Vì một sứ giả Tây Dương mà buổi triều sớm ồn ào đến căng cả não, sau khi tan triều, Trường Canh phớt lờ một đám người ôm các tâm sự riêng muốn thăm dò ý của y, đỡ Phụng Hàm công cao tuổi ra khỏi cung.
Trong kinh thành lòng người hoảng sợ, xe ngựa rất thiếu, bình thường Cố Quân đều để Hoắc Đan dẫn ngựa chờ y ở ngoài cung, nhưng hôm nay không biết Hoắc Đan bị chuyện gì níu chân mà vẫn chưa thấy đâu.
Trường Canh mới đầu không để ý, sóng vai đi cùng lão viện trưởng Linh Xu viện, chậm rãi trở về.
Phụng Hàm công từ sáng đến tối cắm mặt trong Linh Xu viện, vành mắt đã hõm vào, cả người như cải củ bị rút khô nước, chỉ còn lại đôi mắt sáng rực, trông đặc biệt dính răng.
“Phiền điện hạ nhẫn nại đi theo đám lão già chân cẳng chậm chạp này,” Phụng Hàm công thở dài nói, “Viện quân đã có tin tức chưa, rốt cuộc khi nào thì có thể đến?”
Trường Canh: “Loạn tứ cảnh đã quẩn chân năm đại quân khu, trú quân địa phương như thế nào thì ngài cũng biết rồi. Mấy năm nay quân phí và tử lưu kim các châu lại nhiều lần cắt giảm, cơ bản cung ứng không nổi mấy trọng binh giáp, dùng toàn là khinh cừu. Khinh cừu cố nhiên hành quân nhanh, linh hoạt dễ điều động, nhưng cũng cực dễ bị ngăn trở, một khi quân địch bố trí trọng giáp hoặc chiến xa chặn dọc đường, nếu chủ tướng hơi thiếu kinh nghiệm, thì sẽ rất dễ để đội ngũ rơi vào trùng vây – quân Tây Dương thậm chí cũng chẳng cần bao nhiêu người.”
“Điện hạ thật sự khiến lão hủ xấu hổ vô cùng, Linh Xu viện đã nhiều năm liền không làm được thứ gì cho ra hồn,” Trương Phụng Hàm tự giễu lắc đầu, “Lão bất tử vô dụng này cũng chỉ ngồi không ăn bám, vốn định sang năm sẽ xin Hoàng thượng cho cáo lão, nào ngờ gặp quốc nạn, sợ là không được chết già.”
Trường Canh ôn hòa nói: “Công của Phụng Hàm công tồn tại ngàn thu, không thể tự coi nhẹ mình.”
“Ngàn thu… Qua ngàn thu có còn Đại Lương không?” Trương Phụng Hàm chép miệng, “Ta vốn tưởng rằng vào Linh Xu viện, là có thể không để ý chuyện bên ngoài, cả đời tiếp xúc với hỏa cơ cương giáp, chuyên tâm làm tốt việc của mình, nhưng thì ra thiên hạ này quá đông đúc, quân tử tiểu nhân dẫu mỗi kẻ một đường, cũng luôn có thể đụng đầu nhau, ngươi càng không muốn xen vào bất cứ chuyện gì, càng muốn xuất sắc hơn người mà làm chút việc, thì càng là cái gì cũng chẳng làm thành – cho dù chỉ muốn làm hạ cửu lưu tay dính đầy dầu máy.”
Trường Canh biết Phụng Hàm công chỉ đang tự cảm khái, chứ không hề muốn nghe y trả lời, liền chỉ cười mà không lên tiếng.
Đại Lương đi đến bước hiện giờ, mâu thuẫn tích tụ hai đời giữa hoàng quyền và quân quyền cố nhiên là mồi lửa, nhưng cũng không phải nguyên do căn bản nhất – cố tật trầm kha tại thời điểm quốc khố mỗi năm một teo đi, đã định trước kết cục thảm đạm này.
