A Cương chưa cõng người nọ đến gần thì đã hét to: “Đinh đại ca có nhà không? Gọi Đinh đại ca ra mau!” Phía sau hắn có mấy người thấy ồn ào nên đi theo, một đoàn người kéo nhau đến trước nhà Đinh Hiếu.
Ninh Phi vội vàng mở cửa phòng mình để A Cương đặt người nọ nằm xuống giường. Lúc nhìn đến mới biết là cha của A Cương. Vì bình thường hay chẻ củi cung cấp cho các nhà nên mọi người trên núi đều gọi ông là Lão Tiêu chẻ củi.
Hiện giờ sắc mặt ông xen lẫn trắng hồng, mắt sưng tấy, môi tím tái. A Cương thở hổn hển như chết đến nơi, vẫn không quên hỏi: “Đinh đại ca đâu?”
“Không may là giờ không có nhà, cha đệ bị rắn độc cắn đúng không?”
A Cương quá lo lắng, không nói nên lời, cổ họng giật giật. Khuôn mặt cũng tím tái cả lên, hai mắt long lanh nước. Đằng sau có ông cụ trả lời thay hắn: “Trên núi có nhiều rắn độc, Lão Tiêu cũng có khả năng tự chữa một số loại nọc độc thường gặp, vậy mà hôm nay lại ra nông nỗi này, chỉ sợ rằng ông ấy đã bị Kim Tuyến đại vương cắn rồi.”
“Kim Tuyến đại vương?”
Ông cụ nói: “Kim Tuyến đại vương chỉ có ở trên núi, bình thường rất hiếm gặp. Cả con rắn nhỏ bằng ngón chân cái thôi, da đen bóng, chỉ có ba sọc vàng óng, dài mảnh ở đầu cái đuôi, vì vậy mới gọi là Kim Tuyến. Nó độc vô cùng, những con rắn thông thường hoàn toàn không phải đối thủ, vì vậy mới được xưng là đại vương.”
A Cương bước lên từng bước, kéo lấy vạt áo trước của Ninh Phi rồi khóc: “Phụ thân đã thử chữa rồi, nhưng vẫn không thể nào ngăn nọc độc phát tác. Trên núi chỉ có Nhị đương gia và Đinh đại ca chữa được, mà hôm nay Nhị đương gia xuống núi đón Đại đương gia mất rồi, chỉ còn mỗi Đinh đại ca mới cứu được tính mạng.”
Ninh Phi nhìn ông cụ đang giãy dụa không ngừng trên giường, hình như rất đau đớn, tuy nhiên cổ họng sưng tấy nên không nói được tiếng nào. Nàng nói hướng đi của Đinh Hiếu bằng giọng lo lắng.
Ông cụ nói: “Hôm nay bọn Ngưu Đại Tráng định cướp hàng của một đoàn buôn đi từ Sơn Nhạc đến Hoài An, có lẽ là ở chân núi phía tây. Ta nghe có người nói rằng chỉ cần đi theo đường núi ven sườn tây là xuống tới.”
Ninh Phi hỏi: “Đi mất bao lâu?”
“Nếu mà nhanh thì cũng mất một canh giờ. Nhưng đấy là tính theo tốc độ của đám Ngưu Đại Tráng. Còn mấy người chúng ta không biết khinh công, chỉ có thể đi từng bước, có lẽ mất hơn nửa ngày.” Ông cụ chợt thốt lên vui mừng: “A Cương, ta nhớ khinh công của cháu từng được Nhị đương gia khen, có thể đi cầu cứu rồi.”
Ninh Phi nhìn về phía A Cương, quần áo trên người hắn đều đã nhem nhuốc đầy bùn đất, hai đầu gối càng có nhiều vết thương hơn, e là vừa nãy hắn quá sốt ruột mà cõng cha lên núi nên không để ý đường đi. Tuy A Cương đang lưỡng lự, nhưng thấy tình hình phụ thân không ổn, sợ rằng sẽ qua đời khi hắn đi, mà hắn cũng không thể không làm tròn chữ hiếu của một người con, vì vậy hắn lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, hai mắt đầy nước mắt.
A Cương vẫn còn là thiếu niên, hơi thấp hơn Ninh Phi một chút. Hắn ngước mắt lên nhìn nàng, trông vô cùng đáng thương. Ninh Phi cắn răng hỏi: “Cưỡi ngựa thì mất bao lâu?”
“Hả?” Ông cụ ngạc nhiên.
“Cưỡi ngựa, không cần khinh công, có thể cưỡi ngựa xuống.”
Vẻ mặt ông cụ có chút khó xử: “Đường núi gập ghềnh, người có kỹ thuật cưỡi ngựa cực giỏi mới dám đi. Trong số chúng ta e là không thể cưỡi ngựa xuống núi được.”
Ninh Phi nói: “Cháu hỏi mất bao nhiêu thời gian, chứ không hỏi có ai biết cưỡi ngựa không.”
“Ta cũng không biết, nhưng chắc không lâu.”
Ninh Phi nắm lấy tay A Cương, hắn vẫn đang cầm chặt vạt áo nàng. Nàng nói: “Đệ ở đây chăm sóc phụ thân, ta đi tìm Đinh Hiếu thay đệ.”
Nói xong thì đi ra, đến chuồng ngựa, ở đó có con lừa đen của Đinh Hiếu và con ngựa đỏ thẫm của nàng. Đường núi phía tây đi bộ mất hơn nửa ngày, dắt cả con ngựa và lừa ra, thay phiên cưỡi thì có thể đi tới được chân núi.
Nàng đặt lên lưng hai con mỗi con một tấm thảm dày, thầm nghĩ đường núi gập ghềnh khó tránh khỏi xóc nảy. Dù kỹ thuật cưỡi ngựa của Giang Ngưng Phi có thuộc hàng đầu đi nữa thì cũng phải đề phòng trường hợp ngoài ý muốn. Nàng tìm hai đoạn vải buộc sơ qua trước ngựa đến sau chân của ngựa và lừa, tạm coi như bàn đạp để cố định hai chân.
