quân oai phong lẫm liệt, nào chú ý đến cái tên mặt trắng non choẹt ấy làm gì.
Nói như vậy là… Tần Liệt đã nhận ra nàng từ lâu?
Hay là, hắn cũng giống Tần Tu, chỉ cho là nàng với người tên Chung Bảo Khâm kia dáng vẻ tương tự. Bảo Khâm cố nhớ lại thật kỹ lúc còn ở Tây Bắc, đặc biệt là lúc vây Tần Tu ở Xuân Cốc. Nàng quen cứ ra khỏi cửa là mặc áo giáp, đội mũ sắt, tuy có lộ mặt nhưng quá khác so với bộ dạng tóc mây trâm phượng thế này.
Bây giờ nàng trắng ngần không tì vết, cho dù nàng có đứng trước gương cũng chưa chắc nhận ra chính mình. Nói không chứng, chỉ là… nàng đã nghĩ nhiều quá thôi. Nếu không dù nàng từng cứu mạng Tần Liệt, hắn cũng cứu nàng một mạng, không vạch trần nàng đã đành, chắc chắn sẽ không đồng ý lấy một người vợ từng giả trai đánh trận đến chết đi sống lại.
Ngũ Cân lớn tiếng kể chuyện năm đó cho Tư Đồ nghe, nước miếng văng đầy. Bảo Khâm cũng không hề suy xét, ngay đến người thích sạch sẽ như Thanh Nhã lúc này cũng im lặng không nói câu nào, chỉ cúi đầu chau mày, không biết đang nghĩ gì.
Gần nửa tiếng trôi qua, Tần Liệt mới hùng hổ đi vào. Khuôn mặt hắn vẫn thâm trầm không đổi sắc, quanh người dường như có khí lạnh. Người hầu bên ngoài nhìn thấy hắn liền núp thật xa, kẻ không kịp chạy thì quỳ dưới đất sợ đến mức run lẩy bẩy không dám nói câu nào.
“A Liệt, ngươi đến rồi sao?” Chỉ có Tư Đồ không sợ chết mới dám trêu đùa hắn, híp mắt vẫy vẫy tay: “Ngũ Cân đang kể chuyện công lao vĩ đại của ngươi đấy. Không ngờ ngươi suýt chết dưới tay bọn Bắc Yến, còn được Chung tiểu tướng quân cứu ra. Sao chưa bao giờ nghe ngươi nhắc đến chuyện này nhỉ?”
Tần Liệt hơi ngẩn ra, ánh mắt nhanh chóng nhìn về phía Bảo Khâm, vừa bắt gặp ánh mắt nàng, đôi mắt đen tuyền, sáng lấp lánh, luôn luôn mang theo vẻ hứng khởi.
“Ngươi cũng không phải thê tử của ta, việc gì phải kể cho ngươi?” Tần Liệt lạnh lùng lườm Tư Đồ. Nói xong, hắn còn không vui liếc nhìn Ngũ Cân, nạt nộ: “Nhiều chuyện!”
Tần Liệt bảo Ngũ Cân dẫn theo vài thị vệ kiểm tra một lượt hành cung. Một lát sau Ngũ Cân trở lại, thì thầm gì đó vào tai hắn. Tần Liệt không nói gì, chỉ cúi đầu “ừ” một tiếng, sau đấy đột nhiên đưa mắt nhìn về phía Bảo Khâm. Đôi mắt đen thâm thuý, ánh mắt sắc bén, giống như xuyên thẳng vào trái tim người ta. Nàng cố gắng lắm mới không quay người đi, nỗ lực duy trì bộ mặt không chút cảm xúc, học theo Tần Liệt, đơ như khúc gỗ gật đầu với hắn.
Thanh Nhã vẫn còn đang rầu rĩ chuyện vừa xong, không chú ý đến động tác của hai người, chỉ có Tư Đồ nhạy bén, trong chớp mắt vừa nhìn Tần Liệt, xong lại quay sang nhìn Bảo Khâm, nụ cười kỳ quặc phơi phới trên mặt. Nàng không hiểu Tư Đồ đang cười gì, nhưng kẻ mặt lạnh nghìn năm là Tần Liệt bỗng đỏ mặt, quay người đi chỗ khác.
Tần Liệt không ở lại hành cung lâu, hắn dặn dò Ngũ Cân điều thêm thị vệ đến rồi tạm biệt rất lễ độ. Tư Đồ thấy thế cũng vội vàng đuổi theo. Vừa đứng dậy, hắn như chợt nghĩ ra điều gì, quay lại dặn: “Thuốc hôm trước không cần uống nữa. Tối này ta sẽ đổi một đơn thuốc mới và sai người đem qua đây.”
“Lại phải đổi thuốc?” Bảo Khâm nhíu mày hỏi: “Lẽ nào bệnh của ta lại tái phát?”
Tư Đồ vội vàng nói: “Không phải, không phải! Độc trên người Công chúa… không, bệnh này mỗi ngày mỗi khắc, cứ ba bữa phải đổi thuốc một lần. Nếu không, không những bệnh không khoẻ mà còn có hại cho cơ thể.” Hắn vừa nói vừa ngó nghiêng bên ngoài, mắt thấy Tần Liệt đã ra khỏi sân, không nói chuyện với Bảo Khâm nữa, ôm hòm thuốc đuổi theo.
Đợi Tư Đồ đi xa, Thanh Nhã mới ôm ngực thở phào một hơi, vẻ mặt lo lắng nhìn Bảo Khâm nói nhỏ: “Công chúa, người nói xem, Tam điện hạ không nhận ra người chứ?”
Bảo Khâm cau mày không nói gì.
“Công chúa! Lỡ như… lỡ…” Thanh Nhã có ý muốn khuyên nàng rờ khỏi hành cung về nước Trịnh nhưng nhớ đến lời dặn dò của Tư Đồ trước lúc rời đi nên đành thôi.
Bảo Khâm cũng không muốn giấu giếm Thanh Nhã, đem chuyện tối hôm trước Lương Khinh Ngôn đến thăm nói cho nàng nghe. Thanh Nhã nghe xong mới thở phào nhẹ nhõm.
Còn Tần Liệt, vừa bước ra khỏi hành cung đã lập tức nhảy lên ngựa, Tư Đồ vội vàng đuổi theo sau, vừa chạy vừa hét: “Lão Tam, ngươi đợi chút! Đợi ta! Ta có chuyện muốn hỏi!”
Tần Liệt biết tránh được một lần không tránh được mãi, đành phải xuống ngựa đợi hắn. Tư Đồ thở phì phò chạy đến trước mặt Tần Liệt nhưng lại không hỏi ngay, đôi mắt tròn xoe nhìn Tần Liệt từ trên xuống dưới thật kỹ, một lát sau lại cười phá lên rất kỳ quái.
“A Liệt, ngươi có chuyện giấu ta.” Tư Đồ hỏi với giọng điệu khẳng định. “Là chuyện liên quan đến Thất Công chúa? Đúng, chính là nàng ta.” Hắn nhanh chóng bày ra bộ dạng cười đùa cợt nhả, đắc ý nói: “Hai ta quen biết bao năm nay, ánh mắt của ngươi ta nhìn là có thể nhận ra ngay. Ngươi còn muốn giấu hả?”
Tần Liệt không phủ nhận, chỉ lạnh lùng đáp: “Không sai, ta giấu giếm, không muốn nói.” Khuôn mặt hắn vẫn lạnh như băng, trong ánh mắt ẩn chứa sự bất đắc dĩ.
Tư Đồ nhất thời kích động, vỗ tay cười lớn: “A Liệt, ngươi cũng có chút giống người rồi. Thế này mới là ngươi. Nếu không nhìn bộ mặt cá chết chẳng có tí cảm xúc nào kia, ta còn thật sự tưởng trái tim ngươi đã đóng băng. Cũng tốt, cũng tốt, Thất Công chúa xinh đẹp, tính tình phóng khoáng thoải mái, hai người các ngươi rất xứng đôi.”
Tần Liệt thấy hắn mãi không nói được chuyện gì đứng đắn cảm thấy thật phiền phức, nhảy lên ngựa rời đi. Tư Đồ vội lao lên phía trước, giữ lấy dây cương, mặt dày mày dạn nói: “Ta còn chưa nói hết, sao ngươi có thể cứ thế mà đi!”
“Ta nhổ vào!” Tư Đồ thở hổn hển đạp con ngựa của Tần Liệt, tay thì nắm chặt dây cương không cho nó đi. Con ngựa bị đau, giậm móng xuống đất, hại Tần Liệt chỉ có thể giữ chặt lấy dây cương, khó khăn lắm mới ngồi vững. Tư Đồ thấy vậy mới hết bực tức, nhếch mép cười: “Ai bảo ngươi không nói vào trọng tâm, đáng đời!”
Tần liệt bó tay với gã mặt dày này, bất đắc dĩ thở dài, nhẫn nhịn hỏi: “Ngươi rốt cuộc muốn gì?”
Tư Đồ cười ha hả, mở hòm thuốc, lục tìm bên trong, một lúc sau lấy ra một cái bình sứ đưa cho Tần Liệt, ra vẻ thần bí nói: “Cho ngươi.”
“Cái gì đây?” Tần Liệt cầm lấy, mở bình ra ngửi, trong mắt chợt hiện lên vẻ chán ghét, hung hăng ném món đồ trong tay lại cho Tư Đồ, giọng nói cứng ngắc: “Ngươi tự đi mà dùng!”
“Ta không cần!” Tư Đồ cười tươi cầm lấy chiếc bình, nói: “A Liệt, đừng lãng phí lòng tốt của người khác. Thứ này không dễ làm, ta mất bao công sức mới luyện được vài viên. Rất hiệu quả! Ngươi thật sự không cần sao? Bộ dạng của ngươi bây giờ, Thất Công chúa nhất định không ưa đâu. Đừng tưởng đẹp trai thì người ta sẽ thích, ta thấy nàng đối xử với ngươi rất khách sáo, không muốn coi ngươi như người nhà. Tốt xấu gì cũng phải dỗ dành người ta, chọc cho nàng cười, nếu không, cả ngày mặt mày như khúc gỗ, ai mà chịu nổi…”
Tư Đồ huyên thuyên một hồi, Tần Liệt đã không đủ kiên nhẫn mà quất cho hắn một roi. Tư Đồ thấy nguy hiểm, nhanh chóng buông dây cương ra, trừng mắt nhìn Tần Liệt phi như bay rồi biến mất ở cuối con đường. Hắn quay người lại thấy Ngũ Cân vẫn đứng canh ở trước cổng Hành cung, chậm rãi bước tới, ném cái bình cho hắn dặn dò: “Lúc về nhớ dỗ Vương gia nhà ngươi uống, lần này đảm bảo hiệu quả.”
Ngũ Cân liên tục xoa tay, không muốn gánh lấy chuyện khó nhằn này, mếu máo nói: “Ngài cũng biết tính cách của Vương gia, ngài ấy nói không thì tức là không. Hơn nữa thứ này có dùng được hay không, không phải đại nhân ngài nói là xong. Bao nhiêu năm như vậy rồi, ngài bắt Vương gia nhà tôi ănđủ thứ linh tinh, lần nào cũng nói có tác dụng, sao vẫn chẳng thấy gì?”
“Lần này khác…” Tư Đồ còn định khuyên tiếp, Ngũ Cân đã trốn mất dạng.
Hắn quay lại nhìn đám thị vệ gần đó, những tên này cũng sợ bị chỉ đích danh nên đều trốn hết sạch. “Cái lũ khốn kiếp, kẻ nào kế nấy gan bé như gan chuột, không được tích sự gì!” Tư Đồ vừa đi vào trong Hành cung vừa chửi: “Các ngươi không chịu giúp thì ta sẽ tìm người khác.”
