Mọi người đều sợ ngây ra.
Một lúc lâu, quan truyền lệnh mới nhớ tới sứ mệnh của mình chuyến này, giọng khô khốc mở miệng: “Đàm tướng quân, Hầu gia…”
“Ngươi câm miệng!” Đàm Hồng Phi chợt quát một tiếng, hắn trừng đôi mắt trâu như chuông đồng, chuyển hướng sang nam tử quỳ trong chính đường, nhất thời cổ hơi khô, toàn thân trên dưới mỗi một sợi lông đều như run rẩy, “Ngươi nói cái gì? Nói rõ ràng hơn xem – trung lương nào?”
Nam tử trung niên kia thẳng lưng lên, sắc mặt vàng bủng như nghệ đáng thương, trên mặt lại có vẻ quyết tuyệt không nói nên lời: “Hai mươi năm trước, Bắc man gặp thiên tai, Lang Vương dã tâm rành rành, dẫn binh xâm phạm, lão An Định hầu lấy oai của Huyền Thiết doanh, bình định Bắc cương, khiến quần lang cúi đầu, đem tuế cống và tỷ muội thần nữ hiến cho triều ta, Nguyên Hòa tiên đế nạp trưởng tỷ trong hai người làm phi, phong ấu muội làm quận chúa, lệnh cho vào cung tùy thị, chờ gả cho hoàng thất.”
“Nào ngờ hai yêu nữ này rắp tâm làm loạn, mưu đồ lớn, trước là giả tạo thư qua lại giữa lão Hầu gia và Lang vương, vu hãm lão Hầu gia hậu chiến uy bức mười tám bộ lạc, trữ riêng tử lưu kim, sau lại dùng yêu thuật mị hoặc tiên đế, ngày đêm ly gián tình nghĩa quân thần…”
Kinh triệu doãn Chu đại nhân chỉ nghe hai câu này liền nổi giận, lập tức quát: “Người đâu! Bắt lấy điêu dân tùy tiện nói xấu tiên quân này!”
Đàm Hồng Phi trợn trừng mắt: “Ta xem ai dám!”
Hắn gầm lên một tiếng, tốp tướng sĩ Bắc đại doanh bên cạnh cùng rút đao, nhất tề ngân giáp lẫm lẫm, ánh đao như tuyết, điêu văn đầu thú dữ tợn trên chuôi đao muốn lao ra xơi tái người ta.
Chu Hằng sắc mặt xanh mét, duy trì một chút lá gan của người đọc sách, run giọng nói: “Đàm Hồng Phi, ngươi muốn tạo phản sao?”
Đàm Hồng Phi cười gằn một tiếng, quay người sải bước xuống thềm đá, đi thẳng tới trước mặt nam tử trung niên kia, cắm trường mã đao xuống đất, đứng yên trước mặt hắn như tháp sắt, bức hỏi: “Ngươi nói tiếp đi, sau đó thì sao?”
Nam tử cáo trạng kia nói: “Tướng quân có nhớ, năm đó do tiểu Hầu gia còn nhỏ, ở nhà không ai quản thúc, sau khi biên cương bình định, phu phụ lão Hầu gia và công chúa liền bàn nhau dẫn y đến nơi đóng quân?”
Mắt Đàm Hồng Phi lóe lóe, dăm ba câu đã gợi dậy hồi ức xưa, hắn còn nhớ rõ, Cố đại soái hiện tại uy chấn một phương lúc nhỏ là một đứa con nít quỷ không hơn không kém, họa gì cũng dám gây, người nào cũng không sợ, lão Hầu gia và công chúa đều không có phụ mẫu trưởng bối để quản giáo thay, thấy y sắp vô pháp vô thiên, đành phải dẫn theo.
Đàm Hồng Phi: “Không sai, quả có việc này.”
Nam tử trung niên nọ tiếp tục: “Yêu nữ thừa cơ tiến ngôn, nói lão Hầu gia lúc này dẫn độc tử đi, nhất định có mưu đồ không nhỏ, chưa biết chừng là định cùng Hoàng thượng chia đông tây mà trị. Tiên đế Nguyên Hòa bị nhiếp hồn thuật mê hoặc, phẫn hận lão Hầu gia không thôi, lại sợ Huyền Thiết doanh chỉ ba mươi thiết kỵ đã san bằng man tộc, không biết nên làm sao cho được.”
Đàm Hồng Phi: “Vớ vẩn!”
Nam tử trung niên mặt không đổi sắc, bình tĩnh nói: “Lúc ấy yêu nữ cùng một gian nhân khác hợp lực bố trí một độc kế, lệnh cho tiên phụ Ngô công công lấy khao quân làm danh, dẫn ba mươi tử sĩ và hai kẻ am hiểu bàng môn tà đạo đến Bắc cương, lẻn vào trú địa ám sát, để phòng sự việc thất bại âm mưu bại lộ, còn cố ý để đám tử sĩ xăm hình đầu sói trước ngực, giả làm người man.”
Đàm Hồng Phi thở càng lúc càng nặng nề.
Năm đó ba mươi tử sĩ người man lẻn vào trú địa Bắc cương, không hề có dấu hiệu báo trước, gần như trời giáng, dùng chiêu hạ lưu rắc thuốc bột khiến tay chân tê liệt vào thức ăn nước uống, lại thay Huyền Thiết khinh cừu, đột nhiên gây chuyện, các tướng sĩ ngày nào cũng thấy kỵ binh khinh cừu lao qua doanh tuần phòng, nhất thời lại hoàn toàn không phòng bị…
Đàm Hồng Phi lẩm bẩm: “Không sai, ngươi nói đúng, lúc ấy ta còn là một thiên tướng con con, tử sĩ khinh cừu kia, quả thật chỉ có ba mươi người.”
