Ba người Long Ưng cũng giới thiệu bản thân bằng cách của họ.
Sau khi đã giới thiệu tên, bầu không khí được cải thiện nhiều hơn.
Ba Đạt nói:
- Các ngươi có thể thề với trời rằng mình không nói dối không?
Long Ưng ngẩng lên nhìn một vầng mây trắng bay qua nền trời, rồi chỉ vào bầu trời nói:
- Long Ưng ta không những là bạn của Hoành Không Mục Dã, còn là huynh đệ của ngài, nếu nói dối, trời sẽ trừng phạt ta.
Sắc mặt năm người cùng thay đổi.
Ba Đạt hô lên một tiếng, năm người thúc ngựa xuống sông, vượt qua bờ bên kia. Ba người lùi về phía sau, để lại chỗ trống cho họ lên bờ.
Họ vừa vượt sông, vừa nhìn về phía Tuyết Nhi, và chúi đầu bàn bạc.
Ba Đạt là người lên bờ đầu tiên, y nhanh chóng nhảy xuống ngựa, đi về phía Long Ưng.
Long Ưng đang không biết y muốn làm gì thì y đã ôm chặt lấy Long Ưng rồi nói:
- Bạn của Hoành Không Mục Dã, cũng là bạn của dân tộc Hô Luân chúng ta.
Rồi sau đó y lại ôm lấy Vạn Nhận Vũ và Phong Quá Đình. Bốn người khác cũng đến ôm họ, không phải là những cái ôm giả tạo, mà tràn đầy tình cảm, không khí ngay lập tức trở nên hòa hợp.
Mọi người ngồi quây quần trên bờ sông, Vạn Nhận Vũ lấy một cuộn tơ lụa ra tặng cho họ, quả đúng như những gì Vạn Nhận Vũ đã dự đoán, Ba Đạt và những người khác đều vui vẻ, họ chuyền tay nhau tấm lụa, vô cùng yêu thích.
Vạn Nhận Vũ nói bằng giọng Thổ Phiên:
- Vừa rồi chúng ta nói rằng chúng ta đến từ nước Đại Đường, tại sao chư vị lại cười?
Mặt trời đã lặn cuối đường chân trời, nhưng vẫn hắt lên vài tia sáng ở phía tây, đại thảo nguyên lại khoác lên mình vẻ đẹp khác.
Ba Đạt nói thẳng:
- Giờ đây đó là nơi bị nữ nhân quản thúc, đàn ông sao có thể bị nữ nhân quản chứ?
Ba người không nói gì được.
Long Ưng chuyển hướng câu chuyện:
- Tại sao ta nói rằng ta là bạn của Hoành Không Mục Dã, các ngươi lại tin một cách dễ dàng đến thế?
Bốn người còn lại ngoài Ba Đạt đều hiểu tiếng Thổ Phiên, chỉ là không dám cướp lời, bèn chú ý lắng nghe.
Ba Đạt nói:
- Bởi lẽ chúng ta biết rằng Mục Dã vương tử thực sự đã trở thành bạn của người Hán, còn về việc ai đã nói với chúng ta, thì thứ lỗi cho ta tạm thời không thể nói ra. Điều quan trọng hơn nữa là vừa rồi ngươi đã thề với trời, sắc mặt vô cùng thành thật, đến con ngươi cũng không chuyển động.
Ba người Long Ưng nhìn nhau, đều cảm thấy những lời của Ba Đạt đầy hàm ý. Đương nhiên họ không dám hỏi ép.
Phong Quá Đình nói:
- Chúng ta muốn tới Thổ Phiên, Ba Đạt ngươi có biết đi đường nào không?
Ba Đạt nói:
- Giờ vẫn không thể nói cho các ngươi được, đêm nay hãy đến trại của chúng ta nghỉ đã. Sáng mai chúng ta sẽ cưỡi ngựa một ngày đường, đến thăm một người có đến tám lều, lều của y nằm ở bên cạnh Thần Hải, chúng ta tôn kính gọi y là “An Thiên”, ý nói là người có trí tuệ lớn. Tất cả sẽ do An Thiên quyết định.