Lúc dắt ngựa ra ngoài thì nghe thấy A Cương gọi nàng từ trong phòng: “Trên đường có nhiều trạm canh gác, nếu không được phép thì sẽ không đi qua được đâu.” Vừa nói vừa lấy tấm thẻ bài dắt trong thắt lưng ra đưa cho nàng: “Đây là thẻ bài của đệ, có thể qua bảy trạm ở trên núi, nhưng tới chân núi có hai trạm nữa, có lẽ…”
Ninh Phi hít một hơi sâu, can đảm nói: “Không đi qua được chẳng lẽ cũng không đánh lại được sao?” Vứt dây cương đó, đi vào nhà cầm lấy chiếc cung treo trên tường và túi da trâu đựng tiễn, sau đó mới lên lưng ngựa.
A Cương cùng mọi người thấy khí thế của nàng, tư thế, động tác lên ngựa thành thạo như trở bàn tay thì kinh ngạc vô cùng. Ninh Phi đã quất ngựa xuống núi từ lúc nào.
Đinh Hiếu từng nói A Cương mất mẹ từ nhỏ, tất cả đều do cha hắn nuôi nấng đến giờ. Bình thường đứa nhỏ A Cương này hay quanh quẩn ở bên Đinh Hiếu, chắc là do thiếu tình thương. Hôm nay xảy ra việc như vậy làm nó rối bời, tay chân cũng không biết nên làm gì. Ninh Phi cũng biết cha A Cương, ngày thường đều do ông mang củi từ trong núi đến cho Đinh Hiếu dùng. Cha A Cương là một người thật thà, chạy đi chạy lại khắp cả núi, trên mặt lúc nào cũng có nụ cười, làm việc đầy nhiệt tình. Người trên núi đều rất quý ông. Có khi tìm được một mầm thuốc quý nơi rừng sâu, ông cẩn thận đến mức xúc cả mảng đất lên, bỏ vào cái gùi rồi đưa cho Đinh Hiếu. Vì quan hệ thân thiết như thế nên thấy cha A Cương bị rắn độc cắn, Ninh Phi không thể không cứu.
Nàng rất gầy, cơ thể nhẹ nên nằm trên lưng ngựa cũng không nặng là bao, ngựa đỏ thẫm phi như bay. Nàng chỉ đặt một tấm thảm lên trên lưng ngựa nên dường như vẫn cảm nhận được sự chuyển động của các thớ thịt trên người nó. Ninh Phi cầm cả dây cương của con lừa đen trong tay, con lừa đi theo nàng và ngựa một cách ngoan ngoãn. Núi Nhạn Qua cũng chỉ cao hai nghìn mét, nhưng con đường sườn tây ít nhất cũng phải tới bảy tám dặm. Trên đường nàng đi, phần lớn là những bậc đá, cưỡi ngựa càng khó hơn nữa. Thể nào mà ông lão nói nếu cưỡi ngựa xuống núi thì phải có kỹ thuật cực giỏi.
Lúc Giang Ngưng Phi còn ở trong phủ Từ Xán từng được nghe qua về chuyện hành quân đánh giặc. Thời này vẫn còn coi bộ binh là chính. Mỗi lần Hoài An quốc phát động chiến tranh đều có thêm mấy ngàn chiến xa, tác dụng của nó chỉ là làm nhiễu loạn thế trận của bộ binh quân địch. Vì vậy mới gọi là “Lấy chiến xa quân mình, giết bộ binh quân địch”. Ngoài ra, cưỡi ngựa đánh trận càng hiếm gặp hơn. Từ Xán từng miêu tả tình hình chiến trường với Giang Ngưng Phi, kỵ binh chỉ cưỡi ngựa đến trước quân địch, sau đó xuống ngưa rút kiếm chém giết, không ai ở trên lưng ngựa đánh nhau cả. Suy cho cùng thì nguyên nhân là do thời này không có bộ yên ngựa, bàn đạp cho người cưỡi, vì vậy không thể cố định mình trên lưng ngựa, không thay đổi được tư thế, nếu phải điều khiển ngựa nữa thì càng thêm khó khăn.
Ninh Phi buộc một đoạn vải trước ngực ngựa, hai chân luồn vào đó, cứ vậy phi xuống núi vừa nhanh vừa vững vàng. Nhiều lính gác trên núi thấy nàng phi ngựa như bay xuống núi thì vô cùng kinh ngạc. Trên đường qua bao nhiêu trạm gác rồi, nàng không nhớ rõ, may mà tấm thẻ bài của A Cương rất có tác dụng. Có lần nàng chỉ nói tóm tắt qua là tất cả mọi người đều giục nàng mau đi nhanh về hướng tây, có nơi còn phái người dẫn nàng đến trạm kế tiếp rồi mới quay lại.
Mặt trời lên đến đỉnh rồi dần ngả về phía tay, không khí trên núi vừa ấm vừa oi bức. Ninh Phi không biết đã ra bao nhiêu mồ hôi rồi, ướt cả lớp quần áo trong cùng. Mặc kệ gió thổi vào. Nàng sắp không gắng nổi nữa, sườn núi hai bên chạy vun vút qua, thành một cảnh vô cùng hiếm gặp. Trên trán, thái dương ra rất nhiều mồ hôi, nhưng chúng không ở đó lâu được, chỉ sau một lần xóc đã rơi hết xuống.
Lúc sắp đến chân núi, cuối cùng bị người ta chặn lại.
Ninh Phi đi ra từ sau núi mới chú ý đến cách nàng khoảng mười thước đằng trước có một hàng rào trúc cao bằng nửa người. Trông giống hàng rào có ba chân thời Dân quốc. Nàng chưa đến gần đã thấy mấy nam nhân to khoẻ nhảy ra, họ mặc quần áo gọn gàng màu xanh thẫm. Tay cầm khảm đao từ thép đinh luyện, hô to: “Nữ nhân kia, định đi đâu!”