Lão Hầu gia dùng ba mươi trọng giáp san bằng mười tám bộ lạc, yêu nữ liền trả ông ba mươi khinh cừu, khuấy đảo Huyền Thiết doanh bách chiến bách thắng đến nghiêng trời lệch đất, làm người thừa kế duy nhất của An Định hầu bị thương.
Đàm Hồng Phi đột nhiên cười khẽ: “Đó là nỗi nhục nhã vô cùng của Huyền Thiết doanh – ta nhớ lão Hầu gia vừa vặn xuất doanh tuần phòng, công chúa điện hạ sáng dậy thân thể không khỏe, chưa ăn uống gì, bằng không khi ấy bị thương không chỉ là một tiểu Hầu gia thôi, phải không?”
Thống lĩnh Bắc đại doanh dộng mạnh trường mã đao xuống đất, nền đá dày bằng bàn tay lại bị hắn nện ra một vết rạn: “Công chúa dưới sự kích phẫn, một mực chắc chắn quân ta có nội gian, mười mấy huynh đệ chúng ta đảm nhiệm phòng ngự trú địa Bắc cương, khó thoát được tội, tình ngay lý gian lại không biện bạch được, chỉ đành lũ lượt tháo giáp từ biệt, về kinh nhận tội… Bao nhiêu năm qua ta vẫn âm thầm oán trách người, cho rằng người thương con đến hồ đồ… Thì ra thật sự…”
Đàm Hồng Phi đột nhiên rơi lệ, hắn chẳng buồn lau, cũng chẳng nghẹn ngào, vẫn đứng đó như tháp sắt, không ngừng hít sâu vào như đau cực kỳ vậy.
Chu Hằng sững ra vì nước mắt của Diêm vương mặt đen, nhất thời ngay cả lửa giận tràn ngập trong lòng cũng phảng phất bị cái gì chọc thủng rỉ dần ra ngoài.
Kinh triệu doãn đại nhân không khỏi dịu giọng hơn: “Việc này lớn, chỉ dựa vào lời một phía của người này, thì không khỏi bất công, xin Đàm tướng quân thận trọng.”
Đàm Hồng Phi hơi định thần lại, kỳ thực trong lòng hắn đã tin bảy tám phần – không ai hiểu rõ bố phòng của Huyền Thiết doanh kín kẽ đến mức nào hơn Đàm Hồng Phi năm đó chưởng quản bố phòng trú địa Bắc cương, nhưng hắn không thể nói rõ được.
Dù cho nhiều năm qua Cố Quân đối đãi cựu bộ Huyền Thiết doanh không tệ, thậm chí giúp hắn trèo lên chức Thống soái Bắc đại doanh, hắn lại thủy chung nhớ rõ mình gánh nỗi oan khuất làm việc không tốt, không nơi khiếu nại.
Đàm Hồng Phi nhìn Chu Hằng một cái, miễn cưỡng cắn răng, cúi đầu hỏi hán tử trung niên kia: “Không sai, ngươi có bằng chứng gì?”
Nam tử kia lấy huyết thư cất trong lòng ra, đầu rạp xuống đất nói: “Đây là tiên phụ tự tay viết, di thể ông ấy hiện ở ngay ngoài cửa, tướng quân nhìn là biết có phải Ngô Hạc hay không, cũng biết tôi nói có phải là thật hay không.”
Chu Hằng nhíu mày, Đàm Hồng Phi thì đã hạ lệnh cho người đi khiêng.
Chốc lát sau, một nam thi như cây khô được khiêng vào, quỷ treo cổ không hề an tường, hai gò má sưng lên, lưỡi thè ra, cổ tím xanh như lệ quỷ, Đàm Hồng Phi chỉ ngó lướt qua liền hốt hoảng nhìn đi chỗ khác như không kham nổi gánh nặng, giọng khàn khàn: “Ta nhớ khóe mắt lão thái giám kia có một vết sẹo hình tam giác…”
Nam tử trung niên quỳ dưới đất lê đầu gối bò tới, từ từ lật mặt nam thi kia lại, vén mái tóc bạc xác xơ, trên khóe mắt chi chít đồi mồi và nếp nhăn hiện rõ một vết sẹo hình tam giác.
Xung quanh lặng ngắt như tờ, Chu Hằng mặt cắt không còn chút máu, hắn bỗng nhiên hít sâu một hơi, đưa tay chỉnh lại quan mạo bị Đàm tướng quân đập một phát lệch luôn, đôi tay thư sinh vẫn không ngừng run rẩy, miệng lại hỏi: “Sau đó thì sao?”
Nam tử bên dưới nói: “May mà tiểu Hầu gia cát nhân thiên tướng, đại nạn không chết, sau đó tiên đế tỉnh ngộ khỏi yêu thuật của yêu nữ, hối hận không thôi, âm thầm xử trí tỷ muội yêu nữ người man, đối với tiểu Hầu gia cũng ân sủng bội phần, lại đón vào cung tự mình chăm sóc – chỉ là yêu nữ tuy đã đền tội, nhưng tiểu nhân từng ra gian kế cho tiên đế vẫn còn đó, rất sợ Cố thị một mạch thánh sủng chưa hết, liền nhập bọn với Ngô Hạc công công, muốn tiếp tục xuống tay với tiểu Hầu gia.”
Chu Hằng: “Cung đình bí sự, ngươi phải nghĩ kỹ rồi hẵng nói.”