Phong Quá Đình hứng thú hỏi:
- Số lượng lều nói lên điều gì?
Ba Đạt mỉm cười:
- Tám cái lều, cho thấy có tám người vợ. Ta cũng có ba cái lều.
Rồi y thấp giọng nói:
- Ở luân phiên trong ba cái lều đó, sẽ giảm được rất nhiều phiền phức không cần thiết. Ha ha!
Đám người cùng cười, đương nhiên họ hiểu ý của y.
Tiểu tử mang tên Đán Đạt Khắc cười ám muội nhất. Có lẽ vì chưa lấy vợ, nên nghe vậy mà lòng ngứa ngáy.
Giờ đây sắc trời dần tối, đám người khởi hành đến khu trại của Ba Đạt, cuộn tơ lụa tặng cho họ được Ba Đạt trân trọng đặt lên đùi. Dưới bầu trời đầy trăng sao, mấy người đi nửa canh giờ về phía tây, mới tới một chiếc hồ nhỏ rộng khoảng hơn mười trượng. Có hơn trăm căn lều bố trí thưa nhau bên cạnh hồ.
Toàn tộc có khoảng cả trăm nam nữ, họ đổ dồn đến xem, vô cùng nhiệt tình hiếu khách.
Ban đêm, Ba Đạt đốt lửa trại mở tiệc chiêu đãi, mời họ nếm đùi dê uống trà sữa dê. Dưới bầu trời mênh mông, ngoài những tiếng dê be be vang lại từ phía đằng xa, chỉ có tiếng nổ lách tách của đống lửa.
Bình đựng trà sữa dê chuyền đến tay mọi người, vây quanh đống lửa, chầm chậm giết thời gian. Mặc dù ba người không quen với tiết tấu của họ lắm, nhưng nhập gia cũng phải tùy tục. Dần dần họ cũng thích ứng và hưởng thụ phương thức sống của họ.
Long Ưng hỏi Ba Đạt:
- Các ngươi không thích người Đột Quyết sao?
Ba Đạt nói:
- Người Đột Quyết không phải là người chính phái.
Vạn Nhận Vũ hỏi:
- Họ đã từng xâm lược các ngươi sao?
Ba Đạt nhún vai nói:
- Ta không biết, nhưng từ trước đến giờ đều vậy cả, mọi người đều biết rằng người Đột Quyết không phải người chính phái.
Phong Quá Đình nói:
- Các ngươi có biết tình hình hiện tại của người Thổ Phiên, bạn chúng ta không?
Ba Đạt lắc đầu nói:
- Điều này phải xem An Thiên có chịu nói cho các ngươi hay không. Không được sự cho phép của ngài, ta không được nói ra. An Thiên là tộc trưởng của chúng ta.
Long Ưng nói:
- Các ngươi đã từng đến sa mạc lớn phía tây chưa?
Ba Đạt kiêu ngạo nói:
- Người chưa từng đặt chân đến thần mạc, sao có thể xứng danh là nam tử hán? Phần đất phía tây nam của thảo nguyên chúng ta có một đoạn đâm sâu vào thần mạc như một mũi thương, đến tận hơn ba trăm dặm, đầu tận cùng của nó nối với sông Thả Mạt, là nơi tốt để săn bắn. Nếu đi về phía tây, rồi vòng sang phía nam, có thể đến Thả Mạt và Xúc Khương, đó là con đường nhanh nhất để tới nơi đó.
Vạn Nhận Vũ nói:
- Trong sa mạc Taklimakan có khu vực săn bắn sao?
Ba Đạt nói:
- Trước khi sông Thả Mạt vào đại thảo nguyên chúng ta, nó đổ vào hồ Thai Đặc Mã trước. Bên cạnh hồ cây cối um tùm, có rất nhiều loại động vất sinh sống, nếu các ngươi có thời gian, ta có thể dẫn các ngươi đi săn.