Chỗ này đường hẹp, một bên là vách núi cao. Ở thế này, mấy nam nhân to khoẻ không giết được bao nhiêu quân địch, nhưng lại có thể phát hiện ra địch rồi gửi đi cảnh báo trước khi địch phá trạm gác. Ninh Phi nhìn trái nhìn phải, thấy ở góc núi gần đó còn có một hang núi điêu tàn, chắc là có những huynh đệ khác của sơn trại đang ở đó. Giờ mặt trời đã lên cao, có lẽ họ đang ngủ bù.
Nàng nhanh chóng ghìm cương lại, hai chân kẹp chặt bụng ngựa. Con ngựa đỏ thẫm dừng bước. Một nam nhân mắt to, lông mày rậm rạp bước lên trước, đứng cạnh, giữ lấy dây cương rồi hỏi: “Vị muội muội đây định đi đâu?”
Ninh Phi đáp: “Xin hỏi vị đại ca rằng sáng sớm nay có một tốp người nào đi từ trên núi xuống, phải đi phía tây để “làm chuyện làm ăn” không?”
Nam nhân đó trả lời: “Có.”
“Đinh Hiếu cũng có trong số đó?”
“Đinh tiên sinh cũng đi.” Nam nhân đó nói: “Ngươi tìm Đinh tiên sinh có việc gì sao?”
Ninh Phi vui mừng, cả đoạn đường trước không có ai dẫn đường khiến nàng sợ mình đi lạc, cuối cùng thì bây giờ đã có thể thở phào nhẹ nhõm được rồi. Nàng lại sợ cha A Cương không cầm cự nổi nữa, liền tóm tắt lại chuyện trong hai ba câu. Nam nhân nọ bán tín bán nghi: “Ta từng gặp cha A Cương một hai lần, nhưng dưới núi không như trên núi, đây là nơi quan trọng để công kích lên núi, không được phép tự tiện ra vào. Ngươi có giấy tờ, lệnh bài cho đi qua không?”
Ninh Phi giơ ra thẻ bài của A Cương, giọng thấp thỏm: “Chỉ có thẻ bài A Cương cho mượn thôi.”
Sau khi hắn lật đi lật lại tấm thẻ bài thì đưa lại cho Ninh Phi: “Thẻ bài là thật, A Cương là người bên cạnh Nhị đương gia, nhưng dù ngày thường hắn có tự mình đến đây ra vào cũng phải mang giấy tờ làm chứng, chứ nói gì là ngươi. A Cương có ở đây chăng nữa thì không có giấy tờ vẫn không thể xuống núi.”
Thấy nói làm sao cũng không được, Ninh Phi sốt ruột, lòng nóng như lửa đốt. Nàng không phải kiểu con gái thích cố ý gây sự, cũng không cho rằng mọi việc trên thế giới đều lấy nàng làm trung tâm, xoay quanh nàng. Trên núi và dưới núi áp dụng hai tốp canh gác cẩn mật theo quy củ để đề phòng kẻ gian. Những người ở các trạm gác kiên quyết như thế không có gì là sai cả.
Nhưng cha A Cương thì sao? Lẽ nào đến đây rồi mà vẫn phải quay người về?
Ninh Phi ngẩng đầu nhìn trời, có lẽ mới qua một canh giờ, cũng có lẽ đã qua gần hai canh giờ rồi. Lòng nàng chợt dâng lên một cảm giác bất lực. Liều mạng đến bây giờ còn có tác dụng gì nữa, cứ coi như Đinh Hiếu đi về, cha A Cương có còn sống không cũng là một vấn đề, mà cho dù bây giờ còn sống thì nam nhân canh gác trước mặt cứ một mực đòi giấy thông hành.
Ninh Phi dần dần ổn định hơi thở, từ trên núi xuống đã đổi ngựa hai lần, nàng đã mệt lắm rồi. Mà mệt thì sao chứ? Nàng đã từng mệt hơn bây giờ nhiều.
Nàng lắc đầu: “Vậy ta không đi nữa, cha A Cương chết thì mặc kệ.” Nàng thở dài một hơi, thì thầm vài câu về tình cảnh nguy kịch của cha A Cương, lại thở dài: “Có trời chứng giám.”
Mấy nam nhân canh gác nhất thời buồn bã không nói nên lời.
Ninh Phi nói: “Hay là ai xuống núi báo cho Đinh Hiếu việc này đi, bảo hắn mau chóng quay về.”
Trên mặt nam nhân nọ đầy vẻ khó xử: “Chúng ta phải luân phiên trực, không thể đi khỏi nơi canh gác.”
Ninh Phi cười: “Kỷ luật trong trại quả là rất nghiêm.”
Thật ra nàng than thở như thế cũng không có ý để bọn họ đi. Mấy nam nhân kia có to khoẻ hơn nữa thì tốc độ cũng không thể so với ngựa được.
Nàng nói xong thì cưỡi lên con lừa đen của Đinh Hiếu, kéo dây cương quay đầu lại như muốn đi về.
Nam nhân nói chuyện với nàng có vẻ lưỡng lự, hắn nói: “Muội muội cứ yên tâm quay về đi, ta sẽ đi xuống núi cho.”
Ninh Phi kéo cương cho đầu con lừa quay lại: “Tốc độ của huynh nhanh bằng ngựa sao?”
“Tuy đường rất xa nhưng Lê Thủ Tam này tình nguyện dốc sức thử một phen.”
Ninh Phi ngẩng đầu nhìn bầu trời, bỗng nhiên hỏi hắn: “Trạm này tên là gì? Trạm tiếp theo tên gì?”
“Nơi này là Tùng Thụ Môn, đi thêm nửa dặm nữa sẽ tới Hạ Thuỷ Thạt.”
Ninh Phi cười nói: “Vậy, xin đa tạ.”
Nàng còn chưa nói xong thì con lừa đen chợt tung bốn vó chạy như bay, ra sức chạy về phía trước.