Nam tử trung niên cao giọng cười: “Đa tạ đại nhân, thảo dân ấu thời vốn là một nông dân sinh trưởng ở Bắc cương, nhiều thế hệ bị người man ức hiếp, phụ mẫu huynh đệ đều chết trong tay đám yêu nhân giả thần giả quỷ đó, là lão Hầu gia đã cứu mạng chúng tôi, trút giận cho chúng tôi, thảo dân thân hèn vị mọn, nhiều năm nhẫn nhục, hầu hạ lão thái giám đó, không hề là vì gia sản nhà lão, mà chỉ vì ngày hôm nay!”
Đàm Hồng Phi không sụt sùi nữa, cơ hồ đã chết lặng: “Nhưng ta nhớ rõ năm đó bị chết là tam điện hạ.”
“Không sai,” Nam tử kia nói, “Ngô Hạc bôi một loại độc có thể tan vào không khí lên đèn măng-sông bình nhật tiểu Hầu gia dùng đọc sách, Ngô Hạc nói, tiểu Hầu gia lúc nhỏ thích mở đèn măng-sông sáng hết cỡ, thường mở suốt đêm, ngủ cũng không tắt, qua một đêm, mặt sau ngọn đèn thường nóng đến chín trứng gà, tự nhiên sẽ tan độc vật vào không khí, lại hít vào phế phủ. Người trúng độc mới đầu sẽ ho không ngừng, sốt nhẹ liên tục, đều là chứng bệnh thường thấy ở trẻ con, không hề gây chú ý, nhưng từ từ, người sẽ dần suy nhược, cho đến khi độc vào ngũ tạng, thuốc thang vô dụng.”
Trong mắt Đàm Hồng Phi như phải nhỏ máu.
“Lúc ấy đèn măng-sông tiểu Hầu gia dùng ở trong cung là chụp đèn lưu ly bảy màu do Tây Dương đặc cung, rất là quý giá, chỉ mấy hoàng tử và tiểu Hầu gia có, hoàng hậu cũng không được một cây, nào ngờ tam điện hạ lỡ tay làm hỏng cây đèn măng-sông Tây Dương của mình, lo sợ bị quở mắng, lại không dám đi cầu người khác, tiểu Hầu gia liền đổi cây của mình cho y, lén dán lại chỗ vỡ, mỗi ngày che một quyển sách lên trên, vẫn làm bộ dùng như cũ.”
“Chuyện sau đó, chư vị đều biết rồi, tam điện hạ trúng độc chết non, tiên đế tức giận, triệt tra hậu cung, Ngô Hạc do mưu hại hoàng tự mà vào tù, thành cừu thế tội của gian nhân kia.” Nam tử cáo trạng vừa nói vừa vung ống tay áo, cả người mọp xuống đất, lên giọng nói, “Hiện giờ tiền căn hậu quả thảo dân đã bẩm rõ, đa tạ chư vị tướng quân đại nhân, gian nịnh đến nay còn nhơn nhơn ngoài vòng pháp luật, chính là đương kim quốc cữu gia Vương Quả!”
Chu Hằng ngớ ra: “Lớn mật… Ngươi, ngươi thật lớn mật!”
Người trung niên kia nói: “Cẩu đảm bao thiên, tiếc gì thân hèn!”
Chu Hằng ép hỏi: “Ngươi có bằng chứng gì?”
Người trung niên lấy một phong thư cũ mốc cất trong lòng: “Bẩm đại nhân, đây là phong thư năm đó khi Vương quốc cữu và đại thái giám trao nhận riêng đã từng viết, là thật hay giả, chư vị cứ xem là biết.”
Nói xong, nam tử ấy đặt phong thư xuống đất, bản thân hơi ngả ra sau, tựa hồ khẽ thở dài một hơi.
“Ân oán ngày xưa, hiện giờ một sớm kết thúc.”
Lúc Đàm Hồng Phi nhận thấy hắn có biểu cảm khác thường thì đã không còn kịp, nam nhân này đột nhiên đứng dậy, ngay vào khi mọi người đều chưa kịp phản ứng, quay người lao thẳng tới cây cột bên cạnh.
Máu và não cùng rơi tung tóe, đương trường mất mạng!
Hiển nhiên là một loại tử sĩ khác.
Lúc này, trong ôn tuyền sơn trang, mí mắt Cố Quân tự dưng bắt đầu giật không ngừng.
Hoắc Đan thống lĩnh gia tướng Hầu phủ đột nhiên xông vào cửa, thở không ra hơi: “Hầu, Hầu gia…”
Cố Quân quay phắt lại: “Sao?”
Hoắc thống lĩnh sau khi biết kinh thành chi biến, tim đập như điên, chưa kịp mở miệng, thì cửa chính bỗng bị người đập tung.
Trường Canh nắm chặt một con chim gỗ trong tay, con vật nhỏ ấy há miệng đập cánh, đầu và mình đã gãy đôi, vật bằng gỗ rắn chắc lại bị y bóp nát, bánh răng lởm chởm chỉa ra, đâm lòng bàn tay y máu thịt lẫn lộn, mà y giống như không biết đau, há miệng thở hổn hển như cá ra khỏi nước, nhưng trong ngực ngay cả một hơi cũng không thông nổi.
Y cầm trên tay một tờ giấy Hải Văn loang lổ vết máu, chim gỗ dù sao cũng nhanh hơn ngựa, đã có người truyền trò cười trong kinh thành đến cho y trước một bước.
Ngực Trường Canh như cắm đao nhọn, hô hấp cử động một chút là rỉ máu, lảo đảo đi đến trước mặt, ôm chầm lấy Cố Quân.
Hoắc thống lĩnh bên cạnh lấy làm kinh hãi: “Hầu gia…”
Cố Quân đưa tay ra hiệu: “Lão Hoắc, ngươi ra ngoài trước đi.”
Hoắc thống lĩnh tựa hồ muốn nói gì, cuối cùng vẫn im lặng lui ra ngoài.