Gã Tư Đồ này, lời nói cử chỉ không theo khuôn phép, làm việc gì cũng theo sở thích, cho nên hắn đi rồi mà còn quay lại, Bảo Khâm cũng không thấy có gì lạ. Thanh Nhã do biết được tin tức về Lương Khinh Ngôn nên cũng thả lỏng hơn, đối đãi với Tư Đồ cực kỳ khách sáo, không hề hỏi nguyên nhân tại sao hắn quay lại.
Đợi uống hết chén trà, Tư Đồ mới chậm rãi nói ra mục đích của mình.
“Ý Tư Đồ đại nhân là, muốn ta dụ Tam điện hạ uống thuốc này ư?” Bảo Khâm cầm bình thuốc trong tay không hiểu, nghi ngờ hỏi lại: “Ngài và Tam điện hạ chẳng phải quen nhau đã lâu sao, hà cớ gì không tự mình đưa cho ngài ấy?” Lúc nói chuyện, Bảo Khâm tò mò mở bình thuốc ra ngửi, thấy mùi nhàn nhạt, không rõ sử dụng nguyên liệu gì.
“Hắn không chịu uống.” Tư Đồ thở dài, buồn bã gãi đầu: “Ta thấy A Liệt rất thích Công chúa, nếu Công chúa dỗ, nói không chừng hắn sẽ uống.” Lời hắn nói ra quá thẳng thắn, Bảo Khâm dù mặt dày đến đâu cũng không thể nào thừa nhận được, nàng lúng túng không biết trả lời sao.
“Thuốc này là… để chữa bệnh? Tam Điện hạ bị bệnh?”
“Cũng không phải.” Tư Đồ khó xử. “Ây dà, chuyện này ta không dám nói, nếu A Liệt biết sẽ tìm ta tính sổ mất.” Miệng thì bảo không thể nói, nhưng trên mặt Tư Đồ tràn đầy hứng thú, rõ ràng là đang viết “Mau hỏi ta đi”.
Thế là, Bảo Khâm làm theo, khẽ hỏi: “Tư Đồ đại nhân cứ nói cho ta nghe đi, ta không tiết lộ cho người khác là được.” Lúc nói, nàng còn nháy mắt với Thanh Nhã. Thanh Nhã hiểu ý, mau chóng lui xuống.
Trong phòng chỉ còn lại hai người, Tư Đồ lập tức hứng thú hẳn. “Thật ra cũng không phải là chuyện gì lớn, A Liệt không ốm đau bệnh tật, chỉ là mấy năm trước đến chỗ ta uống nhầm thuốc, bị trúng độc… kết quả là… cơ mặt của hắn không thể hoạt động được nữa…”
Bảo Khâm: “…”
Hoá ra vị Vương gia này không phải thật sự lạnh lùng, mà là không thể cười nổi. Còn khiến Bảo Khâm tưởng hắn thâm sâu khó lường…
“Vậy trước đây ngài ấy cũng như thế?”
“Sao vậy được!” Tư Đồ khịt mũi. “Lúc còn nhỏ không cần phải nói, hắn suốt ngày gây gổ với người khác, đánh xong còn chạy đi mách tội, nói dối không chớp mắt, trong cung ai cũng sợ hắn.” Nhớ lại những ngày tháng thiếu thời chọc phá khắp nơi, khuôn mặt Tư Đồ nở nụ cười hoài niệm. “A Liệt cười rất đẹp, lúc đó Bệ hạ rất yêu thương hắn.”
Bảo Khâm lau mồ hôi, nàng vẫn chưa tưởng tượng được bộ dạng Tần Liệt lúc cười. Có lẽ đã quen với khuôn mặt lạnh lùng xa cách của hắn, cho nên nàng cảm thấy không hợp. Nếu thật sự có một ngày hắn cười hề hề ngốc nghếch như Tần Tu… chỉ mới nghĩ nàng đã thấy quái dị rồi. Bảo Khâm run người.
Thế nên, nàng vội ném cái bình trả lại Tư Đồ, lắc đầu cự tuyệt: “Chuyện này… nam nữ thụ thụ bất thân, thiếp và Tam Điện hạ vẫn chưa phải phu thê… Chuyện này, Tư Đồ đại nhân vẫn nên tự mình làm thì hơn.” Hơn nữa, cũng nhiều năm rồi, nếu thật sự chữa khỏi thì cần gì phải đợi đến bây giờ. Chẳng may Tần Liệt uống thuốc sinh bệnh, nàng sẽ phải chịu trách nhiệm.
Tư Đồ lại nhờ vả lần nữa nhưng Bảo Khâm kiên quyết từ chối. Tốt nhất là mau chóng gọi Thanh Nhã vào bảo nàng tiễn hắn về.
Lúc nghỉ trưa, Bảo Khâm nằm trên giường lật qua lật lại không sao ngủ nổi. Một lát lại nhớ đến chuyện này, nghĩ một hồi thì bật cười.
Không chừng, dưới vẻ ngoài lạnh lùng xa cách của hắn lại chất chứa một trái tim nồng nhiệt.
Chiều, trong cung đưa thiệp tới nói Hoàng hậu nương nương muốn mời Bảo Khâm vào cung nói chuyện.
Bảo Khâm nhìn tấm thiệp trên bàn mà khó xử. Do chưa loại bỏ hết độc trên người, nàng chỉ có thể tạm thời ở lại Phong thành, cụ thể là ở đến bao giờ cũng không rõ. Nàng vốn không có kiên nhẫn với những bữa tiệc xã giao, có thể tìm lý do từ chối là tốt nhất. Nhưng nàng dù sao cũng phải ở lại nơi này một thời gian dài, nếu không biết điều, ngày tháng sau này sợ là sẽ khó sống.
Nàng suy nghĩ cẩn thận, cuối cùng đành nhận lời. May mà ba ngày sau mới phải vào cung, Bảo Khâm có thời gian từ từ chuẩn bị.
Trong thời gian này, Tần Tu có đến thăm nàng một lần, nhắc đến chuyện hôm tết Trung Thu Tần Đế nổi trận lôi đình, nói xong còn cố tình kể xấu Tần Liệt: “Công chúa đừng bị bộ dạng chính khí lẫm liệt của Tam ca ta lừa, ta đã sớm nói huynh ấy tâm địa gian trá, không sai chút nào. Trong số mấy huynh đệ, xấu xa nhất chính là huynh ấy. Nàng xem, đến ta huynh ấy còn lợi dụng. May mà Công chúa vẫn chưa gả đi, nếu không hối hận cũng chẳng kịp. Chi bằng dứt khoát từ chối hôn sự, để huynh ấy lấy Lưu tiểu thư xấu xí kia, không thì Vương Nhạn Như cũng được. Tính tình nàng ta chắc chắn sẽ áp chế được Tam ca.”
Bảo Khâm không nhịn được cười: “Ngũ gia có vẻ rất quan tâm đến hôn sự của Tam điện hạ.”
Tần Tu dè bỉu: “Chẳng qua ta thấy không ưa bộ dạng quỷ quái của huynh ấy, cả ngày mặt mày lạnh băng, làm như người ta thiếu nợ huynh ấy không bằng.”
Nói xong, hắn cầm lấy chén trà tu một hơi rồi cười nói với Bảo Khâm: “Công chúa cũng đừng xem thường. Ta chỉ muốn tốt cho nàng, trong kinh thành này các cô nương mê mẩn Tam ca không ít, phụ hoàng ngăn được một lần cũng không thể ngăn được cả đời. Nếu Công chúa gả cho huynh ấy, sau này sẽ phiền phức vô cùng.”
Lời hắn nói không phải không có lý, nếu Bảo Khâm là Thất Công chúa thật, có lẽ cũng sẽ bị hắn thuyết phục. Nhưng nàng không phải Công chúa, không những vậy nàng còn dự định nửa năm nữa sẽ rời đi, đâu cần phải quan tâm đến chuyện Tần Liệt cưới Trắc phi.
Ở mãi trong Hành cung cũng chán, Bảo Khâm bắt đầu đùa với Tần Tu, hứng thú hỏi: “Vậy theo ý của Ngũ gia, thiếp nên làm thế nào cho phải?”
Tần Tu phấn chấn, vỗ vỗ ngực, ngẩng cao đầu, tư thế “ngoài ta ra còn ai vào đây nữa”: “Công chúa thấy bản vương thế nào?”
Bảo Khâm tuy sớm đã nghĩ đến hắn sẽ nói vậy nhưng khi thật sự nghe thấy, nàng vẫn không nhịn được cười nghiêng ngả, nói không nên lời. Nàng ôm bụng nói tiếp: “Ngũ…Ngũ gia… thiếp biết ngài anh tuấn, nhưng…” Nhưng trắng trợn dồn người ta vào chân tường như vậy, không phải quá vô lý sao!
Tần Tu định tự khen mình tiếp, Thanh Nhã cuối cùng không thể vừa mắt nổi nữa, lên tiếng cắt ngang: “Ngũ Điện hạ, ngài đừng nói linh tinh. Công chúa là Tam tẩu tương lai của ngài, nói thế không thích hợp chút nào.”
Tuy Thanh Nhã nói những lời này cho Tần Tu nghe nhưng Bảo Khâm cũng hiểu được phần nào ý tứ trong đó, cuối cùng nàng đã ý thức được giờ mình không phải ở trong quân doanh Tây Bắc.
Nàng khẽ ho hai tiếng, quay trở về dáng vẻ nghiêm chỉnh đoan trang, nghiêm túc nói: “Chuyện này không thể nói năng tuỳ tiện, Ngũ điện hạ… xin hãy tự trọng.”
Tần Tu bĩu môi, không vui lườm Thanh Nhã, nhỏ giọng oán thán: “Công chúa thì tuyệt vời thế này mà a hoàn đi theo lại chẳng thú vị gì cả.” Hắn muốn dụ Bảo Khâm nói chuyện tiếp nhưng lúc này nàng đã ý thức được thân phận của mình, cảm thấy xưng huynh gọi đệ với Tần Tu thực không thích hợp nên đưa mắt ra hiệuTần Tu hiểu ý, chỉ có thể xin phép ra về.
Đợi Tần Tu đi khỏi, Thanh Nhã tận tình khuyên nhủ Bảo Khâm, không nói gì hơn ngoài những việc mà các tiểu thư khuê các phải chú ý. Bảo Khâm khiêm tốn lắng nghe, nhưng rốt cuộc có ghi nhớ hay không thì không biết.
Ngày phải vào cung, Thanh Nhã cảm thấy rắc rối vô cùng. Nếu trang điểm cho Bảo Khâm quá đẹp, sợ sẽ bị Tần Liệt, Tần Tu trêu chọc; nếu không trang điểm, sợ sẽ có người so sánh, khó tránh làm mất mặt nước Trịnh. Cuối cùng, Thanh Nhã chọn cho Bảo Khâm một bộ váy áo màu xanh nhạt có thêu hoa văn chìm, ống tay áo và mép váy thêu có hình cỏ phụng vĩ[1], tuy không bắt mắt nhưng cũng dễ nhìn.
[1] Cỏ phụng vĩ: Còn có tên khác là cỏ kim tinh, cỏ seo gà.