Lê Thủ Tam thấy vậy thì kinh hoàng, trong giây phút đó vội giơ tay ra định tóm lấy Ninh Phi, ai ngờ nàng nằm rạp cả người xuống, áp sát vào một bên hông con lừa, phi qua người hắn trong nháy mắt.
Ninh Phi hét to: “Đỏ Thẫm đi mau!” Ngựa đỏ thẫm không có người cưỡi, bắt đầu chạy nhanh theo sau nàng.
Tuy trước trạm có ba hàng rào trúc cao bằng nửa người che chắn, nhưng tác dụng chủ yếu là để phòng tấn công dưới núi lên. Con lừa lông đen cũng coi như hiếm có trong loài lừa, đến trước ba hàng trúc thì gắng sức nhảy qua. Còn con ngựa không phải chở ai nên chạy theo rất nhanh, tốc độ kinh hoàng, chẳng bao lâu mà đã như hình với bóng với Ninh Phi.
Lúc đầu mấy nam nhân nọ còn thấy áy náy trong lòng nên không phản ứng kịp trước sự chạy trốn của Ninh Phi. Bọn họ có ai ngờ rằng những câu cuối cùng trong cuộc đối thoại, từng câu từng chữ đều nhằm mục đích phân tán sự chú ý. Đến khi nàng xông qua thành công rồi, mọi người trơ mắt nhìn nhau, chợt có người hô lên: “Nàng ta chạy qua rồi!”, lúc đó mới lấy lại tinh thần, mới hiểu chuyện gì vừa diễn ra. Tay chân loạng choạng, khua loạn cái chiêng đồng nhằm báo động, thế là vang lên một hồi loảng xoảng.
Đây là trạm thứ nhất dưới núi. Vì có thẻ bài của A Cương nên mới làm bọn họ mất cảnh giác, cũng coi như phi qua thuận lợi, còn trạm nữa nhất định không dễ dàng gì mà qua được.
Ninh Phi không biết nàng làm thế sẽ dẫn tới hậu quả gì. Vốn dĩ thân phận nàng đã đủ xấu hổ lắm rồi, lại còn làm loạn lên thế này nữa, chắc chắn sẽ càng đáng xấu hổ hơn. Nghe nói kỷ luật trên núi rất nghiêm, chắc chắn nàng sẽ bị phạt rất nặng, cũng có thể sẽ bị quẳng xuống núi, cũng có thể bị dìm xuống sông. Cha A Cương có cứu được không còn chưa biết, còn bản thân nàng chắc chắn là không thể cứu nổi rồi. Dù ở thế giới nào thì Ninh Phi đều tự mình rước lấy phiền phức cả. Nàng thừa nhận, cuộc sống như vậy đầy rẫy hiểm nguy, bất cứ lúc nào cũng có thể đi vào đường cùng, cũng có thể bị số đông đánh giá là một cuộc đời bất hạnh, nhưng nàng thấy, nếu không làm thế thì không còn là nàng nữa.
Sẽ phải chịu hình phạt như thế nào thì lo sau, cùng lắm thì sau khi báo tin cho Đinh Hiếu nàng sẽ đi luôn, không để thời gian cho sơn trại xét phạt. Nếu cứ không làm gì cả, trơ mắt nhìn người mình quen biết chết đi thì sau này chắc chắn nàng cũng không thể vui vẻ.
Hồ Hãn là người đứng đầu của trạm gác Hạ Thuỷ Thạt. Hạ Thuỷ Thạt ngay gần đồng bằng. Vì nơi chân núi tiếp giáp với đồng bằng trông giống hình một con rái cá sắp lặn xuống nước nên mới có tên là Hạ Thuỷ Thạt[1].Trên Hắc Kỳ trại, mỗi một ngọn núi đều có người đứng đầu ngọn núi đó, trên dưới núi sẽ phân ra các trưởng trạm. Trạm gác giữa núi và đồng bằng luôn là trạm quan trọng nhất. Mỗi năm, trưởng trạm của trạm gác ở ngay chân núi này phải thay một lần để đề phòng gián điệp trà trộn nhằm cấu kết bên ngoài.
[1] Rái cá dưới nước
Hồ Hãn nhận chức trưởng trạm Hạ Thuỷ Thạt này đã được gần một năm, sắp tới lúc chuyển giao nhiệm vụ nên hắn càng cảnh giác, cẩn thận hơn nhiều, hắn không muốn xảy ra bất kỳ vấn đề gì. Hồ Hãn nghe tiếng chiêng đồng của trạm gác Tùng Thụ Môn thì lập tức đi ra từ chỗ nghỉ, quan sát các huynh đệ đang đứng trước trạm, sẵn sàng đón địch.
Tùng Thụ Môn đến đây khoảng hơn nửa dặm, tiếng chiêng xuyên qua hàng ngàn lớp lá cây trùng điệp, truyền từ trên xuống dưới, còn tiếng người thì chỉ truyền đến không rõ ràng. Không lâu sau, cuối cùng cũng thấy trên con đường núi có một nữ tử phi như bay xuống, phía sau còn có một con ngựa đỏ theo sát.
Các huynh đệ đều hô: “Dừng bước!”
Ninh Phi giơ thẻ bài của A Cương lên cao, trông như truyền thánh chỉ, hô to: “Tùng Thụ Môn báo: Tùng Thụ Môn có gián điệp, trên núi đang rối ren, ta phải xuống núi thông báo cho Nhị đương gia!”
Mọi người còn đang sửng sốt thì Ninh Phi đã vọt qua.
Hồ Hãn đột nhiên biết “đã bị lừa”, vội ra lệnh: “Phóng dây thừng[2]! Phóng ngay!”
[2] Loại dây thừng ở đầu buộc đá, ném ra sẽ ngoắc vào chân ngựa khiến ngựa ngã.
Từng đoạn dây thừng phóng liên tiếp từ dưới mặt đất lên, bật căng ra trong không trung. Đất cát, bụi bặm trên dây không ngừng rơi xuống, dưới ánh mặt trời trông giống như lớp phấn óng ánh đang tản ra.