Đứa trẻ xúi quẩy này sức lực còn không yếu, Cố Quân cảm thấy thắt lưng già sắp bị y siết gãy, chờ Hoắc thống lĩnh vừa đi, liền dùng một tay vỗ về lưng y: “Sao vậy?”
Trường Canh cúi đầu, vùi mặt vào vai Cố Quân, xung quanh lởn vởn mùi thuốc trên người Cố Quân, trước đây ngửi y chỉ cảm thấy an tâm, dẫu đi vào giấc mộng cũng có thể xua tan khói mù, nhưng lúc này y không muốn ngửi thấy mùi thuốc ấy nữa.
Trường Canh nhắm mắt lại, trong tai nổ ran, trong lòng còn lại duy nhất một ý nghĩ: “Ta phải giết sạch bọn người Lý gia.”
Cố Quân rút tờ giấy Hải Văn nhăn nhúm khỏi tay y, nhìn lướt đến cuối, tức thì rùng mình, đẩy mạnh Trường Canh ra, nổi giận quát: “Hoắc Đan!”
Hoắc thống lĩnh chờ ở bên ngoài nghe tiếng lập tức đẩy cửa tiến vào.
Cố Quân sắp phát điên rồi, đứng quá nhanh làm trước mắt nhất thời lại hơi hóa đen, y liền vội vàng vịn bàn, khuỷu tay liên tục run rẩy.
“Chuẩn bị ngựa, ta phải về kinh,” Cố Quân hít sâu một hơi, “Ngươi dẫn… khụ…”
Y nói đến đây đã không thành âm, hắng giọng: “Ngươi dẫn mấy khinh cừu đi trước một bước, nhất định phải ngăn Đàm Hồng Phi lại.”
Hoắc thống lĩnh nhìn y một cái thâm sâu: “Vâng!”
Cố Quân quay người muốn đi lấy triều phục và khinh giáp, bị Trường Canh túm cổ tay.
Trường Canh: “Đều là thật?”
Cố Quân cúi đầu nhìn y một cái, trong mắt mây gió vần vũ, rất đỗi phức tạp.
Dừng một chút, Cố Quân mới thấp giọng nói: “Đương nhiên không phải, yêu thuật đều là lời nói vô căn cứ, Vương quốc cữu cũng chẳng qua là…”
Chẳng qua là một nô tài chỉ đâu đánh đó dưới hoàng tọa, hai nữ nhân Bắc man kia, cũng chẳng qua là những kẻ đáng thương nước mất nhà tan, lưu lạc tha hương mà thôi…
Chân tướng mọi người đều hiểu rõ trong lòng, nhưng chẳng ai dám nói.
Cố Quân kéo tay ra: “Gần đây loạn, ngươi đừng về kinh, ở lại đây vài ngày…”
Nhưng Trường Canh không chịu bỏ qua: “Vậy tức là, trừ phần về yêu thuật và Vương Quả ra, đều là sự thật cả? Người biết, người vẫn luôn biết?”
Cố Quân mất sạch kiên nhẫn: “Lúc nào rồi mà còn đi theo làm rối, tránh ra!”
Trường Canh cơ hồ đồng thời mở miệng, khẽ nói: “Vì sao người còn chịu dốc lòng dốc sức thủ giang sơn đổ nát này cho lão? Vì sao còn chịu nhân nhượng đủ kiểu? Vì sao phải thu lưu con trông nom con bao nhiêu năm?”
Âm thanh nhẹ như tuyết rơi ấy dưới tiếng gầm giận dữ của Cố Quân thật nhỏ bé, song không biết là vì sao, chớp mắt lời ra khỏi miệng, người nên nghe vẫn nghe thấy.
Lòng Cố Quân thắt lại.
Môi Trường Canh một chút huyết sắc cũng không có, ánh mắt bức bách hỏi: “Nghĩa phụ, vì sao?”
Cố Quân cổ họng động khẽ, không biết phải nói từ đâu – nói như thế nào?
Nói mình kỳ thực không hề biết chuyện, những năm qua còn luôn cho rằng mình bị thương chỉ là một lần bất trắc, vẫn tưởng mình không thể bảo vệ A Yến, trơ mắt nhìn y chết trong tranh đấu hậu cung sao?
Cho đến khi… Y phụng mệnh áp giải Gia Lai Huỳnh Hoặc thế tử xuất quan, mới từ miệng lang nhân không có hảo ý kia biết được, độc của thần nữ thảo nguyên là bí mật bất truyền, nhiều thế hệ chỉ có mình thần nữ nắm giữ, ngay cả đồng tộc cũng không biết, chuyện hai mươi năm trước ba mươi khinh kỵ làm Huyền Thiết doanh thiệt hại nặng căn bản không liên quan đến man tộc.
Gia và quốc, thù và oán, đường lớn hướng lên trời mỗi loại nửa bên, nếu y đi một bước, vô luận đi lên bên nào, đều không còn có thể quay đầu lại.
Các việc trong đây đều không thể cho người ngoài biết, cuối cùng Cố Quân vẫn chẳng nói tiếng nào, bẻ mạnh tay Trường Canh ra, mặc giáp buộc tóc.
Tướng quân có tim, tiếc thay lại đúc bằng sắt.
Cố Quân phản ứng không thể nói là không mau, mấy trăm gia tướng hầu phủ điều động không thể nói là không lẹ, song vẫn không kịp.
Khi Hoắc Đan đầu mướt mồ hôi lạnh chạy tới dưới chân hoàng thành, gặp Bắc đại doanh làm loạn, Ngự lâm quân khẩn cấp điều động, kinh thành cửu môn phong kín, cả hoàng thành trở nên hỗn loạn.