Ba người trầm trồ khen ngợi, nghĩ tới việc trong một sa mạc rộng lớn lại có một vùng đất thần kỳ như vậy. Đất có thể khắc nước nhưng, nhưng rõ ràng nước cũng có thể khắc đất.
Câu chuyện đến đây là kết thúc, ba người được gọi vào một căn lều trống dọn trước, nghỉ đêm đầu tiên khi tới ốc đảo.
Hôm sau, trời còn chưa sáng, Ba Đạt đã dẫn ba người lên đường, đi về phía “Thần Hải”, đến thăm lãnh tụ bộ tộc, người có tám chiếc lều.
Ba người thực sự không hiểu về điều này, bởi lẽ đã tặng quà, và mọi người đều gọi nhau là huynh đệ, tại sao vẫn không chịu nói cho họ biết những chuyện họ cần? Dường như không giống với tác phong hào phóng nhiệt tình của dân du mục lắm.
Những đồng cỏ chạy dài ven đường, rừng cây bao la. Qua trong từng đợt sóng cỏ, lờ mờ nhìn thấy những ngôi nhà, cũng thấy cả ruộng lúa mỳ, đậu Hà Lan, vừng. Tại vùng đất rực rỡ ánh nắng này, con người sống một cuộc sống an nhàn bán nông nghiệp bán du mục. Những nơi đi qua, sông ngòi dày đặc, một buổi sáng phải vượt sông đến hơn mười lần, có hai lần là ngựa bơi qua sông.
Đôi khi gặp phải những người phụ nữ mặc bộ quần áo sắc màu rực rỡ, đầu quấn khăn màu giặt quần áo bên bờ sông. Họ không hề ngượng ngùng, ngước đầu lên chào mọi người. Trong số đó có những cô gái trẻ xinh đẹp mạnh khỏe, đầy hương vị của dân tộc thảo nguyên.
Sau giờ ngọ, họ nghỉ bên một chiếc hồ nhỏ, ăn lương khô mang theo.
Nhìn về phía mặt hồ, một đàn chim đang bay gần mặt hồ tới khoảng cả nghìn con, đầy sức sống, khiến họ nhìn không chớp mắt. Nếu bắn tên bừa, nói không chừng cũng trúng.
Long Ưng nói:
- Trời ơi, không ngờ lại có nhiều loại chim khác nhau đến vậy.
Ba Đạt không thấy gì lạ, lơ đãng nói:
- Mỗi lần vào dịp xuân hè, luôn có rất nhiều đàn chim bay từ phía tây nam đến, số chim ở Thần Hải còn nhiều không đếm xuể, đến mùa đông số lượng chim mới giảm đi.
Ba người thầm tính toán thời gian, khi xuất phát từ Trường An là mùa đông, giờ đây mùa xuân đã trôi đi, mùa hạ vừa tới, bất giác, hơn bốn tháng đã qua.
Ba Đạt nói:
- Giờ là mùa nước lớn, rất nhiều nước chảy xuống từ phía nam, cũng là thời gian đẹp nhất của thảo nguyên chúng ta. Đến mùa đông, lượng nước giảm mạnh, nơi này sẽ trở thành một dáng vẻ khác.
Phong Quá Đình hỏi:
- Nước biển Thần Hải của các ngươi mặn hay ngọt?
Ba Đạt nói:
- Là mặn, ngoài hồ nước mặn trong đất liền trên cao nguyên phía nam, Thần Hải của chúng ta là vùng nội thủy lớn nhất trong vòng ngàn dặm. Chỗ chúng ta cũng sản xuất muối, có thể đổi được rất nhiều thứ. Chút nữa ta sẽ tặng các ngươi mỗi người một gói muối. Muối là thứ bắt buộc phải có khi đi trong sa mạc, khi động vật không chịu nổi cái nóng, cho chúng ăn chút muối, có thể giữ tính mạng cho chúng.
Vạn Nhận Vũ ngạc nhiên:
- Ngựa cũng chịu ăn muối sao?
Ba Đạt lộ vẻ ngạc nhiên hơn cả y, nói:
- Ngươi không biết ngựa thích ăn muối sao?