“Công chúa bước ngắn thôi, ngắn chút nữa.” Lúc ra cửa, Thanh Nhã nhắc Bảo Khâm thêm một lần nữa. Trước đây Bảo Khâm bệnh nặng, bước chân bớt phóng túng, bám vào tay Thanh Nhã chậm rãi đi, quả thật trông cũng có khí chất của Công chúa. Nhưng khi sức khoẻ đã tốt lên, nàng lại không chút cố kị, sải bước y như nam nhi đại trượng phu, khí thế ào ào như vậy đâu có giống với một cô nương đoan trang, yểu điệu.
Một đoàn người bước lên xe ngựa, từ từ vào cung.
Đây là lần đầu tiên Bảo Khâm vào cung, ngày trước khi còn ở nước Trịnh cũng chỉ có một lần nàng về kinh báo cáo. Khi lên triều, nàng quỳ sau đám đại thần đông nghịt, còn Trịnh Đế ngồi ngay ngắn trên đại điện, cách rất xa, đến mặt cũng không thấy rõ. Nhưng nàng vẫn nhớ như in không khí nặng nề và áp lực khiến người ta đến thở cũng không dám ở đó.
Bởi vì Thanh Nhã liều mạng kéo nàng cho nên suốt đường đi Bảo Khâm không có cơ hội vén rèm xem bên ngoài như thế nào. Tường thành nơi này có phải cũng cao như ở nước Trịnh, bầu trời nơi này có phải cũng chật chội như thế…
Xe ngựa dừng mấy lần, chắc đã qua mấy cánh cổng cung, bên ngoài có tiếng người nói chuyện. Xe đi rất chậm, lắc lư, lắc lư khiến Bảo Khâm cũng bị lắc đến choáng váng. Nàng cố chống đỡ nhưng cuối cùng vẫn không nổi, đợi đến khi Thanh Nhã phát hiện ra có điều khác thường, Bảo Khâm đã đi vào giấc ngủ từ bao giờ.
Thanh Nhã bất đắc dĩ, định lên tiếng gọi nàng dậy, nhưng thấy dáng vẻ khi ngủ của nàng rất thoả mãn thì không đành lòng. Thanh Nhã đấu tranh tư tưởng một lúc lâu, đến tận khi xe ngựa đã dừng lại, bên ngoài có thanh âm xa lạ vang lên: “Thất Công chúa, chúng ta đến nơi rồi.”
Thanh Nhã vội vàng gọi Bảo Khâm tỉnh dậy, nàng khẽ nói: “Công chúa, người mau dậy đi, dậy đi thôi!”
Bảo Khâm xoay người ngồi ngay ngắn, thẳng lưng, tay phải sờ xung quanh, nhanh chóng chỉnh trang y phục. Chớp mắt vài cái, nàng mới dần ý thức đây không phải doanh trại Tây Bắc, nàng cũng không phải là Chung tiểu tướng quân đánh trận chém giết, người đầy máu tanh.
“Đến nơi rồi, Công chúa.” Thanh Nhã thấy sắc mặt Bảo Khâm không tốt lắm, sợ doạ đến nàng, cố gắng hạ thấp thanh âm, dịu dàng nói: “Công chúa xuống xe thôi.”
“Ừ.” Bảo Khâm day mắt, gật đầu rồi từ từ đứng dậy. Thanh Nhã sợ Bảo Khâm sẽ xách váy rồi nhảy xuống đất, vội vàng vọt lên trước xốc rèm xe, vừa chặn đường đi của nàng vừa nói: “Nô tỳ đỡ người xuống xe.”
Bảo Khâm cũng đoán được phần nào ý tứ của Thanh Nhã, không làm loạn mà rất phối hợp để Thanh Nhã đỡ, nhẹ tay nhẹ chân bước xuống xe. Phía trước đã có cô cô và thái giám đến đón, nhìn thấy hai người, họ vội vàng tiến lên hành lễ, cười nói: “Công chúa cát tường! Hoàng hậu nương nương đã chờ người ở Ninh An cung từ sớm, gặp được Công chúa, không biết người sẽ vui vẻ như thế nào!”
Bảo Khâm không biết cách chào hỏi người khác, lúc này gặp người ta, không biết nói gì, chỉ cố gắng ghi nhớ những lời Thanh Nhã đã dặn dò trước khi đi, cứ mỉm cười tự nhiên. Những chuyện khác để nàng ta lo liệu.
Suốt đường đi, quả nhiên đều là Thanh Nhã nói chuyện cùng các cô cô, Bảo Khâm chỉ cần giữ nguyên tư thế mà đi là được. Lúc này có thể nói là nàng đã thấy ích lợi của viêc Tần Liệt mặt không cảm xúc, dáng vẻ sâu xa khó lường vô cùng hữu dụng.
Hậu cung nước Tần không xa xỉ như Bảo Khâm vẫn tưởng tượng, phòng ốc đều cao ráo rộng rãi, không xa hoa lộng lẫy như những cung điện ở nước Trịnh mà Bảo Khâm từng thấy. Cả đoàn người đi khoảng một khắc thì đến Ninh An cung, cũng chính là nơi Hoàng hậu ở.
Bên ngoài đã có cung nữ đợi sẵn, tất cả đều mặc y phục màu lam nhạt, trông giống như các tinh linh của nước. Nhìn thấy Bảo Khâm đã đến, tất cả vội vàng ra bái kiến.
Quy củ nước Tần không nghiêm ngặt như nước Trịnh, cung nữ sau khi hành lễ thì bắt đầu hoạt bát hẳn lên, nói chuyện không câu nệ tiểu tiết, cười đùa khen ngợi Bảo Khâm: “Đã nghe danh Thất Công chúa xinh đẹp từ lâu, chúng nô tỳ đợi chờ mãi, hôm nay được gặp mặt, thật không uổng công. Công chúa thật sự rất đẹp!”
Bảo Khâm cố giữ nguyên dáng vẻ cao thâm khó lường, chỉ hơi hơi mỉm cười.
Vừa nói chuyện, các cung nữ vừa dẫn nàng vào trong phòng.
Hoàng hậu không ở trong đại điện mà ở Thiện điện, cùng các phi tần nói chuyện, uống trà, không khách sáo với nàng mà giống như thực sự coi nàng là người trong nhà.
Vừa vào trong phòng, Bảo Khâm đã nhìn thấy một phu nhân xinh đẹp ngồi ở đầu, mặc bộ y phục màu lam thêu hoa hồng, trên đầu cài đoá mẫu đơn to. Nếu là người khác chắc chắn sẽ trông đầy tục khí, nhưng đồ được mặc trên người bà ấy lại toát vẻ cao quý
Đây đúng là Hoàng hậu nước Tần. Bảo Khâm nghĩ thầm trong lòng, ánh mắt lơ đãng liếc nhìn những người còn lại một lượt, tuy mỗi người một vẻ nhưng luận về khí chất ung dung kia, không ai sánh được với Hoàng hậu.
Bảo Khâm vừa định cúi người hành lễ, đột nhiên một cô nương xông ra, hung hăng trừng mắt nhìn nàng, tức giận hét lớn: “Thì ra là cô!”
Bảo Khâm nheo mắt, trên mặt vẫn giữ nguyên nụ cười khách sáo xa cách, thản nhiên gật đầu với nàng ta: “Chào Nhị tiểu thư!”
Thì ra, cơ mặt không thể co giãn rất có ích.
“Nhạn Như, sao lại vô lễ như vậy!” Sắc mặt Thái tử phi khó coi, trầm mặt khẽ quở trách Vương Nhạn Như, lúng túng cúi đầu nói với Bảo Khâm: “Xá muội vô lễ, mong Công chúa không trách tội.”
Bảo Khâm lắc đầu khách sáo: “Không sao.” Nói xong, nàng cũng không so đo với Vương Nhị tiểu thư, nghiêm chỉnh tới chào hỏi Hoàng hậu.
Hoàng hậu hiền hoà nói: “Bệ hạ rất yêu thương Tam nhi, xem tướng mạo của Công chúa, cả Hoàng cung này không ai sánh bằng.” Hoàng hậu rất thẳng thắn, nghĩ gì nói lấy, câu nói vừa rồi khiến Vương Nhạn Như mặt mày trắng bệch.
Thái tử phi che miệng bật cười, nói tiếp: “Lời này của mẫu hậu nếu nói ở bên ngoài, nhi thần thì không sao, nhưng Nhạn nhi nhà con sẽ khóc mất.”
Hoàng hậu vội vàng xoa dịu, cười nói: “Nhạn Như cũng rất xinh, Uyển Như cũng rất đẹp. Các cô nương tuổi trẻ đều xinh đẹp, mấy bà già bọn ta không sao bì nổi.”
Các phi tần ngồi bên cạnh vội vàng nịnh bợ: “Hoàng hậu nương nương đừng nói vậy, nếu người là bà già, chúng thần thiếp sao dám ra khỏi cửa nữa.”
Mọi người rối rít hùa theo, Bảo Khâm cũng nhếch miệng cười. Chỉ có Vương Nhạn Như vẫn nhìn chằm chằm Bảo Khâm, ánh mắt như muốn toé lửa.
Bảo Khâm xưa nay chưa từng giao thiệp với người trong cung, cũng không biết phải nói chuyện thế nào. Hoàng hậu và Thái tử phi có thể xem như hiền hoà, thấy Bảo Khâm không nói chuyện, chỉ nghĩ rằng nàng xấu hổ nên càng thêm nhiệt tình, kéo nàng lại dịu dàng hỏi han chuyện phong tục bản sắc nước Trịnh. Các phi tần ở bên cạnh thì cười phụ hoạ, không khí trong Thiện điện thoải mái dễ chịu.
Chỉ có Nhị tiểu thư họ Vương không vừa mắt Bảo Khâm, trừng mắt nhìn nàng lạnh lùng, thái độ thù địch rõ ràng. Nàng coi như không thấy, lễ phép mỉm cười với mọi người, thi thoảng nói một hai câu, tuy không nhiệt tình nhưng cũng không đến nỗi thất lễ.
Các phi tần ngồi chơi một lúc thì lần lượt xin phép ra về. Trong phòng chỉ còn lại Hoàng hậu và Thái tử phi, Vương Nhạn Như cũng ở lại. Bảo Khâm vốn định tìm lý do cáo lui nhưng Hoàng hậu nói muốn nàng ở lại dùng bữa, nàng không tiện từ chối đành miễn cưỡng ở lại.
Nàng tuy chưa bao giờ dùng bữa trong cung nhưng đã nghe sư phụ nói qua, cái gọi là Ngự thiện[2] thực chất chỉ được vẻ bề ngoài, lúc dọn lên bàn thức ăn đã nguội lạnh, nhạt nhẽo vô vị… Cho nên, Bảo Khâm không có chút hứng thú nào với Ngự thiện.
[2] Đồ ăn chuyên dùng cho vua, chúa trong cung.
Vương Nhạn Như mặt mũi xám xịt, vẻ không vui hiện rõ trên mặt, bị Thái tử phi đá chân mấy cái mới dần dần dịu lại nhưng không hề cười với Bảo Khâm cái nào. Chỉ có Hoàng hậu rất thích nói chuyện với Bảo Khâm, hỏi nàng phong cảnh trên đường đi từ nước Trịnh sang nước Tần, sau đó không ngừng cảm thán: “Vẫn là phong cảnh nước Trịnh tú lệ, Phong thành nơi đây quá cứng nhắc.”
Bảo Khâm nghe vậy lấy làm lạ, nghiêm chỉnh đánh giá vị Hoàng hậu này. Lúc trước nàng không để ý, bây giờ nhìn kỹ mới phát hiện Hoàng hậu mình hạc xương mai, khuôn mặt tròn trịa thanh tú, đuôi lông mày không giống các phu nhân khác ở nước Tần, trông lại có nét của các cô gái Giang Nam.