Một lúc lâu, quan truyền lệnh mới nhớ tới sứ mệnh của mình chuyến này, giọng khô khốc mở miệng: “Đàm tướng quân, Hầu gia…”
“Ngươi câm miệng!” Đàm Hồng Phi chợt quát một tiếng, hắn trừng đôi mắt trâu như chuông đồng, chuyển hướng sang nam tử quỳ trong chính đường, nhất thời cổ hơi khô, toàn thân trên dưới mỗi một sợi lông đều như run rẩy, “Ngươi nói cái gì? Nói rõ ràng hơn xem – trung lương nào?”
Nam tử trung niên kia thẳng lưng lên, sắc mặt vàng bủng như nghệ đáng thương, trên mặt lại có vẻ quyết tuyệt không nói nên lời: “Hai mươi năm trước, Bắc man gặp thiên tai, Lang Vương dã tâm rành rành, dẫn binh xâm phạm, lão An Định hầu lấy oai của Huyền Thiết doanh, bình định Bắc cương, khiến quần lang cúi đầu, đem tuế cống và tỷ muội thần nữ hiến cho triều ta, Nguyên Hòa tiên đế nạp trưởng tỷ trong hai người làm phi, phong ấu muội làm quận chúa, lệnh cho vào cung tùy thị, chờ gả cho hoàng thất.”
“Nào ngờ hai yêu nữ này rắp tâm làm loạn, mưu đồ lớn, trước là giả tạo thư qua lại giữa lão Hầu gia và Lang vương, vu hãm lão Hầu gia hậu chiến uy bức mười tám bộ lạc, trữ riêng tử lưu kim, sau lại dùng yêu thuật mị hoặc tiên đế, ngày đêm ly gián tình nghĩa quân thần…”
Kinh triệu doãn Chu đại nhân chỉ nghe hai câu này liền nổi giận, lập tức quát: “Người đâu! Bắt lấy điêu dân tùy tiện nói xấu tiên quân này!”
Đàm Hồng Phi trợn trừng mắt: “Ta xem ai dám!”
Hắn gầm lên một tiếng, tốp tướng sĩ Bắc đại doanh bên cạnh cùng rút đao, nhất tề ngân giáp lẫm lẫm, ánh đao như tuyết, điêu văn đầu thú dữ tợn trên chuôi đao muốn lao ra xơi tái người ta.
Chu Hằng sắc mặt xanh mét, duy trì một chút lá gan của người đọc sách, run giọng nói: “Đàm Hồng Phi, ngươi muốn tạo phản sao?”
Đàm Hồng Phi cười gằn một tiếng, quay người sải bước xuống thềm đá, đi thẳng tới trước mặt nam tử trung niên kia, cắm trường mã đao xuống đất, đứng yên trước mặt hắn như tháp sắt, bức hỏi: “Ngươi nói tiếp đi, sau đó thì sao?”
Nam tử cáo trạng kia nói: “Tướng quân có nhớ, năm đó do tiểu Hầu gia còn nhỏ, ở nhà không ai quản thúc, sau khi biên cương bình định, phu phụ lão Hầu gia và công chúa liền bàn nhau dẫn y đến nơi đóng quân?”
Mắt Đàm Hồng Phi lóe lóe, dăm ba câu đã gợi dậy hồi ức xưa, hắn còn nhớ rõ, Cố đại soái hiện tại uy chấn một phương lúc nhỏ là một đứa con nít quỷ không hơn không kém, họa gì cũng dám gây, người nào cũng không sợ, lão Hầu gia và công chúa đều không có phụ mẫu trưởng bối để quản giáo thay, thấy y sắp vô pháp vô thiên, đành phải dẫn theo.
Đàm Hồng Phi: “Không sai, quả có việc này.”
Nam tử trung niên nọ tiếp tục: “Yêu nữ thừa cơ tiến ngôn, nói lão Hầu gia lúc này dẫn độc tử đi, nhất định có mưu đồ không nhỏ, chưa biết chừng là định cùng Hoàng thượng chia đông tây mà trị. Tiên đế Nguyên Hòa bị nhiếp hồn thuật mê hoặc, phẫn hận lão Hầu gia không thôi, lại sợ Huyền Thiết doanh chỉ ba mươi thiết kỵ đã san bằng man tộc, không biết nên làm sao cho được.”
Đàm Hồng Phi: “Vớ vẩn!”
Nam tử trung niên mặt không đổi sắc, bình tĩnh nói: “Lúc ấy yêu nữ cùng một gian nhân khác hợp lực bố trí một độc kế, lệnh cho tiên phụ Ngô công công lấy khao quân làm danh, dẫn ba mươi tử sĩ và hai kẻ am hiểu bàng môn tà đạo đến Bắc cương, lẻn vào trú địa ám sát, để phòng sự việc thất bại âm mưu bại lộ, còn cố ý để đám tử sĩ xăm hình đầu sói trước ngực, giả làm người man.”
Đàm Hồng Phi thở càng lúc càng nặng nề.
Năm đó ba mươi tử sĩ người man lẻn vào trú địa Bắc cương, không hề có dấu hiệu báo trước, gần như trời giáng, dùng chiêu hạ lưu rắc thuốc bột khiến tay chân tê liệt vào thức ăn nước uống, lại thay Huyền Thiết khinh cừu, đột nhiên gây chuyện, các tướng sĩ ngày nào cũng thấy kỵ binh khinh cừu lao qua doanh tuần phòng, nhất thời lại hoàn toàn không phòng bị…
Đàm Hồng Phi lẩm bẩm: “Không sai, ngươi nói đúng, lúc ấy ta còn là một thiên tướng con con, tử sĩ khinh cừu kia, quả thật chỉ có ba mươi người.”