Phong Quá Đình nói:
- Đi một ngày đàng, học một sàng khôn, giờ ta đã hiểu được ý nghĩa của câu này.
Ba Đạt thấp giọng nói:
- An Thiên là người có địa vị cao nhất thảo nguyên, các ngươi tặng quà cho ngài, nhất định phải hậu hĩnh hơn tặng cho ta, nếu không người khác sẽ gièm pha ta, ngươi có hiểu không?
Vạn Nhận Vũ cười khổ gật đầu với Long Ưng và Phong Quá Đình, ngay lập tức hai người hiểu rằng, đành phải tặng hai tấm lụa còn lại cho An Thiên. Sự thẳng thắn của dân tộc du mục thật khiến người khác dở khóc dở cười.
Nói chuyện thêm một lát, bốn người tiếp tục đi đến đoạn cuối cùng.
Ba Đạt không hề nói khoác, đến tận khi mặt trời lặn xuống dãy núi chập trùng phía tây, một chiếc hồ lớn vô biên cuối cùng đã xuất hiện trước mắt.
Ba Đạt vui vẻ nói:
- Đã ngửi thấy mùi mặn của nước chưa?
Rồi y dùng roi ngựa chỉ vào dãy nũi lờ mờ đằng xa, nói:
- Đằng sau dãy núi là biển cát khả kính rồi.
Ba người bị y khơi gợi, ngay lập tức nghĩ tới đại sa mạc Taklimakan không một sự sống, nó thật trái ngược so với vùng thảo nguyên đất đai phì nhiêu, đẹp như tiên cảnh này. Những dãy núi triền miên trở thành ranh giới cho sự sống và cái chết.
Sau khi nếm trải mùi vị của sa mạc, mặc dù Long Ưng to gan lớn mật, cũng không hi vọng phải bước vào “biển chết”.
Trước khi mặt trời hoàn toàn lặn mất, cuối cùng mọi người đã tới bên hồ. Thần Hải rộng đến độ không nhìn thấy bờ bên kia, giống biển nhưng lại giống hồ, hèn gì tên gọi là biển Bồ Xương. Nước hồ trong vắt óng lánh, cỏ nước um tùm, vô số những đàn thiên nga, nhạn, vịt trời, chim bói cá vui đùa bay lượn, ánh chiều tà kết hợp thành một với mặt hồ sóng xanh, tạo thành một bức tranh đẹp tuyệt vời. Mà nhìn những dãy núi to lớn phía tây mới chúng hùng vĩ biết bao.
Ba Đạt hưng phấn nói:
- Đến rồi!
Y thúc ngựa nhanh hơn, dẫn ba người đi về phía một đống lều ở trên bờ hồ cao.
Số lều trong khu trại của Ba Đạt không thể bì với nơi đây. Nhưng mặc dù có đến hàng nghìn chiếc lều, chúng vẫn không san sát nhau, mà lưa thưa, điểm xuyết thêm cho không gian rộng lớn bên bờ hồ.
Hơn mười người mục dân trẻ tuổi đang thả cừu gần đó, thấy họ tới, bèn chạy đến, sau khi chào hỏi Ba Đạt mấy câu, liền nhập bọn cùng họ, đi về phía khu trại nơi họ muốn tới. Khi đến một đám lều quy mô lớn nhất, phía đằng sau đã kéo theo một đoàn người dài.
Ven đường liên tục có phụ nữ và trẻ em bước ra từ những căn lều gần đó, không khí vô cùng náo nhiệt, hòa bình, trên mặt mọi người đều nở nụ cười, như không để ý đến thế giới nguy hiểm bên ngoài đại thảo nguyên vậy.
Ba Đạt đột nhiên ghìm ngựa lại, thấp giọng nói:
- Mau xuống ngựa, An Thiên đến rồi.
Mọi người cùng xuống ngựa theo y. Có một người già cao lớn đi cùng với bảy, tám thanh niên bước về phía họ từ trong một chiếc lều trên ngọn đồi nhỏ.