“Thất Công chúa không biết đấy thôi, mẫu hậu cũng là người nước Trịnh.” Thái tử phi thấy Bảo Khâm hoài nghi, liền lên tiếng giải thích: “Tiêu thị ở Nam Dương, Công chúa đã nghe bao giờ chưa?”
Tiêu thị ở Nam Dương! Bảo Khâm chợt rùng mình. Tuy đã là chuyện nhiều năm về trước nhưng Tiêu thị ở Nam Dương luôn luôn được phụ thân và sư phụ nàng nhắc đến.
Tiêu thị vùng Nam Dương từng là gia tộc hiển hách nhất nước Trịnh, đời nào cũng có nhân tài kiệt xuất. Từ khi lập quốc đã có ba vị là Nhất phẩm Thừa tướng, được người ta gọi đùa là “Tiêu bán triều”[3]. Nhưng ba mươi năm trước, Tiêu thị di dân lên phía Bắc, đến nước Tần, sau đó thì mai danh ẩn tích. Bảo Khâm không ngờ, Hoàng hậu nước Tần lại là người Tiêu gia.
[3] Tiêu bán triều: Một nửa triều đình là họ Tiêu.
Bây giờ, ánh mắt nàng nhìn vị Hoàng hậu này không giống trước. Không phải là cảm giác thân thiết nảy sinh vì đều là người nước Trịnh, mà là khi nàng lên núi Thanh Lương học nghệ, sư phụ đưa cho nàng mấy quyển sách, nghe nói đều bắt nguồn từ Tiêu gia. Từ lúc ấy, Bảo Khâm có cảm giác sùng bái ngưỡng mộ khó tả với gia tộc thần bí này.
Sau đấy, Bảo Khâm không còn che giấu như trước nữa, nói chuyện cũng thoải mái tự nhiên. Nàng vốn không phải là một cô nương khuê các nên đọc nhiều sách, hiểu biết rộng, những người luôn sống trong cung như Hoàng hậu và Thái tử phi không thể so sánh nổi. Không bao lâu hai vị kia đều bị những tập tục và mấy câu chuyện kỳ lạ trong dân gian của nàng thu hút, đến Vương Nhạn Như cũng mở to mắt ra nhìn, thấy rất thú vị.
Nói chuyện một lúc, cung nữ bước vào hỏi bao giờ dùng bữa bọn họ mới nhớ đến việc ăn cơm, nhất thời không nén nổi cười phá lên. Vương Nhạn Như cũng không còn thù địch như lúc đầu, chủ động kéo tay áo Bảo Khâm sốt ruột hỏi: “Sau này Huyền Nữ và Thần Tiên có ở bên nhau không? Có phải mẹ Huyền Nữ muốn chia rẽ uyên ương?”
Bảo Khâm thấy khó xử. Ban đầu khi nàng kể về những tập tục ở Tây Bắc, Vương Nhạn Như không có chút hứng thú nào, nhưng sau khi kể một số chuyện về tài tử giai nhân, nàng ta liền bám chặt lấy nàng không rời. Đúng là “thiếu nữ mười sáu mộng mơ”! Nàng ta quả thật đã quên luôn chuyện mình là tiểu thư khuê các.
Ấn tượng của Bảo Khâm về Vương Nhạn Như không phải quá tệ, nàng ta là thiên kim tiểu thư được cưng chiều, tính tình kiêu ngạo nhưng không phải người xấu, hai người cũng dần hoà hợp. Bảo Khâm chợt nghe thấy tiếng cung nữ bên ngoài vào báo, Thái tử và Tam điện hạ cầu kiến.
Vương Nhạn Như sửng sốt, sau đó ánh mắt như dao động nhìn chằm chằm Bảo Khâm, đẩy nàng ra.
“Mau cho truyền!” Hoàng hậu vui vẻ nói: “Hôm nay thật đúng dịp, vừa vặn mấy huynh đệ Liệt nhi đến thỉnh an. Thất Công chúa vẫn chưa gặp nó nhỉ? Liệt nhi còn non trẻ, cũng không biết phải đến Hành cung thăm công chúa.”
Khoé mắt Bảo Khâm giật giật, nàng nghĩ thầm, Hoàng hậu nương nương à, xem ra ngài vẫn chưa thật sự hiểu Tần Liệt rồi.
Lúc nói chuyện, Thái tử và Tần Liệt lần lượt bước vào, cả hai định hành lễ với Hoàng hậu thì bị người ngăn lại, Hoàng hậu còn chỉ vào Bảo Khâm nhiệt tình giới thiệu với Tần Liệt: “Liệt nhi, con đoán xem ai đây?”
Tần Liệt còn phối hợp với Hoàng hậu, nhíu mày tỏ vẻ không biết. Hoàng hậu bèn tươi cười nói: “Đây là Thất Công chúa nước Trịnh, là nương tử tương lai của con đó. Mau nhìn xem, Công chúa thật xinh đẹp!”
Tần Liệt nghe xong còn chăm chú nhìn Bảo Khâm, đôi mắt đen lấp lánh, khuôn mặt tuy vẫn lạnh lùng nhưng ánh mắt thì ấm áp. “Mẫu hậu nói phải, nương tử của con rất đẹp.”
Bảo Khâm dù có mặt dày, nghe hắn thẳng thắn khen ngợi như vậy cũng hơi hơi ngượng ngùng. Vương Nhạn Như còn khó chịu hơn, từ lúc Tần Liệt bước vào, ánh mắt nàng ta luôn dõi theo hắn nhưng mãi vẫn chẳng thấy Tần Liệt nhìn mình, trái lại hắn còn liên tục “liếc mắt đưa tình” với Bảo Khâm. Nếu không phải đang ở trong cung, e là nàng ta sẽ nổi điên lên mất.
Thái tử hiểu được nỗi lòng của “cô em vợ” từ lâu, sợ nàng ta nhất thời không khống chế được tình cảm sẽ làm loạn bèn nhanh chóng đổi chủ đề, cười nói với Hoàng hậu: “Nghe nói đầu bếp trong cung làm món ăn mới, nhi thần cố tình kéo Tam đệ đến chỗ mẫu hậu ăn chực, người đừng tiếc đấy!”
“Con học theo Tu nhi nói những lời lém lỉnh thế này từ bao giờ thế!” Hoàng hậu hiền hoà nhìn hắn: “Ta còn không hiểu con sao! Chẳng qua ta chỉ kêu Uyển Như sang nói chuyện cùng mà con đã vội vội vàng vàng đuổi theo, sợ ta giữ Uyển Như ở lại Ninh An cung à?”
Mọi người trong phòng cười rộ lên, Thái tử bị nói trúng tim đen nhưng không hề lúng túng, cười đáp lời Hoàng hậu: “Mẫu hậu đừng trêu chúng con nữa.” Nói xong, hắn vừa vui vẻ, vừa xấu hổ nhìn Thái tử phi, tiếp lời: “Uyển Như mới có tin vui, nhi thần không yên lòng nổi.”
“Ấy, sao chàng lại nói ra rồi?” Thái tử phi cừa giận dỗi vừa ngượng ngùng trừng mắt với Thái tử.
Hoàng hậu nghe xong thì vui mừng, nói: “Đây là chuyện vui, chuyện vui mà. Uyển Như cũng thật là, tin tức tốt lành như vậy mà không chịu nói sớm. Ngọc Trúc, nhanh lên, mau lấy đệm Như Ý của ta ra đây, Uyển Như đang có bầu, phải tĩnh tm. Tấm đệm Như Ý này là của cao tăng trên chùa Hộ Quốc tặng cho ta, có công dụng thanh tâm. Còn nữa, còn nữa…” Hoàng hậu vừa mở miệng, liền tặng thưởng như nước chảy. Thái tử phi liên tục từ chối, còn Thái tử thì thản nhiên như không.
Thái tử phi mới mang bầu được hai tháng nên chưa lộ bụng ra ngoài. Bảo Khâm trước đó tuy đã nhìn thấy phụ nữ có thai, nhưng đều nhìn từ xa, chỉ thấy cái bụng to nhô lên rất doạ người, còn Thái tử phi vẫn mảnh khảnh, không giống chút nào. Nàng nhìn vòng eo nho nhỏ của Thái tử phi, rất khó tưởng tượng trong cái bụng bằng phẳng kia ại có em bé.
Vương Nhạn Như thấy bộ dạng ngốc nghếch của Bảo Khâm liền mở miệng định châm chọc, vừa lên tiếng thì bị Thái tử phi đá vào chân nhắc nhở, nàng ta cảm thấy uất ức vô cùng. Liếc sang nhìn Tần Liệt, thấy hắn ung dung ngồi cạnh Bảo Khâm, dáng vẻ rất tự nhiên, trong lòng Vương Nhạn Như chua xót, khó chịu vô ngần.
Nói chuyện một lúc thì đến bữa. Hoàng hậu ngồi ở vị trí chủ toạ, Thái tử và Thái tử phi ngồi một bên. Vương Nhạn Như định ngồi cạnh Tần Liệt thì nhìn thấy bộ mặt lạnh lùng của hắn, trong lòng sợ sệt.
Bảo Khâm chọn vị trí sau cùng để ngồi. Vừa ngồi xuống, bên cạnh đột nhiên có thêm một người. Nàng quay sang thì thấy Tần Liệt rất tự nhiên ngồi đó, dường như cảm thấy không có gì là không ổn cả.
Bộ dạng “đó là lẽ đương nhiên” của hắn khiến Bảo Khâm nhất thời không hiểu nổi quy tắc của nước Tần. Lẽ nào trong quy định ở nơi này, chỉ cần đính hôn, dù chưa thành thân cũng đã có thể đối đãi với nhau như vợ chồng chính thức?
Trong lúc Bảo Khâm còn bất ngờ, Tần Liệt đã đưa cho nàng tách trà, nói: “Nàng khát rồi, uống chén nước trước đi.”
Thái tử ngồi đối diện đang ân cần rót trà cho Thái tử phi, nghe thấy lời Tần Liệt liền len lén ngẩng lên cười với hắn. Tần Liệt coi như không thấy, bộ mặt lạnh lùng tiếp tục gắp thức ăn cho Bảo Khâm: “Khoai sọ ninh rất mềm, nàng có muốn ăn không? À, còn rượu thì không được uống! Bệnh của nàng vẫn chưa khỏi hẳn…”
Bảo Khâm mới ngửi hơi rượu đã bị Tần Liệt nhìn ra. Chỉ ông trời mới biết đã bao lâu rồi nàng chưa được uống rượu. Lúc ở Hành cung bị Thanh Nhã cấm đã đành, bây giờ ngửi thấy hương rượu thơm lừng, con sâu rượu trong bụng nàng chỉ muốn chui ra. Rồi lại nhìn đống thức ăn đầy ắp này, nàng thật sự không hứng thú chút nào.
Tần Liệt thấy thế, mắt hơi ánh lên ý cười. Hắn suy nghĩ, cuối cùng nói với Hoàng hậu: “Mẫu hậu keo kiệt quá, cung của người không phải mới có rượu trái cây được tiến cống sao? Người không nỡ bỏ ra chiêu đã tụi con ạ?”
Hoàng hậu có chút bất ngờ, nghi hoặc hỏi: “Liệt nhi, trước giờ không phải con thích uống rượu Ngọc Tương Quỳnh Nam sao? Bữa trước còn chê rượu trái cây nhạt nhẽo vô vị, sao bây giờ…” Hoàng hậu nói được một nửa thì chợt hiểu ra, vỗ tay cười lớn, nhìn Bảo Khâm: “Rượu trái cây rất được, rất được!” Nói xong, bà sai cung nữ: “Còn đứng đó làm gì, mau đi lấy rượu cho Liệt nhi.”