Nếu phóng sớm hơn một giây thì Ninh Phi đã có kết cục là ngã khỏi ngựa.
Thế nhưng, muộn thì cũng muộn mất rồi.
Ninh Phi vội vàng mở cửa phòng mình để A Cương đặt người nọ nằm xuống giường. Lúc nhìn đến mới biết là cha của A Cương. Vì bình thường hay chẻ củi cung cấp cho các nhà nên mọi người trên núi đều gọi ông là Lão Tiêu chẻ củi.
Hiện giờ sắc mặt ông xen lẫn trắng hồng, mắt sưng tấy, môi tím tái. A Cương thở hổn hển như chết đến nơi, vẫn không quên hỏi: “Đinh đại ca đâu?”
“Không may là giờ không có nhà, cha đệ bị rắn độc cắn đúng không?”
A Cương quá lo lắng, không nói nên lời, cổ họng giật giật. Khuôn mặt cũng tím tái cả lên, hai mắt long lanh nước. Đằng sau có ông cụ trả lời thay hắn: “Trên núi có nhiều rắn độc, Lão Tiêu cũng có khả năng tự chữa một số loại nọc độc thường gặp, vậy mà hôm nay lại ra nông nỗi này, chỉ sợ rằng ông ấy đã bị Kim Tuyến đại vương cắn rồi.”
“Kim Tuyến đại vương?”
Ông cụ nói: “Kim Tuyến đại vương chỉ có ở trên núi, bình thường rất hiếm gặp. Cả con rắn nhỏ bằng ngón chân cái thôi, da đen bóng, chỉ có ba sọc vàng óng, dài mảnh ở đầu cái đuôi, vì vậy mới gọi là Kim Tuyến. Nó độc vô cùng, những con rắn thông thường hoàn toàn không phải đối thủ, vì vậy mới được xưng là đại vương.”
A Cương bước lên từng bước, kéo lấy vạt áo trước của Ninh Phi rồi khóc: “Phụ thân đã thử chữa rồi, nhưng vẫn không thể nào ngăn nọc độc phát tác. Trên núi chỉ có Nhị đương gia và Đinh đại ca chữa được, mà hôm nay Nhị đương gia xuống núi đón Đại đương gia mất rồi, chỉ còn mỗi Đinh đại ca mới cứu được tính mạng.”
Ninh Phi nhìn ông cụ đang giãy dụa không ngừng trên giường, hình như rất đau đớn, tuy nhiên cổ họng sưng tấy nên không nói được tiếng nào. Nàng nói hướng đi của Đinh Hiếu bằng giọng lo lắng.
Ông cụ nói: “Hôm nay bọn Ngưu Đại Tráng định cướp hàng của một đoàn buôn đi từ Sơn Nhạc đến Hoài An, có lẽ là ở chân núi phía tây. Ta nghe có người nói rằng chỉ cần đi theo đường núi ven sườn tây là xuống tới.”
Ninh Phi hỏi: “Đi mất bao lâu?”
“Nếu mà nhanh thì cũng mất một canh giờ. Nhưng đấy là tính theo tốc độ của đám Ngưu Đại Tráng. Còn mấy người chúng ta không biết khinh công, chỉ có thể đi từng bước, có lẽ mất hơn nửa ngày.” Ông cụ chợt thốt lên vui mừng: “A Cương, ta nhớ khinh công của cháu từng được Nhị đương gia khen, có thể đi cầu cứu rồi.”
Ninh Phi nhìn về phía A Cương, quần áo trên người hắn đều đã nhem nhuốc đầy bùn đất, hai đầu gối càng có nhiều vết thương hơn, e là vừa nãy hắn quá sốt ruột mà cõng cha lên núi nên không để ý đường đi. Tuy A Cương đang lưỡng lự, nhưng thấy tình hình phụ thân không ổn, sợ rằng sẽ qua đời khi hắn đi, mà hắn cũng không thể không làm tròn chữ hiếu của một người con, vì vậy hắn lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, hai mắt đầy nước mắt.
A Cương vẫn còn là thiếu niên, hơi thấp hơn Ninh Phi một chút. Hắn ngước mắt lên nhìn nàng, trông vô cùng đáng thương. Ninh Phi cắn răng hỏi: “Cưỡi ngựa thì mất bao lâu?”
“Hả?” Ông cụ ngạc nhiên.
“Cưỡi ngựa, không cần khinh công, có thể cưỡi ngựa xuống.”
Vẻ mặt ông cụ có chút khó xử: “Đường núi gập ghềnh, người có kỹ thuật cưỡi ngựa cực giỏi mới dám đi. Trong số chúng ta e là không thể cưỡi ngựa xuống núi được.”
Ninh Phi nói: “Cháu hỏi mất bao nhiêu thời gian, chứ không hỏi có ai biết cưỡi ngựa không.”
“Ta cũng không biết, nhưng chắc không lâu.”
Ninh Phi nắm lấy tay A Cương, hắn vẫn đang cầm chặt vạt áo nàng. Nàng nói: “Đệ ở đây chăm sóc phụ thân, ta đi tìm Đinh Hiếu thay đệ.”
Nói xong thì đi ra, đến chuồng ngựa, ở đó có con lừa đen của Đinh Hiếu và con ngựa đỏ thẫm của nàng. Đường núi phía tây đi bộ mất hơn nửa ngày, dắt cả con ngựa và lừa ra, thay phiên cưỡi thì có thể đi tới được chân núi.
Nàng đặt lên lưng hai con mỗi con một tấm thảm dày, thầm nghĩ đường núi gập ghềnh khó tránh khỏi xóc nảy. Dù kỹ thuật cưỡi ngựa của Giang Ngưng Phi có thuộc hàng đầu đi nữa thì cũng phải đề phòng trường hợp ngoài ý muốn. Nàng tìm hai đoạn vải buộc sơ qua trước ngựa đến sau chân của ngựa và lừa, tạm coi như bàn đạp để cố định hai chân.