Trương Phụng Hàm: “Cọc ngầm của lưới cấm không ở Khởi Diên lâu đang điều chỉnh mỗi ngày, bọn Tây Dương đó hiện giờ chỉ dám đi binh xa, rất nhiều ưng giáp không dám lên, nhưng năng lượng trong cọc ngầm thủy chung có hạn. Ta nghe nói người Tây Dương ngày ngày dùng dây thừng kéo mộc diên ‘thả diều’ ở ngoài thành, chỉ sợ chẳng được mấy hôm, thiết tiễn dự trữ trong cọc ngầm sẽ khó lòng tiếp tục, đến lúc đó phải làm thế nào, Cố soái có kế hoạch chưa?”
Huyền ưng Bắc đại doanh hiện có, tính cả số thiếu tay cụt chân, tổng cộng chưa đến một trăm, một khi lưới cấm không mất đi hiệu lực, chỉ sợ cũng là lúc thành phá.
Trường Canh: “Ừm, y biết, đang nghĩ cách.”
Trương Phụng Hàm lòng đầy sầu lo nghe thế dở khóc dở cười, không biết nên nói Nhạn Bắc vương này là “anh hùng xuất thiếu niên”, hay nên nói y chậm tiêu, giống như dù là trời sập trước mặt, tiểu Vương gia kia cũng chỉ một câu “biết rồi” như không liên quan đến mình vậy.
Trương Phụng Hàm cố ý hạ giọng nói: “Hôm nay vào triều không thấy Hàn thống lĩnh của Ngự lâm quân, Vương gia có nhìn thấy không? Hiện tại trong triều có lời đồn, rằng Hoàng thượng ngoài mặt quở mắng sứ giả Tây Dương, thực tế đã tính toán dời đô rồi.”
Trường Canh cười cười, không hề giật mình: “Hoàng thượng sẽ không làm vậy, chúng ta cũng chưa đến lúc cùng đường, ta thấy xe của Linh Xu viện rồi, để ta đỡ ngài lên… A Hoắc bá đến rồi?”
Hoắc Đan dáng đi vội vàng, vẻ mặt lơ đãng, đi đến trước mặt Trường Canh: “Lão nô hôm nay đến muộn, xin Vương gia thứ tội.”
“Không sao,” Trường Canh khoát tay, “Hoắc bá hôm nay bị chuyện gì níu chân vậy?”
“…” Hoắc Đan cẩn thận liếc trộm thần sắc y, “Hầu gia đêm qua bị tên của người Tây Dương gây thương tích, ta cũng sáng sớm nay mới nghe nói, vừa đi rồi… Ơ, Vương gia!”
Trước sự trợn mắt há mồm của Hoắc Đan và Trương Phụng Hàm, Trường Canh mới thong thả đi bộ đột nhiên biến sắc, nhảy lên ngựa lao vút đi như một trận gió.
Khói thuốc súng trước cửu môn còn chưa tan, đại quân Tây Dương hửng sáng mới ngừng chiến rút đi, Cố Quân cũng được nghỉ ngơi chốc lát.
Kiên giáp huyền thiết lõm vào, mũi tên đã rút ra, hai quân y vây quanh Cố Quân, cầm kìm và kéo, cẩn thận nạy kiên giáp đã biến hình, quần áo bên trong đã dính vào thịt.
Trường Canh vội vàng xông tới, ánh mắt dừng trên người Cố Quân một chút, liền không nhịn được nhìn đi chỗ khác, sắc mặt thực sự còn khó coi hơn vị bị thương.
“A…” Cố Quân rùng mình, “Ta nói hai vị có thể dứt khoát chút không? Thêu hoa à – thế nào?”
Trường Canh không đáp, hít sâu một hơi tiến lên, cho hai quân y lui đi, khom lưng cẩn thận ngắm nghía mảnh giáp không gỡ được trên người Cố Quân một chút, lấy từ trong lòng ra một cái kìm sắt nhỏ chỉ dài bằng đầu ngón tay, ôm chặt vai Cố Quân, cắt xuống từ bên kia. Tay y cực nhanh, cái kìm nhỏ sắc lẻm chém sắt như chém bùn cắt thủng kiên giáp biến dạng, máu lập tức dính đầy tay.