Vợ chồng Thái tử bật cười thành tiếng, ngoài Vương Nhạn Như và Thanh Nhã, mọi người đều mỉm cười nhìn Tần Liệt và Bảo Khâm, ánh mắt sáng rực khiến Bảo Khâm sắp không chống đỡ nổi.
Rất nhanh, cung nữ đã mang lên một bình rượu trái cây. Tần Liệt không cần cung nữ ở sau hầu hạ, tự mình rót rượu, dưới cái nhìn lấp lánh của mọi người, vẻ mặt hắn rất tự nhiên đưa chén cho Bảo Khâm: “Rượu này uống không say, nhưng nàng cũng không được uống nhiều.”
Bảo Khâm gật đầu với hắn nói: “Cảm ơn Tam điện hạ!” Nàng tự thấy da mặt mình đã dày lắm rồi, bây giờ mới biết so với người nào đó còn kém xa.
Nhưng Bảo Khâm xưa nay rộng lượng, bị mọi người cười một trận xong cũng bình thường trở lại. Dù sao nàng cũng không ở nơi này cả đời, người bên cạnh có cười, cũng là cười Thất Công chúa, không liên quan gì đến nàng. Nghĩ vậy, nàng nhanh chóng khôi phục như bình thường, không những thoải mái uống rượu, đến thức ăn Tần Liệt gắp cho, nàng cũng ăn hết.
Dù sao cũng là cung Hoàng hậu, đồ ăn đẹp đẽ lộng lẫy không nói làm gì, mùi vị cũng tuyệt, không giống như những gì sư huynh kể: không thể nuốt trôi.
Bữa ăn này mỗi người đều có tâm tư riêng. Bảo Khâm ăn uống chuyên chú, Thanh Nhã lòng như lửa đốt, Vương Nhạn Như nghiến răng nghiến lợi, Thái tử và Thái tử phi chàng chàng thiếp thiếp, còn Hoàng hậu thì vui mừng ra mặt. Lúc nhìn vợ chồng Thái tử, lúc quay sang nhìn Tần Liệt và Bảo Khâm, lúc thì thầm than thở: “Hoàng đế nước Trịnh chết thật không đúng lúc, nếu chịu đựng thêm mấy ngày thì đã không cản trở đôi trẻ…”
Dùng bữa xong mọi người nói chuyện tiếp, đang nói Hoàng hậu chợt nghĩ ra điều gì đó, bảo Thái tử: “Nếu Uyển Như đã có thai, con nên dành nhiều thời gian chăm sóc Uyển Như. Buổi săn bắn mùa thu vào cuối tháng cũng không cần đi nữa, cứ ở lại trong kinh thành phụ giúp phụ hoàng con lo chuyện triều đình.”
Thái tử đang định trả lời, Thái tử phi đã cười nói xen vào: “Con đa tạ mẫu hậu quan tâm, nhưng Thái tử quanh năm ở trong kinh thành, khó có dịp ra ngoài, nhi thần thật sự không muốn trói buộc chàng trong cung. Dù sao cuối tháng con cũng đã sang tháng thứ ba, thai nhi dần ổn định, không cần quá lo lắng. Hơn nữa, nhi thần cũng không phải mang thai lần đầu tiên, nếu làm quá, người khác thấy nhất định sẽ cười chê. Chỉ là buổi săn bắn con không đi được rồi, Thái tử xem xem nên đưa Văn Tú hay Ngưng Sương cùng đi?”
Hoàng hậu chau mày quở trách: “Con hiền lành quá rồi.” Hoàng hậu lại nghĩ gì đó, quay sang nói với Thái tử: “Gì mà Văn Tú, Ngưng Sương! Cái bộ dạng hồ ly của chúng nó ta không thích. Một người cũng không được đi cùng. Chẳng phải trong phủ con vẫn còn mấy thị thiếp sao, đến lúc đó chọn một đứa nhanh nhẹn là được. Dù sao cũng chỉ chăm sóc sinh hoạt ngày thường, mười mấy hai mươi ngày là về kinh rồi.”
Văn Tú và Ngưng Sương đều là Trắc phi của Đông cung. Đặc biệt Đổng Ngưng Sương, cha là Đổng Xương Hoà – Binh bộ Thị lang, rất được Tần Đế trọng dụng, gần đây còn có tin hắn sắp được thăng chức. Bởi vậy, tuy nhà họ Đổng chưa có gì nhưng ở trong Đông cung đã rất hả hê, hành vi cử chỉ kiêu ngạo. Tuy trước mặt Thái tử phi vẫn rất lễ độ, nhưng nếu có một ngày nàng ta sinh con trai, chỉ e đến Thái tử phi cũng không thèm coi ra gì.
Bình thường ở trong cung, Thái tử phi vẫn luôn dùng Cung quy áp chế nàng ta, nếu để nàng ta đi theo Thái tử đến chỗ săn bắn, lại còn là mười mấy hai mươi ngày, ai mà biết sẽ có chuyện gì. Cho nên nghe Hoàng hậu nói xong, trong lòng Thái tử phi cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn.
Hoàng hậu một mặt bảo vệ Thái tử phi, mặt khác cũng đang nhắc nhở nàng ta. Phủ Quốc công có một Thái tử phi đã đủ rồi, nếu còn thêm một Tam Vương phi nữa, sau này khó tránh khỏi có loạn ngoại thích. Thái tử phi trong lòng hiểu rõ từ lâu, nhưng vẫn ngại chưa nói cho Vương Nhạn Như.
Thái tử cười dỗ dành Hoàng hậu: “Nghe mẫu hậu nói kìa, nhi thần chỉ đi có mười mấy ngày, bên cạnh cũng không phải không có người hầu hạ, cần gì phải đưa thị thiếp đi cùng. Tam đệ trước giờ đều có một mình, lần này để nhi thần bầu bạn với đệ ấy.
Tần Liệt nghe xong lườm hắn một cái, không nói gì.
Hoàng Hậu cười phá lên, chỉ vào hắn: “Liệt nhi chẳng phải còn có Thất Công chúa sao?”
Bảo Khâm sửng sốt, không hiểu sao tự nhiên lại nhắc đến mình. Thanh Nhã định mở miệng từ chối nhưng ngại quy củ, không dám nói gì, nôn nóng đến mức hai mức đỏ hoe.
Tần Liệt cúi đầu nhìn Bảo Khâm, dịu dàng hỏi: “Công chúa cùng đi nhé?”
“Nàng ta cũng đi?” Vương Nhạn Như không nhẫn nhịn nổi nữa, cười lạnh buông lời chế giễu: “Người ta là Thất Công chúa cành vàng lá ngọc, không giống với chúng ta đều là người thô kệch. Đừng nói là săn bắn, chỉ sợ đến ngựa cũng chẳng biết cưỡi.”
Từ lúc trúng độc, Bảo Khâm vẫn chưa được ra ngoài, xương cốt sắp rụng rời hết rồi. Vừa nghe thấy mọi người nhắc đến việc săn bắn, nàng liền nóng lòng muốn thử. Nhưng Vương Nhạn Như nói cũng không sai, thường ngày Thất Công chúa không ra khỏi cung bao giờ, đâu biết cưỡi ngựa. Nếu nàng đi theo, chẳng may không nhịn được săn vài con thỏ, há chẳng phải sẽ bị lộ tẩy sao?
“Không sao.” Tần Liệt lạnh lùng nhìn Vương Nhạn Như, sau đó lại quay sang Bảo Khâm, ánh mắt hắn trở nên dịu dàng: “Ta sẽ dạy nàng.”
“Được! Được!” Hoàng hậu vỗ tay, nói với Ngọc Trúc: “Đem con ngựa Như Phong của bổn cung cho Công chúa, để Tần Liệt dạy Công chúa cưỡi. Vẫn còn nửa tháng nữa, lo gì không học được.” Nói xong, bà vui vẻ nhìn Tần Liệt và Bảo Khâm: “Như Phong rất dễ bảo, Công chúa không cần sợ hãi. Liệt nhi phải kiên nhẫn, Công chúa là nữ nhi, con đừng coi nàng giống đám đàn ông thô lỗ ngoài doanh trại.”
Tần Liệt nghiêm túc gật đầu. Bảo Khâm vội vàng đứng dậy, tạ ơn Hoàng hậu.
Mọi người ngồi chơi đến giờ Mùi, thấy Hoàng hậu bắt đầu buồn ngủ mới xin phép ra về. Tần Liệt đưa Bảo Khâm về tận cửa Hành cung, ánh mắt lấp lánh nhìn nàng một lúc, giống như đợi nàng mở lời giữ mình lại.
Thanh Nhã thấy thế, vội vàng chen lên trước chào Tần Liệt, khách sáo đuổi người: “Tam điện hạ đi thong thả!” Khó khăn lắm nàng mới đuổi được hắn đi.
Sau khi về cung, Thanh Nhã muốn bàn bạc lại với Bảo Khâm nhưng vừa vào cửa đã thấy nàng ngáp ngủ, uể oải nói: “Để ta ngủ đã, mệt chết đi được!”
Khi Bảo Khâm dậy, ngựa Hoàng hậu tặng cũng đã được đưa đến. Nàng nhanh chóng rửa mặt, vui mừng phấn khởi chạy ra xem. Ngựa phương Bắc to lớn, chạy nhanh, sức bền cũng tốt, đặc biệt là ngựa chiến nước Tần, Bảo Khâm rất thích.
Nàng ở trong quân doanh bốn năm, thay hai con ngựa. Con đầu tiên tên là Thiểm Điện, ngựa ô cao lớn, màu lông óng ánh như gấm, vô cùng thông minh thiện chiến. Nó đã theo nàng không biết bao nhiêu trận đánh. Trong một lần giao tranh với Bắc Yến, nó bị trúng hai mũi tên, tuy giữ được mạng nhưng không thể ra chiến trường được nữa.
Sau đó nàng đổi một con ngựa cái, gọi là Đặc Lặc. Con ngựa này do sư huynh mang từ thung lũng Hà Sáo về, so với ngựa của nước Tần còn to lớn hơn, uy phong lẫm liệt, chạy nhanh như bay. Đặc Lặc vẫn theo Bảo Khâm cho tới tận khi nàng bị ép uống rượu độc, không biết hiện giờ nó thế nào rồi.
Bảo Khâm chạy đến chuồng ngựa như một cơn gió. Từ xa đã thấy mọi người tụ tập một chỗ, nói chuyện gì đó rất ồn ào. Thấy Bảo Khâm xuất hiện, tất cả mau chóng nhường đường, người chăn ngựa tươi cười đón tiếp nàng, cung kính hành lễ rồi nịnh nọt: “Hoàng hậu nương nương đã sai người mang Như Phong đến, Công chúa mau lại nhìn xem, thật đúng là ngựa tốt!”
Bảo Khâm nhìn con ngựa nhỏ xinh xắn trong chuồng, nghẹn họng không nói nổi một lời.
Vóc dáng nhỏ bé, ánh mắt ngoan ngoãn dễ bảo cùng với bộ yên ngựa tinh xảo hoa lệ, chỗ nào cũng như đang tuyên bố thân phận “cao quý” của nó. Thứ này chỉ nhìn được không dùng được, quất một roi đủ khiến nó không gượng dậy nổi. Bảo Khâm ôm trán, hơi nhếch miệng, khó xử mà khen ngợi một câu: “Quá nhiên xinh đẹp!”