Lão Hầu gia dùng ba mươi trọng giáp san bằng mười tám bộ lạc, yêu nữ liền trả ông ba mươi khinh cừu, khuấy đảo Huyền Thiết doanh bách chiến bách thắng đến nghiêng trời lệch đất, làm người thừa kế duy nhất của An Định hầu bị thương.
Đàm Hồng Phi đột nhiên cười khẽ: “Đó là nỗi nhục nhã vô cùng của Huyền Thiết doanh – ta nhớ lão Hầu gia vừa vặn xuất doanh tuần phòng, công chúa điện hạ sáng dậy thân thể không khỏe, chưa ăn uống gì, bằng không khi ấy bị thương không chỉ là một tiểu Hầu gia thôi, phải không?”
Thống lĩnh Bắc đại doanh dộng mạnh trường mã đao xuống đất, nền đá dày bằng bàn tay lại bị hắn nện ra một vết rạn: “Công chúa dưới sự kích phẫn, một mực chắc chắn quân ta có nội gian, mười mấy huynh đệ chúng ta đảm nhiệm phòng ngự trú địa Bắc cương, khó thoát được tội, tình ngay lý gian lại không biện bạch được, chỉ đành lũ lượt tháo giáp từ biệt, về kinh nhận tội… Bao nhiêu năm qua ta vẫn âm thầm oán trách người, cho rằng người thương con đến hồ đồ… Thì ra thật sự…”
Đàm Hồng Phi đột nhiên rơi lệ, hắn chẳng buồn lau, cũng chẳng nghẹn ngào, vẫn đứng đó như tháp sắt, không ngừng hít sâu vào như đau cực kỳ vậy.
Chu Hằng sững ra vì nước mắt của Diêm vương mặt đen, nhất thời ngay cả lửa giận tràn ngập trong lòng cũng phảng phất bị cái gì chọc thủng rỉ dần ra ngoài.
Kinh triệu doãn đại nhân không khỏi dịu giọng hơn: “Việc này lớn, chỉ dựa vào lời một phía của người này, thì không khỏi bất công, xin Đàm tướng quân thận trọng.”
Đàm Hồng Phi hơi định thần lại, kỳ thực trong lòng hắn đã tin bảy tám phần – không ai hiểu rõ bố phòng của Huyền Thiết doanh kín kẽ đến mức nào hơn Đàm Hồng Phi năm đó chưởng quản bố phòng trú địa Bắc cương, nhưng hắn không thể nói rõ được.
Dù cho nhiều năm qua Cố Quân đối đãi cựu bộ Huyền Thiết doanh không tệ, thậm chí giúp hắn trèo lên chức Thống soái Bắc đại doanh, hắn lại thủy chung nhớ rõ mình gánh nỗi oan khuất làm việc không tốt, không nơi khiếu nại.
Đàm Hồng Phi nhìn Chu Hằng một cái, miễn cưỡng cắn răng, cúi đầu hỏi hán tử trung niên kia: “Không sai, ngươi có bằng chứng gì?”
Nam tử kia lấy huyết thư cất trong lòng ra, đầu rạp xuống đất nói: “Đây là tiên phụ tự tay viết, di thể ông ấy hiện ở ngay ngoài cửa, tướng quân nhìn là biết có phải Ngô Hạc hay không, cũng biết tôi nói có phải là thật hay không.”
Chu Hằng nhíu mày, Đàm Hồng Phi thì đã hạ lệnh cho người đi khiêng.
Chốc lát sau, một nam thi như cây khô được khiêng vào, quỷ treo cổ không hề an tường, hai gò má sưng lên, lưỡi thè ra, cổ tím xanh như lệ quỷ, Đàm Hồng Phi chỉ ngó lướt qua liền hốt hoảng nhìn đi chỗ khác như không kham nổi gánh nặng, giọng khàn khàn: “Ta nhớ khóe mắt lão thái giám kia có một vết sẹo hình tam giác…”
Nam tử trung niên quỳ dưới đất lê đầu gối bò tới, từ từ lật mặt nam thi kia lại, vén mái tóc bạc xác xơ, trên khóe mắt chi chít đồi mồi và nếp nhăn hiện rõ một vết sẹo hình tam giác.
Xung quanh lặng ngắt như tờ, Chu Hằng mặt cắt không còn chút máu, hắn bỗng nhiên hít sâu một hơi, đưa tay chỉnh lại quan mạo bị Đàm tướng quân đập một phát lệch luôn, đôi tay thư sinh vẫn không ngừng run rẩy, miệng lại hỏi: “Sau đó thì sao?”
Nam tử bên dưới nói: “May mà tiểu Hầu gia cát nhân thiên tướng, đại nạn không chết, sau đó tiên đế tỉnh ngộ khỏi yêu thuật của yêu nữ, hối hận không thôi, âm thầm xử trí tỷ muội yêu nữ người man, đối với tiểu Hầu gia cũng ân sủng bội phần, lại đón vào cung tự mình chăm sóc – chỉ là yêu nữ tuy đã đền tội, nhưng tiểu nhân từng ra gian kế cho tiên đế vẫn còn đó, rất sợ Cố thị một mạch thánh sủng chưa hết, liền nhập bọn với Ngô Hạc công công, muốn tiếp tục xuống tay với tiểu Hầu gia.”
Chu Hằng: “Cung đình bí sự, ngươi phải nghĩ kỹ rồi hẵng nói.”