Lúc dắt ngựa ra ngoài thì nghe thấy A Cương gọi nàng từ trong phòng: “Trên đường có nhiều trạm canh gác, nếu không được phép thì sẽ không đi qua được đâu.” Vừa nói vừa lấy tấm thẻ bài dắt trong thắt lưng ra đưa cho nàng: “Đây là thẻ bài của đệ, có thể qua bảy trạm ở trên núi, nhưng tới chân núi có hai trạm nữa, có lẽ…”
Ninh Phi hít một hơi sâu, can đảm nói: “Không đi qua được chẳng lẽ cũng không đánh lại được sao?” Vứt dây cương đó, đi vào nhà cầm lấy chiếc cung treo trên tường và túi da trâu đựng tiễn, sau đó mới lên lưng ngựa.
A Cương cùng mọi người thấy khí thế của nàng, tư thế, động tác lên ngựa thành thạo như trở bàn tay thì kinh ngạc vô cùng. Ninh Phi đã quất ngựa xuống núi từ lúc nào.
Đinh Hiếu từng nói A Cương mất mẹ từ nhỏ, tất cả đều do cha hắn nuôi nấng đến giờ. Bình thường đứa nhỏ A Cương này hay quanh quẩn ở bên Đinh Hiếu, chắc là do thiếu tình thương. Hôm nay xảy ra việc như vậy làm nó rối bời, tay chân cũng không biết nên làm gì. Ninh Phi cũng biết cha A Cương, ngày thường đều do ông mang củi từ trong núi đến cho Đinh Hiếu dùng. Cha A Cương là một người thật thà, chạy đi chạy lại khắp cả núi, trên mặt lúc nào cũng có nụ cười, làm việc đầy nhiệt tình. Người trên núi đều rất quý ông. Có khi tìm được một mầm thuốc quý nơi rừng sâu, ông cẩn thận đến mức xúc cả mảng đất lên, bỏ vào cái gùi rồi đưa cho Đinh Hiếu. Vì quan hệ thân thiết như thế nên thấy cha A Cương bị rắn độc cắn, Ninh Phi không thể không cứu.
Nàng rất gầy, cơ thể nhẹ nên nằm trên lưng ngựa cũng không nặng là bao, ngựa đỏ thẫm phi như bay. Nàng chỉ đặt một tấm thảm lên trên lưng ngựa nên dường như vẫn cảm nhận được sự chuyển động của các thớ thịt trên người nó. Ninh Phi cầm cả dây cương của con lừa đen trong tay, con lừa đi theo nàng và ngựa một cách ngoan ngoãn. Núi Nhạn Qua cũng chỉ cao hai nghìn mét, nhưng con đường sườn tây ít nhất cũng phải tới bảy tám dặm. Trên đường nàng đi, phần lớn là những bậc đá, cưỡi ngựa càng khó hơn nữa. Thể nào mà ông lão nói nếu cưỡi ngựa xuống núi thì phải có kỹ thuật cực giỏi.
Lúc Giang Ngưng Phi còn ở trong phủ Từ Xán từng được nghe qua về chuyện hành quân đánh giặc. Thời này vẫn còn coi bộ binh là chính. Mỗi lần Hoài An quốc phát động chiến tranh đều có thêm mấy ngàn chiến xa, tác dụng của nó chỉ là làm nhiễu loạn thế trận của bộ binh quân địch. Vì vậy mới gọi là “Lấy chiến xa quân mình, giết bộ binh quân địch”. Ngoài ra, cưỡi ngựa đánh trận càng hiếm gặp hơn. Từ Xán từng miêu tả tình hình chiến trường với Giang Ngưng Phi, kỵ binh chỉ cưỡi ngựa đến trước quân địch, sau đó xuống ngưa rút kiếm chém giết, không ai ở trên lưng ngựa đánh nhau cả. Suy cho cùng thì nguyên nhân là do thời này không có bộ yên ngựa, bàn đạp cho người cưỡi, vì vậy không thể cố định mình trên lưng ngựa, không thay đổi được tư thế, nếu phải điều khiển ngựa nữa thì càng thêm khó khăn.
Ninh Phi buộc một đoạn vải trước ngực ngựa, hai chân luồn vào đó, cứ vậy phi xuống núi vừa nhanh vừa vững vàng. Nhiều lính gác trên núi thấy nàng phi ngựa như bay xuống núi thì vô cùng kinh ngạc. Trên đường qua bao nhiêu trạm gác rồi, nàng không nhớ rõ, may mà tấm thẻ bài của A Cương rất có tác dụng. Có lần nàng chỉ nói tóm tắt qua là tất cả mọi người đều giục nàng mau đi nhanh về hướng tây, có nơi còn phái người dẫn nàng đến trạm kế tiếp rồi mới quay lại.
Mặt trời lên đến đỉnh rồi dần ngả về phía tay, không khí trên núi vừa ấm vừa oi bức. Ninh Phi không biết đã ra bao nhiêu mồ hôi rồi, ướt cả lớp quần áo trong cùng. Mặc kệ gió thổi vào. Nàng sắp không gắng nổi nữa, sườn núi hai bên chạy vun vút qua, thành một cảnh vô cùng hiếm gặp. Trên trán, thái dương ra rất nhiều mồ hôi, nhưng chúng không ở đó lâu được, chỉ sau một lần xóc đã rơi hết xuống.
Lúc sắp đến chân núi, cuối cùng bị người ta chặn lại.
Ninh Phi đi ra từ sau núi mới chú ý đến cách nàng khoảng mười thước đằng trước có một hàng rào trúc cao bằng nửa người. Trông giống hàng rào có ba chân thời Dân quốc. Nàng chưa đến gần đã thấy mấy nam nhân to khoẻ nhảy ra, họ mặc quần áo gọn gàng màu xanh thẫm. Tay cầm khảm đao từ thép đinh luyện, hô to: “Nữ nhân kia, định đi đâu!”