Sau khi đã giới thiệu tên, bầu không khí được cải thiện nhiều hơn.
Ba Đạt nói:
- Các ngươi có thể thề với trời rằng mình không nói dối không?
Long Ưng ngẩng lên nhìn một vầng mây trắng bay qua nền trời, rồi chỉ vào bầu trời nói:
- Long Ưng ta không những là bạn của Hoành Không Mục Dã, còn là huynh đệ của ngài, nếu nói dối, trời sẽ trừng phạt ta.
Sắc mặt năm người cùng thay đổi.
Ba Đạt hô lên một tiếng, năm người thúc ngựa xuống sông, vượt qua bờ bên kia. Ba người lùi về phía sau, để lại chỗ trống cho họ lên bờ.
Họ vừa vượt sông, vừa nhìn về phía Tuyết Nhi, và chúi đầu bàn bạc.
Ba Đạt là người lên bờ đầu tiên, y nhanh chóng nhảy xuống ngựa, đi về phía Long Ưng.
Long Ưng đang không biết y muốn làm gì thì y đã ôm chặt lấy Long Ưng rồi nói:
- Bạn của Hoành Không Mục Dã, cũng là bạn của dân tộc Hô Luân chúng ta.
Rồi sau đó y lại ôm lấy Vạn Nhận Vũ và Phong Quá Đình. Bốn người khác cũng đến ôm họ, không phải là những cái ôm giả tạo, mà tràn đầy tình cảm, không khí ngay lập tức trở nên hòa hợp.
Mọi người ngồi quây quần trên bờ sông, Vạn Nhận Vũ lấy một cuộn tơ lụa ra tặng cho họ, quả đúng như những gì Vạn Nhận Vũ đã dự đoán, Ba Đạt và những người khác đều vui vẻ, họ chuyền tay nhau tấm lụa, vô cùng yêu thích.
Vạn Nhận Vũ nói bằng giọng Thổ Phiên:
- Vừa rồi chúng ta nói rằng chúng ta đến từ nước Đại Đường, tại sao chư vị lại cười?
Mặt trời đã lặn cuối đường chân trời, nhưng vẫn hắt lên vài tia sáng ở phía tây, đại thảo nguyên lại khoác lên mình vẻ đẹp khác.
Ba Đạt nói thẳng:
- Giờ đây đó là nơi bị nữ nhân quản thúc, đàn ông sao có thể bị nữ nhân quản chứ?
Ba người không nói gì được.
Long Ưng chuyển hướng câu chuyện:
- Tại sao ta nói rằng ta là bạn của Hoành Không Mục Dã, các ngươi lại tin một cách dễ dàng đến thế?
Bốn người còn lại ngoài Ba Đạt đều hiểu tiếng Thổ Phiên, chỉ là không dám cướp lời, bèn chú ý lắng nghe.
Ba Đạt nói:
- Bởi lẽ chúng ta biết rằng Mục Dã vương tử thực sự đã trở thành bạn của người Hán, còn về việc ai đã nói với chúng ta, thì thứ lỗi cho ta tạm thời không thể nói ra. Điều quan trọng hơn nữa là vừa rồi ngươi đã thề với trời, sắc mặt vô cùng thành thật, đến con ngươi cũng không chuyển động.
Ba người Long Ưng nhìn nhau, đều cảm thấy những lời của Ba Đạt đầy hàm ý. Đương nhiên họ không dám hỏi ép.
Phong Quá Đình nói:
- Chúng ta muốn tới Thổ Phiên, Ba Đạt ngươi có biết đi đường nào không?
Ba Đạt nói:
- Giờ vẫn không thể nói cho các ngươi được, đêm nay hãy đến trại của chúng ta nghỉ đã. Sáng mai chúng ta sẽ cưỡi ngựa một ngày đường, đến thăm một người có đến tám lều, lều của y nằm ở bên cạnh Thần Hải, chúng ta tôn kính gọi y là “An Thiên”, ý nói là người có trí tuệ lớn. Tất cả sẽ do An Thiên quyết định.