Nam tử trung niên cao giọng cười: “Đa tạ đại nhân, thảo dân ấu thời vốn là một nông dân sinh trưởng ở Bắc cương, nhiều thế hệ bị người man ức hiếp, phụ mẫu huynh đệ đều chết trong tay đám yêu nhân giả thần giả quỷ đó, là lão Hầu gia đã cứu mạng chúng tôi, trút giận cho chúng tôi, thảo dân thân hèn vị mọn, nhiều năm nhẫn nhục, hầu hạ lão thái giám đó, không hề là vì gia sản nhà lão, mà chỉ vì ngày hôm nay!”
Đàm Hồng Phi không sụt sùi nữa, cơ hồ đã chết lặng: “Nhưng ta nhớ rõ năm đó bị chết là tam điện hạ.”
“Không sai,” Nam tử kia nói, “Ngô Hạc bôi một loại độc có thể tan vào không khí lên đèn măng-sông bình nhật tiểu Hầu gia dùng đọc sách, Ngô Hạc nói, tiểu Hầu gia lúc nhỏ thích mở đèn măng-sông sáng hết cỡ, thường mở suốt đêm, ngủ cũng không tắt, qua một đêm, mặt sau ngọn đèn thường nóng đến chín trứng gà, tự nhiên sẽ tan độc vật vào không khí, lại hít vào phế phủ. Người trúng độc mới đầu sẽ ho không ngừng, sốt nhẹ liên tục, đều là chứng bệnh thường thấy ở trẻ con, không hề gây chú ý, nhưng từ từ, người sẽ dần suy nhược, cho đến khi độc vào ngũ tạng, thuốc thang vô dụng.”
Trong mắt Đàm Hồng Phi như phải nhỏ máu.
“Lúc ấy đèn măng-sông tiểu Hầu gia dùng ở trong cung là chụp đèn lưu ly bảy màu do Tây Dương đặc cung, rất là quý giá, chỉ mấy hoàng tử và tiểu Hầu gia có, hoàng hậu cũng không được một cây, nào ngờ tam điện hạ lỡ tay làm hỏng cây đèn măng-sông Tây Dương của mình, lo sợ bị quở mắng, lại không dám đi cầu người khác, tiểu Hầu gia liền đổi cây của mình cho y, lén dán lại chỗ vỡ, mỗi ngày che một quyển sách lên trên, vẫn làm bộ dùng như cũ.”
“Chuyện sau đó, chư vị đều biết rồi, tam điện hạ trúng độc chết non, tiên đế tức giận, triệt tra hậu cung, Ngô Hạc do mưu hại hoàng tự mà vào tù, thành cừu thế tội của gian nhân kia.” Nam tử cáo trạng vừa nói vừa vung ống tay áo, cả người mọp xuống đất, lên giọng nói, “Hiện giờ tiền căn hậu quả thảo dân đã bẩm rõ, đa tạ chư vị tướng quân đại nhân, gian nịnh đến nay còn nhơn nhơn ngoài vòng pháp luật, chính là đương kim quốc cữu gia Vương Quả!”
Chu Hằng ngớ ra: “Lớn mật… Ngươi, ngươi thật lớn mật!”
Người trung niên kia nói: “Cẩu đảm bao thiên, tiếc gì thân hèn!”
Chu Hằng ép hỏi: “Ngươi có bằng chứng gì?”
Người trung niên lấy một phong thư cũ mốc cất trong lòng: “Bẩm đại nhân, đây là phong thư năm đó khi Vương quốc cữu và đại thái giám trao nhận riêng đã từng viết, là thật hay giả, chư vị cứ xem là biết.”
Nói xong, nam tử ấy đặt phong thư xuống đất, bản thân hơi ngả ra sau, tựa hồ khẽ thở dài một hơi.
“Ân oán ngày xưa, hiện giờ một sớm kết thúc.”
Lúc Đàm Hồng Phi nhận thấy hắn có biểu cảm khác thường thì đã không còn kịp, nam nhân này đột nhiên đứng dậy, ngay vào khi mọi người đều chưa kịp phản ứng, quay người lao thẳng tới cây cột bên cạnh.
Máu và não cùng rơi tung tóe, đương trường mất mạng!
Hiển nhiên là một loại tử sĩ khác.
Lúc này, trong ôn tuyền sơn trang, mí mắt Cố Quân tự dưng bắt đầu giật không ngừng.
Hoắc Đan thống lĩnh gia tướng Hầu phủ đột nhiên xông vào cửa, thở không ra hơi: “Hầu, Hầu gia…”
Cố Quân quay phắt lại: “Sao?”
Hoắc thống lĩnh sau khi biết kinh thành chi biến, tim đập như điên, chưa kịp mở miệng, thì cửa chính bỗng bị người đập tung.
Trường Canh nắm chặt một con chim gỗ trong tay, con vật nhỏ ấy há miệng đập cánh, đầu và mình đã gãy đôi, vật bằng gỗ rắn chắc lại bị y bóp nát, bánh răng lởm chởm chỉa ra, đâm lòng bàn tay y máu thịt lẫn lộn, mà y giống như không biết đau, há miệng thở hổn hển như cá ra khỏi nước, nhưng trong ngực ngay cả một hơi cũng không thông nổi.
Y cầm trên tay một tờ giấy Hải Văn loang lổ vết máu, chim gỗ dù sao cũng nhanh hơn ngựa, đã có người truyền trò cười trong kinh thành đến cho y trước một bước.
Ngực Trường Canh như cắm đao nhọn, hô hấp cử động một chút là rỉ máu, lảo đảo đi đến trước mặt, ôm chầm lấy Cố Quân.
Hoắc thống lĩnh bên cạnh lấy làm kinh hãi: “Hầu gia…”
Cố Quân đưa tay ra hiệu: “Lão Hoắc, ngươi ra ngoài trước đi.”
Hoắc thống lĩnh tựa hồ muốn nói gì, cuối cùng vẫn im lặng lui ra ngoài.