Trường Canh vẻ mặt căng thẳng, nhất thời thở không nổi, thấp giọng nói: “Sao bị thương thế này mà không cho con biết?”
Cố Quân mới còn méo mặt lập tức cố nén đau, nghiến răng nghiến lợi nói: “Việc nhỏ – trên triều hội sứ giả Tây Dương nói thế nào?”
“Có thể nói thế nào, phát ngôn xằng bậy trên kim điện,” Trường Canh hoạt động ngón tay không vững một chút, lột mảnh giáp vụn bị máu dính trên người Cố Quân, “Muốn chúng ta giải trừ ‘bức hại cướp bóc’ cho các quốc gia Tây Vực, lãnh thổ bên ngoài Gia Dự quan làm thương khu vạn quốc, pháp luật trong thương khu dựa theo pháp trị ở nước họ, còn có…”
Kiên giáp biến dạng tháo cả xuống, Trường Canh nhìn chằm chằm vết thương của Cố Quân mà hít sâu một hơi, khó khăn đứng thẳng người nghỉ ngơi giây lát.
“Còn có… cái gì?” Cố Quân rùng mình, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, “Ta nói đại phu này, sao lão nhân gia còn sợ máu hả?”
Trường Canh cả người cứng như thiết bổng: “Con sợ máu của người.”
Y đoạt lấy bầu rượu của Cố Quân, dốc hai ngụm liền, đầu váng mắt hoa chực nôn, cố gắng hít thở chốc lát, mới cầm kéo lên cắt y phục không nhìn ra màu ban đầu.
“Còn có đem ba mươi sáu quận Bắc cương, tuyến Tây Kinh đến Trực Lệ U Châu về phía Bắc vạch hết cho mười tám bộ lạc, kinh thành Đại Lương dời đến Trung Nguyên Đông Đô – lại đưa Hòa Ninh công chúa đến mười tám bộ làm con tin, từ đây triều ta xưng thần với mười tám bộ, hàng năm tiến cống…”
Hòa Ninh là nữ nhi duy nhất của Lý Phong, mới bảy tuổi.
Cố Quân nổi giận: “Cái rắm!”
Y vừa cựa quậy thì máu liền trào ra, Trường Canh không nhịn được nữa quát: “Đừng nhúc nhích!”
Hai người nhìn nhau im lặng một lát, Cố Quân thần sắc không rõ hỉ nộ, một lúc lâu mới nói: “… Ngươi tiếp tục đi.”
“Ngoài ra, họ còn ép Lý Phong hạ lệnh, để Thẩm Dịch rút trú quân Nam Cương đóng ở chư đảo Nam Dương đi, trong ngoài vận hà Đông Hải chia sông mà trị, thủy sư Giang Nam lui vào trong, mé ngoài và tuyến Đông Hải vạch về khu Viễn Đông Tây Dương.” Trường Canh ánh mắt nặng nề, nhưng tay hết sức nhẹ nhàng lau vết thương cho y, dừng một thoáng lại tiếp, “Rồi còn khoản bồi thường chiến tranh…”
Cố Quân im lặng mà căng hết cơ bắp lên.
“Lúc lâm triều Lý Phong muốn chém sứ, được quần thần khuyên can.” Trường Canh nắm vai không bị thương của Cố Quân, “Con phải rửa vết thương, nghĩa phụ, tạm thời phong bế tri giác được chứ?”
Cố Quân lắc đầu.
Trường Canh ôn tồn khuyên nhủ: “Con chỉ dùng một ít thuốc, người có tính kháng dược mạnh, sẽ không ngủ lâu, nếu ngoại thành có biến, con thủ thay người…”
“Rửa thì rửa đi,” Cố Quân ngắt lời, “Đừng nói nhảm.”
Trường Canh nhìn y một cái, ý thức được nói lý lẽ với người này là vô dụng.