Phong Quá Đình hứng thú hỏi:
- Số lượng lều nói lên điều gì?
Ba Đạt mỉm cười:
- Tám cái lều, cho thấy có tám người vợ. Ta cũng có ba cái lều.
Rồi y thấp giọng nói:
- Ở luân phiên trong ba cái lều đó, sẽ giảm được rất nhiều phiền phức không cần thiết. Ha ha!
Đám người cùng cười, đương nhiên họ hiểu ý của y.
Tiểu tử mang tên Đán Đạt Khắc cười ám muội nhất. Có lẽ vì chưa lấy vợ, nên nghe vậy mà lòng ngứa ngáy.
Giờ đây sắc trời dần tối, đám người khởi hành đến khu trại của Ba Đạt, cuộn tơ lụa tặng cho họ được Ba Đạt trân trọng đặt lên đùi. Dưới bầu trời đầy trăng sao, mấy người đi nửa canh giờ về phía tây, mới tới một chiếc hồ nhỏ rộng khoảng hơn mười trượng. Có hơn trăm căn lều bố trí thưa nhau bên cạnh hồ.
Toàn tộc có khoảng cả trăm nam nữ, họ đổ dồn đến xem, vô cùng nhiệt tình hiếu khách.
Ban đêm, Ba Đạt đốt lửa trại mở tiệc chiêu đãi, mời họ nếm đùi dê uống trà sữa dê. Dưới bầu trời mênh mông, ngoài những tiếng dê be be vang lại từ phía đằng xa, chỉ có tiếng nổ lách tách của đống lửa.
Bình đựng trà sữa dê chuyền đến tay mọi người, vây quanh đống lửa, chầm chậm giết thời gian. Mặc dù ba người không quen với tiết tấu của họ lắm, nhưng nhập gia cũng phải tùy tục. Dần dần họ cũng thích ứng và hưởng thụ phương thức sống của họ.
Long Ưng hỏi Ba Đạt:
- Các ngươi không thích người Đột Quyết sao?
Ba Đạt nói:
- Người Đột Quyết không phải là người chính phái.
Vạn Nhận Vũ hỏi:
- Họ đã từng xâm lược các ngươi sao?
Ba Đạt nhún vai nói:
- Ta không biết, nhưng từ trước đến giờ đều vậy cả, mọi người đều biết rằng người Đột Quyết không phải người chính phái.
Phong Quá Đình nói:
- Các ngươi có biết tình hình hiện tại của người Thổ Phiên, bạn chúng ta không?
Ba Đạt lắc đầu nói:
- Điều này phải xem An Thiên có chịu nói cho các ngươi hay không. Không được sự cho phép của ngài, ta không được nói ra. An Thiên là tộc trưởng của chúng ta.
Long Ưng nói:
- Các ngươi đã từng đến sa mạc lớn phía tây chưa?
Ba Đạt kiêu ngạo nói:
- Người chưa từng đặt chân đến thần mạc, sao có thể xứng danh là nam tử hán? Phần đất phía tây nam của thảo nguyên chúng ta có một đoạn đâm sâu vào thần mạc như một mũi thương, đến tận hơn ba trăm dặm, đầu tận cùng của nó nối với sông Thả Mạt, là nơi tốt để săn bắn. Nếu đi về phía tây, rồi vòng sang phía nam, có thể đến Thả Mạt và Xúc Khương, đó là con đường nhanh nhất để tới nơi đó.
Vạn Nhận Vũ nói:
- Trong sa mạc Taklimakan có khu vực săn bắn sao?
Ba Đạt nói:
- Trước khi sông Thả Mạt vào đại thảo nguyên chúng ta, nó đổ vào hồ Thai Đặc Mã trước. Bên cạnh hồ cây cối um tùm, có rất nhiều loại động vất sinh sống, nếu các ngươi có thời gian, ta có thể dẫn các ngươi đi săn.