“Công chúa có muốn thử không?” Người chăn ngựa nhiệt tình dắt Như Phong đến trước mặt Bảo Khâm, hơi vỗ lên lưng, con ngựa liền khuỵu chân trước xuống.
“Không… không cần đâu…” Bảo Khâm quay người một cách gian nan, khống chế bản thân không đá một cái. “Như Phong mới được đưa đến, để nó nghỉ ngơi một lát rồi tính sau.” Cái thứ yếu đuối mỏng manh như vậy mà cũng gọi là ngựa sao? Bảo Khâm thật sự lo rằng mình sẽ đè gãy chân nhỏ nhắn của nó mất.
Nàng thất vọng về phòng, Thanh Nhã dè dặt khuyên nhủ: “Nếu không Công chúa đừng đi nữa. Sức khoẻ của người vẫn chưa tốt lên hẳn, đường đi xóc nảy, nô tỳ sợ người không chịu được.”
“Muốn đi cũng chả có tác dụng gì.” Bảo Khâm ngã xuống giường, buồn rầu nói: “Con ngựa nhỏ đó, ta không muốn cưỡi, mất mặt lắm!”
Thanh Nhã vội vàng hùa theo: “Công chúa nói phải, con ngựa đó chẳng ra sao cả, không khác gì con lừa. Con lừa của người ta có khi còn hơn. Nếu Công chúa cưỡi thứ đó, đừng nói đi săn, ngay cả đi dạo cũng khó.”
Bảo Khâm buồn bực trở về giường nằm, lật qua lật lại mãi vẫn không ngủ được. Nàng là người hoạt bát, giờ sức khoẻ cũng khá dần, nàng không muốn ở lì trong cung. Khó khăn lắm mới có cơ hội ra ngoài, sao có thể chỉ vì một con ngựa mà bỏ lỡ được.
Càng nghĩ càng khó chịu, nàng xoay người ngồi dậy, chống cằm suy nghĩ, sau đó gọi Thanh Nhã: “Em sai người đi tìm Tần Tu, hỏi xem hắn có thể cho ta mượn ngựa không.” Dù sao nàng và Tần Tu cũng có “giao tình” nhiều năm, cho nên lần này người đầu tiên nàng nghĩ đến chính là hắn. Còn Tần Liệt, Bảo Khâm vừa nghĩ đến vẻ mặt của mọi người trong cung liền thấy xấu hổ. Nàng dù sao cũng là nữ nhi, nay còn mang theo thân phận Công chúa, đương nhiên không thể tuỳ tiện tìm “Phu quân tương lai” nhờ vả được.
“Công chúa vẫn muốn đi sao?” Thanh Nhã khó xử nhíu mày. “Chẳng qua là đi săn thôi mà, đợi sau khi về nước Trịnh, chỗ nào chẳng thể săn bắn. Công chúa cần gì phải đi góp vui như vậy?”
“Chẳng phải bây giờ vẫn chưa thể về sao?” Bảo Khâm nói: “Ngày nào cũng ở trong cung, ta buồn chán đến chết mất!”
Thanh Nhã hiểu tính nàng, nói một là một hai là hai nên biết mình khuyên cũng vô dụng, chỉ có thể nghe theo. Nàng ta suy nghĩ một lúc rồi nói: “Chi bằng đi tìm Tư Đồ đại nhân thì hơn.” Tư Đồ tuy phóng túng ngương ngạnh nhưng dù sao cũng không có ý với Bảo Khâm, đỡ lo người ta thừa cơ nịnh bợ.
Chỉ cần có ngựa, tìm ai có gì khác nhau? Bảo Khâm đang định gật đầu, a hoàn bên ngoài chạy vào báo: “Công chúa! Công chúa! Tam điện hạ sai thị vệ đến tặng ngựa.”
Ngựa Tần Liệt tặng!
Bảo Khâm lấy lại tinh thần, xoay người nhảy dựng lên, vội vàng hỏi: “Đâu? Đâu? Ngươi đã thấy chưa?”
“Ngựa được dắt đến chuồng rồi ạ. Công chúa có muốn qua xem thử không?”
Đương nhiên là có rồi. Trong đầu Bảo Khâm lập tức nghĩ đến hình ảnh Tần Liệt xuất hiện ở Phong thành, con ngựa hắn cưỡi nàng không dám nghĩ đến, nhưng ngựa của những thị vệ khác đều rất tốt, chọn đại một con cũng rất oai phong lẫm liệt.
Đến chuồng ngựa, nhìn thấy con ngựa oai phong to lớn như một đám mây đen, Bảo Khâm vừa kinh ngạc vừa vui sướng. Mắt nhìn ngựa của nàng rất tốt, vừa thấy đã nhận ra đây là con bảo mã yêu quý của Tần Liệt, trong lúc vui vẻ nàng cũng đồng thời tán dương Tần Liệt một câu: “Tam gia quả nhiên là người có nghĩa khí!”
Thanh Nhã nhìn thấy con hắc mã xong, trong lòng không vui chút nào. Chỉ là Bảo Khâm phấn khích quá mức, hại nàng mấy lần định nhắc, nhưng lời đến miệng rồi lại phải nuốt vào bụng. Tuy mới ở bên cạnh có mấy tháng nhưng tính tình Bảo Khâm ra sao nàng cũng hiểu được phần nào. Những chuyện khác Bảo Khâm có thể không quan tâm, nhưng cứ nhắc đến đánh trận hay tỉ thí là lại hăng hái ngay, phải tranh giành đến lúc một mất một còn mới chịu.
“Tên nó là gì?” Bảo Khâm vuốt ve bộ lông đen tuyền của con ngựa, hào hứng hỏi Ngũ Cân. Nhưng con ngựa này hơi kiêu ngạo, quay sang phì phì khinh thường Bảo Khâm rồi quẫy đuôi chạy đi.
Ngũ Cân sợ Bảo Khâm tức giận, vội vàng giải thích: “Nó tên là Táp Lỗ, là bảo bối của Tam gia, chỉ mình Vương gia cưỡi được nó, những người khác đến chạm vào nó cũng không chịu. Để mang được nó đến đây, tiểu nhân đã tốn không ít sức lực. Công chúa nhìn này, chân tiểu nhân còn bị nó đá hai cái.”
Người trông ngựa đứng sau cũng vội hùa theo: “Công chúa, con Táp Lỗ này người không thể chạm vào. Nó rất hung dữ, khi nãy nó còn khách khí với người, chứ nô tài vừa lại gần, nó đã giơ chân lên định đá, làm nô tài sợ chết khiếp.”
Bọn họ không nói thì thôi, càng nói càng khiến Bảo Khâm hứng thú, nàng chỉ mong có thể lập tức nhảy lên lưng ngựa chạy một vòng. Bảo Khâm bảo Ngũ Cân đem yên cương đặt lên lưng ngựa, còn mình vén tay áo chuẩn bị nhảy lên. Ngũ Cân sắp khóc ra nước mắt rồi, khổ sở cầu xin nàng: “Công chúa, người đừng làm khó chúng tiểu nhân, người vẫn nên đợi lát nữa Tam gia đến rồi tính. Nếu Công chúa xảy ra chuyện gì, Tam gia sẽ giết tiểu nhân mất. Hơn nữa…” Cuối cùng hắn cũng nghĩ ra một lý do thích đáng: “Trong sân chật chội, hay là để mai Tam gia đưa Công chúa đến bãi săn rồi hẵng cưỡi.”
Lời hắn nói quả thật rất có lý, Bảo Khâm nghĩ một lúc, cuối cùng cũng nghe theo, luyến tiếc vỗ vào mông ngựa, dịu dàng nói: “Thôi vậy, đợi ngày mai tìm nơi rộng rãi rồi đi, chỗ này mi không chạy nổi.”
Ngũ Cân thấy vậy rất muốn cười. “Thất Công chúa” này tuy đối xử với người nào cũng khách sáo, nhưng chưa từng thấy nàng dịu dàng hiền hậu bao giờ. Tam gia nghĩ đủ mọi cách lấy lòng người ta, kết quả vẫn không bằng một con ngựa, thật đúng là lấy đá đập vào chân mình.
Sau đó Ngũ Cân về Vương phủ gọi mã đồng[4] chăm sóc Táp Lỗ đến. Do con ngựa này tính tình quá hung hãn, người chăn ngựa ở Hành cung không đến gần nổi, đến cho ăn nó cũng chẳng chịu, kiêu căng vô cùng. Đương nhiên chuyện này Bảo Khâm không hay biết, buổi tối nàng ngủ rất ngon. Mới sáng sớm hôm sau nàng đã thay đồ để chuẩn bị cưỡi ngựa.
[4] Thằng bé phụ trách trông coi ngựa.
Trong đồ cưới của Thất Công chúa có không ít thứ tốt, vải vóc đều là hàng chất lượng cao, khi cắt ngắn bớt thì vừa vặn với người, đặc biệt còn có hai bộ đồ cưỡi ngựa màu đỏ, Bảo Khâm vừa nhìn đã thích. Chỉ tiếc nàng đang trong thời gian chịu tang, không được mặc y phục màu sắc rực rỡ tươi sáng, lôi ra vuốt ve xong đành phải bỏ lại vào hòm.
Sau khi thay quần áo, a hoàn đến báo Tần Liệt đã tới. Bảo Khâm vui mừng ra mặt, chạy nhanh ra ngoài.
Ngũ Cân đã dắt sẵn Táp Lỗ ra, còn Tần Liệt cưỡi một con hắc mã khác, cũng cao to tráng kiện, nhưng ở mi tâm có nhúm lông màu bạc, làm giảm đi sự dũng mãnh mà khiến nó trở nên đáng yêu hơn.
Bảo Khâm không nói gì đã muốn chạy đến “cướp” Táp Lỗ, Ngũ Cân sợ nó nổi điên ảnh hưởng đến mình, vội vàng buông dây cương, lùi ra sau. Vừa lùi, miệng vừa lớn tiếng gọi Tần Liệt: “Tam gia, ngài xem, tiểu nhân cũng bó tay thôi!”
Hắn còn chưa dứt lời, Bảo Khâm đã leo lên lưng ngựa. Táp Lỗ lập tức nổi điên, nhảy dựng lên, lắc người liên tục giống như muốn hất ngã nàng. Thanh Nhã đứng sau mà sợ hết hồn, mặt mày trắng bệch, vừa hoảng sợ thét lên vừa muốn xông vào giúp đỡ nhưng lại bị ánh mắt lạnh băng của Tần Liệt doạ cho lui xuống.
“Để nàng ấy tự mình điều khiển.” Tần Liệt không hề có ý muốn giúp, ngồi im trên lưng ngựa, khoanh tay đứng nhìn.
Táp Lỗ là con ngựa mà Tần Liệt yêu quý, đã đi theo hắn nhiều năm. Bao lâu nay ai cũng đối xử với nó rất khách sáo, chưa thấy người nào dám “lỗ mãng vô lễ” như Bảo Khâm, chẳng nói câu nào đã nhảy lên đòi cưỡi. Cho nên nó mới ra sức nhảy vọt lên, nổi điên lao về tứ phía.
Bên ngoài Hành cung tuy cũng rộng rãi nhưng nào đủ chỗ cho Táp Lỗ chạy, nó hí dài rồi xoay người giương vó phi sang một đường khác, động tác nhanh như chớp, không kịp chờ người ta phản ứng. Ngũ Cân và Thanh Nhã đều sững sờ nhìn Táp Lỗ chở Bảo Khâm vụt đi thật xa, theo sau là Tần Liệt. Đợi hai người tỉnh lại, đã không còn trông thấy bóng dáng họ.