Chỗ này đường hẹp, một bên là vách núi cao. Ở thế này, mấy nam nhân to khoẻ không giết được bao nhiêu quân địch, nhưng lại có thể phát hiện ra địch rồi gửi đi cảnh báo trước khi địch phá trạm gác. Ninh Phi nhìn trái nhìn phải, thấy ở góc núi gần đó còn có một hang núi điêu tàn, chắc là có những huynh đệ khác của sơn trại đang ở đó. Giờ mặt trời đã lên cao, có lẽ họ đang ngủ bù.
Nàng nhanh chóng ghìm cương lại, hai chân kẹp chặt bụng ngựa. Con ngựa đỏ thẫm dừng bước. Một nam nhân mắt to, lông mày rậm rạp bước lên trước, đứng cạnh, giữ lấy dây cương rồi hỏi: “Vị muội muội đây định đi đâu?”
Ninh Phi đáp: “Xin hỏi vị đại ca rằng sáng sớm nay có một tốp người nào đi từ trên núi xuống, phải đi phía tây để “làm chuyện làm ăn” không?”
Nam nhân đó trả lời: “Có.”
“Đinh Hiếu cũng có trong số đó?”
“Đinh tiên sinh cũng đi.” Nam nhân đó nói: “Ngươi tìm Đinh tiên sinh có việc gì sao?”
Ninh Phi vui mừng, cả đoạn đường trước không có ai dẫn đường khiến nàng sợ mình đi lạc, cuối cùng thì bây giờ đã có thể thở phào nhẹ nhõm được rồi. Nàng lại sợ cha A Cương không cầm cự nổi nữa, liền tóm tắt lại chuyện trong hai ba câu. Nam nhân nọ bán tín bán nghi: “Ta từng gặp cha A Cương một hai lần, nhưng dưới núi không như trên núi, đây là nơi quan trọng để công kích lên núi, không được phép tự tiện ra vào. Ngươi có giấy tờ, lệnh bài cho đi qua không?”
Ninh Phi giơ ra thẻ bài của A Cương, giọng thấp thỏm: “Chỉ có thẻ bài A Cương cho mượn thôi.”
Sau khi hắn lật đi lật lại tấm thẻ bài thì đưa lại cho Ninh Phi: “Thẻ bài là thật, A Cương là người bên cạnh Nhị đương gia, nhưng dù ngày thường hắn có tự mình đến đây ra vào cũng phải mang giấy tờ làm chứng, chứ nói gì là ngươi. A Cương có ở đây chăng nữa thì không có giấy tờ vẫn không thể xuống núi.”
Thấy nói làm sao cũng không được, Ninh Phi sốt ruột, lòng nóng như lửa đốt. Nàng không phải kiểu con gái thích cố ý gây sự, cũng không cho rằng mọi việc trên thế giới đều lấy nàng làm trung tâm, xoay quanh nàng. Trên núi và dưới núi áp dụng hai tốp canh gác cẩn mật theo quy củ để đề phòng kẻ gian. Những người ở các trạm gác kiên quyết như thế không có gì là sai cả.
Nhưng cha A Cương thì sao? Lẽ nào đến đây rồi mà vẫn phải quay người về?
Ninh Phi ngẩng đầu nhìn trời, có lẽ mới qua một canh giờ, cũng có lẽ đã qua gần hai canh giờ rồi. Lòng nàng chợt dâng lên một cảm giác bất lực. Liều mạng đến bây giờ còn có tác dụng gì nữa, cứ coi như Đinh Hiếu đi về, cha A Cương có còn sống không cũng là một vấn đề, mà cho dù bây giờ còn sống thì nam nhân canh gác trước mặt cứ một mực đòi giấy thông hành.
Ninh Phi dần dần ổn định hơi thở, từ trên núi xuống đã đổi ngựa hai lần, nàng đã mệt lắm rồi. Mà mệt thì sao chứ? Nàng đã từng mệt hơn bây giờ nhiều.
Nàng lắc đầu: “Vậy ta không đi nữa, cha A Cương chết thì mặc kệ.” Nàng thở dài một hơi, thì thầm vài câu về tình cảnh nguy kịch của cha A Cương, lại thở dài: “Có trời chứng giám.”
Mấy nam nhân canh gác nhất thời buồn bã không nói nên lời.
Ninh Phi nói: “Hay là ai xuống núi báo cho Đinh Hiếu việc này đi, bảo hắn mau chóng quay về.”
Trên mặt nam nhân nọ đầy vẻ khó xử: “Chúng ta phải luân phiên trực, không thể đi khỏi nơi canh gác.”
Ninh Phi cười: “Kỷ luật trong trại quả là rất nghiêm.”
Thật ra nàng than thở như thế cũng không có ý để bọn họ đi. Mấy nam nhân kia có to khoẻ hơn nữa thì tốc độ cũng không thể so với ngựa được.
Nàng nói xong thì cưỡi lên con lừa đen của Đinh Hiếu, kéo dây cương quay đầu lại như muốn đi về.
Nam nhân nói chuyện với nàng có vẻ lưỡng lự, hắn nói: “Muội muội cứ yên tâm quay về đi, ta sẽ đi xuống núi cho.”
Ninh Phi kéo cương cho đầu con lừa quay lại: “Tốc độ của huynh nhanh bằng ngựa sao?”
“Tuy đường rất xa nhưng Lê Thủ Tam này tình nguyện dốc sức thử một phen.”
Ninh Phi ngẩng đầu nhìn bầu trời, bỗng nhiên hỏi hắn: “Trạm này tên là gì? Trạm tiếp theo tên gì?”
“Nơi này là Tùng Thụ Môn, đi thêm nửa dặm nữa sẽ tới Hạ Thuỷ Thạt.”
Ninh Phi cười nói: “Vậy, xin đa tạ.”
Nàng còn chưa nói xong thì con lừa đen chợt tung bốn vó chạy như bay, ra sức chạy về phía trước.
Lê Thủ Tam thấy vậy thì kinh hoàng, trong giây phút đó vội giơ tay ra định tóm lấy Ninh Phi, ai ngờ nàng nằm rạp cả người xuống, áp sát vào một bên hông con lừa, phi qua người hắn trong nháy mắt.