Ba người trầm trồ khen ngợi, nghĩ tới việc trong một sa mạc rộng lớn lại có một vùng đất thần kỳ như vậy. Đất có thể khắc nước nhưng, nhưng rõ ràng nước cũng có thể khắc đất.
Câu chuyện đến đây là kết thúc, ba người được gọi vào một căn lều trống dọn trước, nghỉ đêm đầu tiên khi tới ốc đảo.
Hôm sau, trời còn chưa sáng, Ba Đạt đã dẫn ba người lên đường, đi về phía “Thần Hải”, đến thăm lãnh tụ bộ tộc, người có tám chiếc lều.
Ba người thực sự không hiểu về điều này, bởi lẽ đã tặng quà, và mọi người đều gọi nhau là huynh đệ, tại sao vẫn không chịu nói cho họ biết những chuyện họ cần? Dường như không giống với tác phong hào phóng nhiệt tình của dân du mục lắm.
Những đồng cỏ chạy dài ven đường, rừng cây bao la. Qua trong từng đợt sóng cỏ, lờ mờ nhìn thấy những ngôi nhà, cũng thấy cả ruộng lúa mỳ, đậu Hà Lan, vừng. Tại vùng đất rực rỡ ánh nắng này, con người sống một cuộc sống an nhàn bán nông nghiệp bán du mục. Những nơi đi qua, sông ngòi dày đặc, một buổi sáng phải vượt sông đến hơn mười lần, có hai lần là ngựa bơi qua sông.
Đôi khi gặp phải những người phụ nữ mặc bộ quần áo sắc màu rực rỡ, đầu quấn khăn màu giặt quần áo bên bờ sông. Họ không hề ngượng ngùng, ngước đầu lên chào mọi người. Trong số đó có những cô gái trẻ xinh đẹp mạnh khỏe, đầy hương vị của dân tộc thảo nguyên.
Sau giờ ngọ, họ nghỉ bên một chiếc hồ nhỏ, ăn lương khô mang theo.
Nhìn về phía mặt hồ, một đàn chim đang bay gần mặt hồ tới khoảng cả nghìn con, đầy sức sống, khiến họ nhìn không chớp mắt. Nếu bắn tên bừa, nói không chừng cũng trúng.
Long Ưng nói:
- Trời ơi, không ngờ lại có nhiều loại chim khác nhau đến vậy.
Ba Đạt không thấy gì lạ, lơ đãng nói:
- Mỗi lần vào dịp xuân hè, luôn có rất nhiều đàn chim bay từ phía tây nam đến, số chim ở Thần Hải còn nhiều không đếm xuể, đến mùa đông số lượng chim mới giảm đi.
Ba người thầm tính toán thời gian, khi xuất phát từ Trường An là mùa đông, giờ đây mùa xuân đã trôi đi, mùa hạ vừa tới, bất giác, hơn bốn tháng đã qua.
Ba Đạt nói:
- Giờ là mùa nước lớn, rất nhiều nước chảy xuống từ phía nam, cũng là thời gian đẹp nhất của thảo nguyên chúng ta. Đến mùa đông, lượng nước giảm mạnh, nơi này sẽ trở thành một dáng vẻ khác.
Phong Quá Đình hỏi:
- Nước biển Thần Hải của các ngươi mặn hay ngọt?
Ba Đạt nói:
- Là mặn, ngoài hồ nước mặn trong đất liền trên cao nguyên phía nam, Thần Hải của chúng ta là vùng nội thủy lớn nhất trong vòng ngàn dặm. Chỗ chúng ta cũng sản xuất muối, có thể đổi được rất nhiều thứ. Chút nữa ta sẽ tặng các ngươi mỗi người một gói muối. Muối là thứ bắt buộc phải có khi đi trong sa mạc, khi động vật không chịu nổi cái nóng, cho chúng ăn chút muối, có thể giữ tính mạng cho chúng.
Vạn Nhận Vũ ngạc nhiên:
- Ngựa cũng chịu ăn muối sao?
Ba Đạt lộ vẻ ngạc nhiên hơn cả y, nói:
- Ngươi không biết ngựa thích ăn muối sao?