“Về thôi!” Ngũ Cân hươ hươ tay trước mặt Thanh Nhã, cười chế giễu: “Bây giờ chúng ta có cưỡi gì cũng không thể đuổi kịp nữa rồi.”
Về phần Bảo Khâm, Táp Lỗ vụt chạy về phía cửa Đông, suốt đường đi tìm đủ mọi biện pháp hất ngã nàng nhưng nàng giống như mọc rễ trên lưng nó, không mảy may làm sao, đã thế còn không ngừng đánh nó, khiến Táp Lỗ đau muốn ré lên.
Cũng không biết chạy bao lâu, phòng ốc và người xung quanh ít dần, đi thêm một lúc chỉ nhìn thấy màu xanh tươi bát ngát. Táp Lỗ dần chậm lại, phát ra những tiếng thở dốc. Bảo Khâm thấy vậy, không hề khách khí đánh nó thêm một cái nữa, Táp Lỗ uất ức hí vang. Một lát sau, cuối cùng nó cũng im lặng, ngoan ngoãn dừng bước, cụp đầu xuống, không còn trông thấy bộ dạng kiêu ngạo nữa.
“Công chúa cưỡi ngựa rất giỏi, xem ra không cần bản vương dạy nữa.” Đột nhiên giọng nói Tần Liệt vang lên từ phía sau, Bảo Khâm quay lại mới phát hiện ra hắn đã đứng đấy từ lúc nào. Cả người nàng bỗng hoá đá, chau mày, cố gắng mở miệng, xoay người mỉm cười gượng gạo, lên tiếng giải thích: “Ta… từng học cưỡi ngựa rồi.”
Tần Liệt nghe vậy cũng không truy hỏi, chỉ gật đầu nói: “Vậy càng tốt!” Hắn khẽ vỗ lên lưng ngựa, con ngựa dần bước thong thả đến chỗ Bảo Khâm, giữa hai người chỉ còn cách hai, ba thước. Cơ thể của Bảo Khâm không còn như trước, giằng co một lúc với Táp Lỗ bắt đầu toát mồ hôi, hai má đỏ ửng, hô hấp không đều.
Tần Liệt lấy túi nước đưa cho Bảo Khâm, thấp giọng nói: “Công chúa uống chút nước trước đi, lát nữa chúng ta về, tới quán trà là có thể dừng chân nghỉ ngơi.”
Bảo Khâm không chút do dự nhận lấy túi nước, mở nắp ra uống vài ngụm, rất phóng khoáng vung tay áo lau miệng. Đang lau dở thì chợt nhớ ra, liền len lén nhìn sang Tần Liệt, thấy hắn không nhìn mình mới vội vàng bỏ tay xuống, lấy chiếc khăn tay trong túi ra, chậm rãi đưa lên lau miệng, trông rất ra dáng.
Đợi nàng lau miệng xong, Tần Liệt mới quay lại, đón lấy túi nước trong tay nàng một cách tự nhiên. Sau đó, hắn cũng ngửa mặt lên uống một ngụm. Lúc uống, hắn còn cố ý nhìn Bảo Khâm, hy vọng trông thấy vẻ mặt ngượng ngùng của nàng. Nhưng Bảo Khâm hoàn toàn không ý thức được có gì không hợp, nhoẻn miệng cười với hắn, rất khách khí.
Đầu óc Tần Liệt như bị lấp kín, không để ý nên bị một ngụm nước lạnh làm cho ho sặc sụa một lúc. Bảo Khâm không nói không rằng vỗ vỗ vào lưng hắn, động tác rất mạnh mẽ, “bộp bộp” thành tiếng. May là tuy Tần Liệt có khuôn mặt thư sinh, nhưng thân thể rắn chắc, nếu thật sự là một kẻ trói gà không chặt, e rằng xương cốt đã bị nàng vỗ cho rụng rời.
Đợi Tần Liệt trở lại bình thường, hai người mới thúc ngựa chầm chậm đi về. Bảo Khâm cứ nghĩ đến việc xưa nay hắn cẩn thận bình tĩnh mà cũng có lúc mắc sai lầm, trong lòng cảm thấy rất buồn cười, nhưng mỗi lần định cười, nhìn khuôn mặt chưa từng giãn ra của hắn thì không nhếch mép nổi.
Hai người đi được một lát thì thấy quán trà như Tần Liệt nói.
Nói là quán trà, thực tế chỉ là cái lều được dựng lên, bên trong đặt hai cái bàn, bày vài cái ghế. Chủ quán là một đôi vợ chồng già tóc hoa râm nhưng vẫn còn minh mẫn, bước đi không hề chậm chạp mà ổn định vững chãi.
Nhìn thấy hai người Tần Liệt và Bảo Khâm đến, bà lão nhiệt tình chào hỏi: “Tần gia đến rồi, mau ngồi xuống đi. Tôi bảo ông lão đi pha trà.” Nói xong, bà lão hét lớn “Ông ơi, mau mng trà lên!”
Bảo Khâm ngạc nhiên, nhân lúc bà lão đi pha trà, ghé vào người Tần Liệt khẽ hỏi: “Bà ấy biết ngài?”
Mấy tháng nay nàng được nuông chiều, Thanh Nhã theo thói quen điều chế một số loại kem dưỡng da, dùng một thời gian, làn da của nàng ngày càng thêm mềm mại. Tuy Bảo Khâm không to son trát phấn nhưng trên người luôn có hương thơm tự nhiên thoang thoảng. Khi nàng đến gần, hương thơm lan vào mũi Tần Liệt, quyến rũ không lời.
Đường đường là Chiến thần Đại Tần mà cũng có lúc ngây người, lát sau mới nhớ đến việc phải trả lời, hắn dằn lòng, khẽ nói: “Ta có đến mấy lần nên bà lão nhớ mặt.” Lúc nói, ánh mắt hắn không nhìn Bảo Khâm, giả vờ tìm chỗ ngồi, nhanh chóng vào trong lều.
Rất nhanh sau đó, bà lão đã mang một bình trà nóng lên, cười nói với Tần Liệt: “Là trà thu nhà vừa mới sao, không biết Tần gia uống có quen không?”
Tần Liệt không trả lời, quay sang nhìn Bảo Khâm, hỏi: “Trà nước Tần rất đặc, không biết nàng uống có quen không?”
“Không sao.” Bảo Khâm vội trả lời. Nàng không phải khách sáo, mà là Tây Bắc gần nước Tần, cách ăn uống cũng không khác biệt là bao. Chúng quân sĩ trong doanh trại Tây Bắc hầu hết đều uống trà đặc. Lúc hãm cầm dao chém một nhát rồi đun thật kỹ, đến khi nước đỏ chuyển đen, uống vào giải khát rất tốt.
Nói xong, Bảo Khâm cầm bình trà rót cho mình và Tần Liệt mỗi người một chén. Nước trà ở đây trong hơn so với trà nàng hay uống ở Tây Bắc, có lẽ do bị sao khê, trà hơi khét, uống vào có vị khác lạ.
Tần Liệt thấy nàng uống rất ngon, trong lòng cũng dễ chịu. Hắn gọi bà lão tới nhờ cho hai con ngựa uống nước cho đỡ khát. Hai người ngồi dùng trà, nói chuyện linh tinh một hồi rồi mới đứng dậy ra về.
Vừa chuẩn bị đi dắt ngựa, Táp Lỗ đã chạy đến. Nó tủi thân chạy đến trước mặt Tần Liệt, thấy hắn không quan tâm đến mình mới chạy qua chỗ Bảo Khâm, vẫy vẫy đuôi.
Bảo Khâm nhìn dáng vẻ nịnh nọt này khác hoàn toàn với một Táp Lỗ kiêu căng lúc trước, không nhịn được ôm bụng cười phá lên, vỗ vào lưng nó: “Ta còn tưởng ngựa giống như chủ, thì ra mi cũng học cái trò xu nịnh này. Giữ bộ mặt đơ như khúc gỗ làm gì, bị ta quất cho vài roi, đánh cho vài cái, cuối cùng vẫn phải ngoan ngoãn nghe lời…”
Tần Liệt lắc lắc đầu nhìn nàng, mặt đơ như khúc gỗ, không nói gì.
Bảo Khâm đi được không bao lâu bắt đầu tỉnh ra, cảm thấy có điều bất ổn. Nhưng lời đã nói như bát nước hắt đi, nàng cũng không thể giải thích lại với Tần Liệt nữa. Nghĩ một lúc, nàng cảm thấy đầu óc quay cuồng, quyết định bỏ qua, mà thấy Tần Liệt vẫn bình thường nàng lại tiếp tục cùng hắn trò chuyện như cũ.
Cả hai người ở bên ngoài uống toàn nước với trà, bụng vẫn rỗng. Vừa về đến Hành cung, Bảo Khâm vội vàng bảo Thanh Nhã chuẩn bị cơm, mời Tần Liệt ở lại cùng ăn. Tần Liệt chỉ đợi câu này của nàng, lập tức nước đẩy thuyền trôi, xuôi theo ý nàng, khiến Thanh Nhã buồn bực đau lòng.
Thanh Nhã ở trong Hành cung như hổ rình mồi, Tần Liệt không thể cùng ngồi ăn với Bảo Khâm. Không những thế, nàng ta còn bắt hắn ngồi ăn ở ngoài điện, cách Bảo Khâm một tấm bình phong lớn. Đừng nói nhìn thấy người ta, ngay đến giọng nói cũng không nghe nổi. Tần Liệt không tiện nhiều lời, chỉ có thể chán nản cúi đâu ngồi ăn, đến rượu cũng không uống.
Bảo Khâm cảm thấy không quen nhưng Thanh Nhã lời lẽ hùng hồn, quả thực có chỗ đúng. Hơn nữa, nàng ta còn là người của sư huynh, nàng vẫn nên nể mặt chút.
Ăn trưa xong, Tần Liệt không hề rời đi. Hắn nói hôm nay Bảo Khâm mệt nhọc, sợ nàng không thoải mái nên sai Ngũ Cân gọi Tư Đồ đến. Còn hắn nhân cơ hội ở lại, không ngừng nói chuyện với nàng. Tần Liệt kiến thức bao la, nói đều là những câu chuyện hào hùng trong quân đội, Bảo Khâm nghe chăm chú, mấy lần không kìm lòng được lên tiếng phụ hoạ, đều bị ánh mắt của Thanh Nhã bắt im lặng. Cẩn thận suy ngẫm, nhất thời nàng thấy toát cả mồ hôi.
Không lâu sau Tư Đồ đến. Hắn ôm theo hòm thuốc, cúi đầu ủ rũ. Vừa vào cửa đã oán hận nói với Tần Liệt: “Không biết kiếp trước ta nợ gì ngươi, khó khăn lắm mới được nghỉ ngơi, đang chuẩn bị tìm Tiểu Thuý thì bị Ngũ Cân kéo lại. Sau này ta mà không lấy được vợ, ngươi cũng đừng mong được yên ổn.”
Tần Liệt lườm hắn, giống như không nghe thấy hắn nói gì, chỉ lạnh lùng bảo: “Ngươi xem cho Công chúa đi, hôm nay nàng đi cưỡi ngựa, ta sợ sức khỏe của nàng không trụ nổi.”
“Cưỡi ngựa thì có gì phải cuống lên, sức khoẻ của Công chúa cũng không tệ đến vậy.” Tuy nói thế, Tư Đồ vẫn ngồi xuống bắt mạch cho Bảo Khâm. Ngón tay vừa chạm vào mạch tượng, đôi lông mày của hắn liền nhướn lên. Hắn nhìn Bảo Khâm trước, sau đó lại quay sang nhìn Tần Liệt, nghi ngờ hỏi: “Công chúa cưỡi ngựa gì mà khí huyết đảo lộn như vậy?”