Đứa trẻ xúi quẩy này sức lực còn không yếu, Cố Quân cảm thấy thắt lưng già sắp bị y siết gãy, chờ Hoắc thống lĩnh vừa đi, liền dùng một tay vỗ về lưng y: “Sao vậy?”
Trường Canh cúi đầu, vùi mặt vào vai Cố Quân, xung quanh lởn vởn mùi thuốc trên người Cố Quân, trước đây ngửi y chỉ cảm thấy an tâm, dẫu đi vào giấc mộng cũng có thể xua tan khói mù, nhưng lúc này y không muốn ngửi thấy mùi thuốc ấy nữa.
Trường Canh nhắm mắt lại, trong tai nổ ran, trong lòng còn lại duy nhất một ý nghĩ: “Ta phải giết sạch bọn người Lý gia.”
Cố Quân rút tờ giấy Hải Văn nhăn nhúm khỏi tay y, nhìn lướt đến cuối, tức thì rùng mình, đẩy mạnh Trường Canh ra, nổi giận quát: “Hoắc Đan!”
Hoắc thống lĩnh chờ ở bên ngoài nghe tiếng lập tức đẩy cửa tiến vào.
Cố Quân sắp phát điên rồi, đứng quá nhanh làm trước mắt nhất thời lại hơi hóa đen, y liền vội vàng vịn bàn, khuỷu tay liên tục run rẩy.
“Chuẩn bị ngựa, ta phải về kinh,” Cố Quân hít sâu một hơi, “Ngươi dẫn… khụ…”
Y nói đến đây đã không thành âm, hắng giọng: “Ngươi dẫn mấy khinh cừu đi trước một bước, nhất định phải ngăn Đàm Hồng Phi lại.”
Hoắc thống lĩnh nhìn y một cái thâm sâu: “Vâng!”
Cố Quân quay người muốn đi lấy triều phục và khinh giáp, bị Trường Canh túm cổ tay.
Trường Canh: “Đều là thật?”
Cố Quân cúi đầu nhìn y một cái, trong mắt mây gió vần vũ, rất đỗi phức tạp.
Dừng một chút, Cố Quân mới thấp giọng nói: “Đương nhiên không phải, yêu thuật đều là lời nói vô căn cứ, Vương quốc cữu cũng chẳng qua là…”
Chẳng qua là một nô tài chỉ đâu đánh đó dưới hoàng tọa, hai nữ nhân Bắc man kia, cũng chẳng qua là những kẻ đáng thương nước mất nhà tan, lưu lạc tha hương mà thôi…
Chân tướng mọi người đều hiểu rõ trong lòng, nhưng chẳng ai dám nói.
Cố Quân kéo tay ra: “Gần đây loạn, ngươi đừng về kinh, ở lại đây vài ngày…”
Nhưng Trường Canh không chịu bỏ qua: “Vậy tức là, trừ phần về yêu thuật và Vương Quả ra, đều là sự thật cả? Người biết, người vẫn luôn biết?”
Cố Quân mất sạch kiên nhẫn: “Lúc nào rồi mà còn đi theo làm rối, tránh ra!”
Trường Canh cơ hồ đồng thời mở miệng, khẽ nói: “Vì sao người còn chịu dốc lòng dốc sức thủ giang sơn đổ nát này cho lão? Vì sao còn chịu nhân nhượng đủ kiểu? Vì sao phải thu lưu con trông nom con bao nhiêu năm?”
Âm thanh nhẹ như tuyết rơi ấy dưới tiếng gầm giận dữ của Cố Quân thật nhỏ bé, song không biết là vì sao, chớp mắt lời ra khỏi miệng, người nên nghe vẫn nghe thấy.
Lòng Cố Quân thắt lại.
Môi Trường Canh một chút huyết sắc cũng không có, ánh mắt bức bách hỏi: “Nghĩa phụ, vì sao?”
Cố Quân cổ họng động khẽ, không biết phải nói từ đâu – nói như thế nào?
Nói mình kỳ thực không hề biết chuyện, những năm qua còn luôn cho rằng mình bị thương chỉ là một lần bất trắc, vẫn tưởng mình không thể bảo vệ A Yến, trơ mắt nhìn y chết trong tranh đấu hậu cung sao?
Cho đến khi… Y phụng mệnh áp giải Gia Lai Huỳnh Hoặc thế tử xuất quan, mới từ miệng lang nhân không có hảo ý kia biết được, độc của thần nữ thảo nguyên là bí mật bất truyền, nhiều thế hệ chỉ có mình thần nữ nắm giữ, ngay cả đồng tộc cũng không biết, chuyện hai mươi năm trước ba mươi khinh kỵ làm Huyền Thiết doanh thiệt hại nặng căn bản không liên quan đến man tộc.
Gia và quốc, thù và oán, đường lớn hướng lên trời mỗi loại nửa bên, nếu y đi một bước, vô luận đi lên bên nào, đều không còn có thể quay đầu lại.
Các việc trong đây đều không thể cho người ngoài biết, cuối cùng Cố Quân vẫn chẳng nói tiếng nào, bẻ mạnh tay Trường Canh ra, mặc giáp buộc tóc.
Tướng quân có tim, tiếc thay lại đúc bằng sắt.
Cố Quân phản ứng không thể nói là không mau, mấy trăm gia tướng hầu phủ điều động không thể nói là không lẹ, song vẫn không kịp.
Khi Hoắc Đan đầu mướt mồ hôi lạnh chạy tới dưới chân hoàng thành, gặp Bắc đại doanh làm loạn, Ngự lâm quân khẩn cấp điều động, kinh thành cửu môn phong kín, cả hoàng thành trở nên hỗn loạn.
/100
|