Phong Quá Đình nói:
- Đi một ngày đàng, học một sàng khôn, giờ ta đã hiểu được ý nghĩa của câu này.
Ba Đạt thấp giọng nói:
- An Thiên là người có địa vị cao nhất thảo nguyên, các ngươi tặng quà cho ngài, nhất định phải hậu hĩnh hơn tặng cho ta, nếu không người khác sẽ gièm pha ta, ngươi có hiểu không?
Vạn Nhận Vũ cười khổ gật đầu với Long Ưng và Phong Quá Đình, ngay lập tức hai người hiểu rằng, đành phải tặng hai tấm lụa còn lại cho An Thiên. Sự thẳng thắn của dân tộc du mục thật khiến người khác dở khóc dở cười.
Nói chuyện thêm một lát, bốn người tiếp tục đi đến đoạn cuối cùng.
Ba Đạt không hề nói khoác, đến tận khi mặt trời lặn xuống dãy núi chập trùng phía tây, một chiếc hồ lớn vô biên cuối cùng đã xuất hiện trước mắt.
Ba Đạt vui vẻ nói:
- Đã ngửi thấy mùi mặn của nước chưa?
Rồi y dùng roi ngựa chỉ vào dãy nũi lờ mờ đằng xa, nói:
- Đằng sau dãy núi là biển cát khả kính rồi.
Ba người bị y khơi gợi, ngay lập tức nghĩ tới đại sa mạc Taklimakan không một sự sống, nó thật trái ngược so với vùng thảo nguyên đất đai phì nhiêu, đẹp như tiên cảnh này. Những dãy núi triền miên trở thành ranh giới cho sự sống và cái chết.
Sau khi nếm trải mùi vị của sa mạc, mặc dù Long Ưng to gan lớn mật, cũng không hi vọng phải bước vào “biển chết”.
Trước khi mặt trời hoàn toàn lặn mất, cuối cùng mọi người đã tới bên hồ. Thần Hải rộng đến độ không nhìn thấy bờ bên kia, giống biển nhưng lại giống hồ, hèn gì tên gọi là biển Bồ Xương. Nước hồ trong vắt óng lánh, cỏ nước um tùm, vô số những đàn thiên nga, nhạn, vịt trời, chim bói cá vui đùa bay lượn, ánh chiều tà kết hợp thành một với mặt hồ sóng xanh, tạo thành một bức tranh đẹp tuyệt vời. Mà nhìn những dãy núi to lớn phía tây mới chúng hùng vĩ biết bao.
Ba Đạt hưng phấn nói:
- Đến rồi!
Y thúc ngựa nhanh hơn, dẫn ba người đi về phía một đống lều ở trên bờ hồ cao.
Số lều trong khu trại của Ba Đạt không thể bì với nơi đây. Nhưng mặc dù có đến hàng nghìn chiếc lều, chúng vẫn không san sát nhau, mà lưa thưa, điểm xuyết thêm cho không gian rộng lớn bên bờ hồ.
Hơn mười người mục dân trẻ tuổi đang thả cừu gần đó, thấy họ tới, bèn chạy đến, sau khi chào hỏi Ba Đạt mấy câu, liền nhập bọn cùng họ, đi về phía khu trại nơi họ muốn tới. Khi đến một đám lều quy mô lớn nhất, phía đằng sau đã kéo theo một đoàn người dài.
Ven đường liên tục có phụ nữ và trẻ em bước ra từ những căn lều gần đó, không khí vô cùng náo nhiệt, hòa bình, trên mặt mọi người đều nở nụ cười, như không để ý đến thế giới nguy hiểm bên ngoài đại thảo nguyên vậy.
Ba Đạt đột nhiên ghìm ngựa lại, thấp giọng nói:
- Mau xuống ngựa, An Thiên đến rồi.
Mọi người cùng xuống ngựa theo y. Có một người già cao lớn đi cùng với bảy, tám thanh niên bước về phía họ từ trong một chiếc lều trên ngọn đồi nhỏ.
/435
|