Ninh Phi hét to: “Đỏ Thẫm đi mau!” Ngựa đỏ thẫm không có người cưỡi, bắt đầu chạy nhanh theo sau nàng.
Tuy trước trạm có ba hàng rào trúc cao bằng nửa người che chắn, nhưng tác dụng chủ yếu là để phòng tấn công dưới núi lên. Con lừa lông đen cũng coi như hiếm có trong loài lừa, đến trước ba hàng trúc thì gắng sức nhảy qua. Còn con ngựa không phải chở ai nên chạy theo rất nhanh, tốc độ kinh hoàng, chẳng bao lâu mà đã như hình với bóng với Ninh Phi.
Lúc đầu mấy nam nhân nọ còn thấy áy náy trong lòng nên không phản ứng kịp trước sự chạy trốn của Ninh Phi. Bọn họ có ai ngờ rằng những câu cuối cùng trong cuộc đối thoại, từng câu từng chữ đều nhằm mục đích phân tán sự chú ý. Đến khi nàng xông qua thành công rồi, mọi người trơ mắt nhìn nhau, chợt có người hô lên: “Nàng ta chạy qua rồi!”, lúc đó mới lấy lại tinh thần, mới hiểu chuyện gì vừa diễn ra. Tay chân loạng choạng, khua loạn cái chiêng đồng nhằm báo động, thế là vang lên một hồi loảng xoảng.
Đây là trạm thứ nhất dưới núi. Vì có thẻ bài của A Cương nên mới làm bọn họ mất cảnh giác, cũng coi như phi qua thuận lợi, còn trạm nữa nhất định không dễ dàng gì mà qua được.
Ninh Phi không biết nàng làm thế sẽ dẫn tới hậu quả gì. Vốn dĩ thân phận nàng đã đủ xấu hổ lắm rồi, lại còn làm loạn lên thế này nữa, chắc chắn sẽ càng đáng xấu hổ hơn. Nghe nói kỷ luật trên núi rất nghiêm, chắc chắn nàng sẽ bị phạt rất nặng, cũng có thể sẽ bị quẳng xuống núi, cũng có thể bị dìm xuống sông. Cha A Cương có cứu được không còn chưa biết, còn bản thân nàng chắc chắn là không thể cứu nổi rồi. Dù ở thế giới nào thì Ninh Phi đều tự mình rước lấy phiền phức cả. Nàng thừa nhận, cuộc sống như vậy đầy rẫy hiểm nguy, bất cứ lúc nào cũng có thể đi vào đường cùng, cũng có thể bị số đông đánh giá là một cuộc đời bất hạnh, nhưng nàng thấy, nếu không làm thế thì không còn là nàng nữa.
Sẽ phải chịu hình phạt như thế nào thì lo sau, cùng lắm thì sau khi báo tin cho Đinh Hiếu nàng sẽ đi luôn, không để thời gian cho sơn trại xét phạt. Nếu cứ không làm gì cả, trơ mắt nhìn người mình quen biết chết đi thì sau này chắc chắn nàng cũng không thể vui vẻ.
Hồ Hãn là người đứng đầu của trạm gác Hạ Thuỷ Thạt. Hạ Thuỷ Thạt ngay gần đồng bằng. Vì nơi chân núi tiếp giáp với đồng bằng trông giống hình một con rái cá sắp lặn xuống nước nên mới có tên là Hạ Thuỷ Thạt[1].Trên Hắc Kỳ trại, mỗi một ngọn núi đều có người đứng đầu ngọn núi đó, trên dưới núi sẽ phân ra các trưởng trạm. Trạm gác giữa núi và đồng bằng luôn là trạm quan trọng nhất. Mỗi năm, trưởng trạm của trạm gác ở ngay chân núi này phải thay một lần để đề phòng gián điệp trà trộn nhằm cấu kết bên ngoài.
[1] Rái cá dưới nước
Hồ Hãn nhận chức trưởng trạm Hạ Thuỷ Thạt này đã được gần một năm, sắp tới lúc chuyển giao nhiệm vụ nên hắn càng cảnh giác, cẩn thận hơn nhiều, hắn không muốn xảy ra bất kỳ vấn đề gì. Hồ Hãn nghe tiếng chiêng đồng của trạm gác Tùng Thụ Môn thì lập tức đi ra từ chỗ nghỉ, quan sát các huynh đệ đang đứng trước trạm, sẵn sàng đón địch.
Tùng Thụ Môn đến đây khoảng hơn nửa dặm, tiếng chiêng xuyên qua hàng ngàn lớp lá cây trùng điệp, truyền từ trên xuống dưới, còn tiếng người thì chỉ truyền đến không rõ ràng. Không lâu sau, cuối cùng cũng thấy trên con đường núi có một nữ tử phi như bay xuống, phía sau còn có một con ngựa đỏ theo sát.
Các huynh đệ đều hô: “Dừng bước!”
Ninh Phi giơ thẻ bài của A Cương lên cao, trông như truyền thánh chỉ, hô to: “Tùng Thụ Môn báo: Tùng Thụ Môn có gián điệp, trên núi đang rối ren, ta phải xuống núi thông báo cho Nhị đương gia!”
Mọi người còn đang sửng sốt thì Ninh Phi đã vọt qua.
Hồ Hãn đột nhiên biết “đã bị lừa”, vội ra lệnh: “Phóng dây thừng[2]! Phóng ngay!”
[2] Loại dây thừng ở đầu buộc đá, ném ra sẽ ngoắc vào chân ngựa khiến ngựa ngã.
Từng đoạn dây thừng phóng liên tiếp từ dưới mặt đất lên, bật căng ra trong không trung. Đất cát, bụi bặm trên dây không ngừng rơi xuống, dưới ánh mặt trời trông giống như lớp phấn óng ánh đang tản ra.
Nếu phóng sớm hơn một giây thì Ninh Phi đã có kết cục là ngã khỏi ngựa.
Thế nhưng, muộn thì cũng muộn mất rồi.
/53
|