“Táp Lỗ.”
Tư Đồ há hốc mồm, một lúc sau vẫn chưa khép lại. Mãi hắn mới thu tay, lau trán khẽ cảm thán: “A Liệt, lần này ngươi đúng là đã dốc hết vốn liếng ra rồi! À, Táp Lỗ vẫn khoẻ chứ?”
Tần Liệt chậm rãi quay đầu nhìn hắn, ánh mắt không vui.
Bảo Khâm cũng đưa mắt sang nhìn Tư Đồ, hỏi: “Tư Đồ đại nhân cảm thấy thiếp có thể giết chết hay là ăn tươi Táp Lỗ?”
Tư Đồ cảm thấy không ổn, vội vàng nói: “Xin lỗi, ta sai rồi!” Hắn không có ý tốt nhìn hai người cười mờ ám: “Hai người còn chưa bái đường đã cùng một lập trường rồi. Nếu sau này thành gia lập thất, chẳng phải lời nói của ta không còn chỗ đứng sao? Đúng là tính nết y hệt nhau, nếu không sao lại có câu ‘không phải người một nhà, không vào cùng một cửa’ được!”
Tần Liệt và Bảo Khâm không phản ứng gì, nhưng Thanh Nhã sắp tức chết rồi. Nàng ta vội lên tiếng phản đối: “Tư Đồ đại nhân, Công chúa nhà nô tỳ còn đang chịu tang, sao ngài có thể nói như vậy. Thật sự quá vô lễ!”
Tư Đồ bị mắng cũng không nói gì, chỉ cười hì hì nhìn Tần Liệt, dáng vẻ cợt nhả, giống như đợi hắn giải vây cho mình.
Tần Liệt mặt không cảm xúc, chuyển chủ đề: “Sức khoẻ Công chúa thế nào rồi? Có cần uống thuốc không? Hoàng hậu nương nương mời nàng cuối tháng đi săn, ngươi thấy nàng có thể đi không? Nếu không được đành đợi lần sau vậy.”
Bảo Khâm vừa nghe thế liền vội vàng nói: “Sao lại không được? Sức khoẻ của thiếp rất tốt, đến Táp Lỗ còn bị thuần phục. Sau này cũng chỉ là cưỡi ngựa đi bộ, không mất sức.” Nàng ở trong Hành cung lâu quá rồi, sức khoẻ mãi mới khá lên. Nàng tìm đủ mọi cách để có thể ra ngoài, nếu không sẽ cảm thấy khó chịu. Nếu Tần Liệt không cho nàng đi, sợ là nàng sẽ trốn theo mất!
Tư Đồ tiếp xúc với nàng cũng lâu rồi nên cũng hiểu được phần nào tính tình của nàng, hắn cười nói: “Không sao, không sao. Công chúa đã khoẻ nhiều rồi, ra ngoài đi lại cũng tốt, có thể hoạt động gân cốt, việc hồi phục cũng nhanh hơn. Nhưng người phải cẩn thận, không được quá sức như hôm nay.” Nói xong, hắn làm mặt quỷ với Tần Liệt: “Hơn nữa, bên cạnh Công chúa còn có Tam gia bảo vệ. Có hắn, Công chúa sẽ không sao đâu.”
Tần Liệt gật đầu không cảm xúc. Hắn nhìn Bảo Khâm khẽ hỏi: “Ngày mai nàng có muốn ra ngoài không?”
Ánh mắt Bảo Khâm sáng rực, trên mặt mang theo mong đợi: “Đi đâu?”
“Phía Tây thành có chùa Ninh Sơn. Lão hoà thượng ở đó chơi cờ rất giỏi. Dưới chân núi còn bán thịt nướng, dê nướng ở đó rất tuyệt.” Hắn nói chuyện mặt không có cảm xúc gì, nhưng giọng nói và ngữ điệu thật mê người, Bảo Khâm không cưỡng lại được mê hoặc, chưa nghĩ ngợi đã đồng ý: “Sáng ngày mai chúng ta sẽ đi.”
“Nô tỳ cũng đi.” Thanh Nhã thấy tình hình không được tốt, vội vàng nói: “Công chúa dù sao cũng là phận nữ nhi, sao có thể ra ngoài một mình được. Có nô tỳ đi cùng, Công chúa cũng thuận tiện hơn.”
“Ngươi biết cưỡi ngựa?” Tần Liệt lạnh lùng hỏi.
Thanh Nhã chợt ngẩn ra, cắn môi, mãi không nói được câu nào.
“Ngày mai ta sẽ bảo Ngũ Cân dạy ngươi cưỡi ngựa.” Tần Liệt hoàn toàn không để ý đến Thanh Nhã, tự mình sắp xếp như vậy. “Đợi khi nào ngươi cưỡi được rồi hẵng nói.” Hắn nói lời nào cũng cương quyết, trước sau như một, khiến người khác không dám phản đối. Thanh Nhã rất rất không muốn, nhưng nhìn thấy bộ mặt lạnh lùng của Tần Liệt, nửa lời từ chối cũng không dám nói.
Đợi hắn và Tư Đồ đi khỏi, nàng mới buồn bực ôm đầu, khuyên nhủ Bảo Khâm hết nước hết cái: “Công chúa, nô tỳ cảm thấy ánh mắt của Tam gia rất ngoan độc, hôm nay người phóng túng quá rồi. Dù là các cô nương ở nước Tần cũng không dám cưỡi ngựa tùy tiện, vậy mà người lại còn hùng hổ như vậy, chẳng lẽ Công chúa không sợ bị ngài ấy nhìn ra sơ hở sao? Đến lúc đó, có muốn đi cũng khó.”
Bảo Khâm suy nghĩ thật kỹ, nhớ lại dáng vẻ Tần Liệt lúc sáng, nàng lắc đầu: “Ta nói mình từng học cưỡi ngựa, hắn không nghi ngờ chút nào hết. Chung gia đời đời học võ, Thất Công chúa là thân thích, đừng nói là cưỡi ngựa, biết vài chiêu quyền cước cũng không có gì kỳ lạ.”
Lý do của nàng cũng có căn cứ, Thanh Nhã không còn lời nào để phản biện, cúi đầu suy nghĩ, sau đó mới nói nhỏ: “Nhưng nô tỳ thấy, Tam gia… Tam gia có phải đối xử với Công chúa… tốt quá mức không? Ngài ấy sẽ không thực sự coi người là Công chúa đấy chứ?” Thanh Nhã không tiện nói trực tiếp với nàng, đành vòng vo nhắc nhở, hy vọng Bảo Khâm có thể hiểu.
Nhưng Bảo Khâm không phải là người hay vòng vo, đương nhiên nàng không hiểu, cười nói: “Đương nhiên hắn phải coi ta là Công chúa rồi, nếu không sao lại vài ngày đến một lần được?” Hơn nữa, Táp Lỗ hắn còn đem tặng, thể hiện rõ thái độ với nương tử tương lai. Nếu hắn đã vạch trần được thân thế của nàng, có khi còn tóm cổ lại chứ nói gì đến đối xử ân cần như thế? Bảo Khâm nghĩ vậy.
Thanh Nhã không biết nên nói gì cho tốt.
Ăn cơm tối xong, Thanh Nhã bảo bọn người hầu ra ngoài hết, chạy đến bên cạnh Bảo Khâm nói nhỏ: “Chủ nhân sợ nô tỳ chăm sóc người không chu đáo nên phái hai người nữa đến. Nhưng Hành cung quản lý nghiêm chặt, nô tỳ không xếp người vào được. Công chúa xem…”
Từ ngày Lương Khinh Ngôn đột nhập vào Hành cung bị Tư Đồ phát hiện, số thị vệ bên ngoài Hành cung đã tăng lên không ít, toàn bộ đều là người của Tần Liệt. Đối với chuyện người ra kẻ vào quản lý rất nghiêm, đặc biệt là đám người đến từ nước Trịnh đều bị lần lượt điều ra ngoài. Thậm chí, a hoàn Lý Kha Minh để lại cũng biến mất không tung tích. Bên cạnh Bảo Khâm, ngoại trừ Thanh Nhã, còn lại tất cả đều do Tần Liệt phái đến.
Bảo Khâm suy nghĩ, sau đó khẽ lắc đầu: “Em biết trước giờ ta không quản mấy chuyện này, nếu như mở miệng đòi điều người đến đây, chắc chắn sẽ khiến người ta chú ý. Cứ để bọn họ đợi bên ngoài trước, bao giờ cần dùng thì tính sau. Dù sao bây giờ ta cũng rất an toàn, nếu như trong Phong thành có người nhận ra ta, chỉ cần bên nước Trịnh nhất quyết không thừa nhận thì họ cũng đâu thể làm được gì.” Phía nước Trịnh còn có sư huynh, hẳn sẽ không chặn đường lui của nàng.
Phiền toái trước mắt không phải vấn đề này, Thanh Nhã than thầm, trong đầu hiện lên ánh mắt của Tần Liệt, lại nhìn Bảo Khâm vẫn ngây thơ, không biết nên khóc hay nên cười. Nói không chừng vị Tam Vương gia kia còn đau đầu hơn nàng.
Buổi tối ngủ một giấc ngon lành, sáng hôm sau Bảo Khâm trở nên phấn chấn. Nàng ăn sáng, vừa thay xong y phục thì nghe a hoàn báo Tần Liệt đã đến. Đợi nàng quấn áo chỉnh tề đi ra, có mấy người vội vàng chạy đến nói: “Công chúa, Ngũ gia cũng đến rồi.”
“Tần Tu cũng đến, vậy càng tốt.” Bảo Khâm vung roi, vang lên “vút vút”, “Vừa khéo có thể đi cùng bọn ta.”
Ba người ra ngoài hơn là cô nam quả nữ ở chung một chỗ. Thanh Nhã thờ phào, cảm tình với Tần Tu lại tăng thêm một phần.
Khi Bảo Khâm đến Thiên điện, hai huynh đệ họ Tần đã ngồi đó, nhưng không khí trong phòng không được tốt cho lắm. Tần Liệt mặt lạnh lùng, cầm chén trà không thèm để ý đến Tần Tu, còn Tần Tu vẻ mặt lưu manh, cười nhếch mép, không ngừng liếc mắt nhìn Tần Liệt, trong ánh mắt viết rõ bốn từ không-có-ý-tốt.
Đợi Bảo Khâm tới, Tần Tu chạy ra đón trước, dáng vẻ gần gũi thân thiết, chỉ còn thiếu mỗi việc khoác vai bá cổ mà thôi. Hắn mỉm cười nói với Bảo Khâm: “Công chúa thật là, đi ra ngoài chơi mà không rủ ta một câu, rõ ràng không coi ta là bạn bè.”
Bảo Khâm tuy không biết mình với hắn thân thiết như vậy từ bao giờ, nhưng cũng không thể để hắn mất mặt trước bao nhiêu người, liền cười đáp: “Ngũ gia quyền quý bận bịu, ta nào dám không biết xấu hổ làm phiền ngài.” Nếu hắn đã thích làm bạn bè thân thiết, Bảo Khâm cũng không thể cứ “thiếp thế này, thiếp thế kia” được, nên nàng cũng tuỳ tiện chuyển cách xưng hô.
Nàng vừa dứt lời, Tần Liệt liền liếc mắt nhìn qua, cảm giác gió lạnh vù vù thổi qua khiến Bảo Khâm lập tức tự kiểm điểm lại mình. Có phải nàng đã nói sai rồi không?
/10
|