Đúng lúc này, Đàm Hồng Phi chạy tới nói: “Đại soái…”
Cố Quân vừa quay đầu lại liền nghe thấy một thứ mùi quỷ dị, không hề phòng bị hít vào một hơi, cả người tức thì mềm nhũn.
An Định hầu anh minh thần võ tuyệt đối không ngờ đến Quận vương điện hạ còn biết thủ đoạn giang hồ “tụ lý càn khôn” bất nhập lưu này, mà còn là dùng với mình!
Cố Quân: “Ngươi…”
Trường Canh mắt cũng không chớp, nhanh chóng đâm châm mảnh vào huyệt đạo của Cố Quân, sau đó đỡ lấy thân thể mất đi tri giác.
Đàm Hồng Phi trơ mắt nhìn chủ soái bị đánh ngã sững sờ ngay cửa, cùng Quận vương điện hạ thô lố mắt nhìn nhau: “…”
Trường Canh mặt không đổi sắc ra hiệu cho hắn im lặng, bế Cố Quân lên đặt ngay ngắn, bắt đầu cẩn thận làm sạch vết thương.
Đàm Hồng Phi trố mắt nhìn: “Đây… kia…”
Trường Canh: “Không sao, để y ngủ một lúc, bớt chịu tội đi.”
Đàm Hồng Phi chớp chớp mắt – Rất lâu trước, hắn vẫn cho rằng Nhạn Bắc vương điện hạ giống một thư sinh hòa hòa khí khí, sau đó phát hiện y đánh giỏi tính hay, rất đỗi bội phục, sinh lòng muốn thân cận… Mãi đến giờ khắc này, Đàm thống lĩnh mới trào lên sự sùng kính hừng hực đối với y.
Đàm Hồng Phi vô thức đưa tay sờ sờ mặt – vết sẹo bị Cố Quân quất vẫn chưa lặn – bụng nghĩ: “Vương gia cũng to gan thật.”
Trường Canh: “Đúng rồi, có chuyện gì thế?”
Đàm Hồng Phi lúc này mới hoàn hồn, vội nói: “Điện hạ, Hoàng thượng tới, xa giá ở ngay phía sau, ngài xem…”
Đang nói thì Lý Phong thần sắc tiều tụy vận thường phục đi tới, bên cạnh chỉ dẫn theo Chúc Chân Nhỏ.
Lý Phong cúi đầu nhìn Cố Quân hôn mê, lại đưa tay sờ thử trán y: “Hoàng thúc không sao chứ?”
“Bị thương da thịt thôi.” Trường Canh băng bó vết thương xong xuôi, khoác ngoại bào tơ mỏng lên người Cố Quân, thu dọn ngân châm: “Chỉ là ta dùng chút thuốc mê cho y, nhất thời chưa tỉnh lại được, hoàng huynh đừng chê trách.”
Đoạn Trường Canh đứng dậy cầm cát phong nhận của Cố Quân, mũ giáp cũng không mặc, quay người đi ra ngoài.
Lý Phong vội hỏi: “Sao thế?”
“Ta thay nghĩa phụ thủ thành một lúc,” Trường Canh nói, “Mặc dù sứ giả đang ở trong kinh, nhưng chỉ sợ là mê trận của người Tây Dương, chưa biết chừng sẽ nhân lúc chúng ta thả lỏng cảnh giác mà công thành, cẩn thận vẫn hơn.”
Lý Phong đứng ngây ra đó giây lát, đột nhiên cầm một thanh bội kiếm đi theo, Chúc Chân Nhỏ giật nảy mình: “Hoàng thượng!”
Lý Phong phớt lờ hắn, lên tường thành.
Nhờ thiên lý nhãn trong tay, Hoàng đế Long An nhìn thấy không xa là doanh trướng của quân Tây Dương, kinh giao ốc thổ, hiện giờ đã chồng chất vết thương. Ngoài kinh thành cửu môn ngày trước ngựa xe như nước nay tiêu điều là thế, tường thành sập một góc được huyền thiết giáp báo hỏng chống đỡ, lắc lư chực đổ, không chịu sửa.
Binh tướng bình thường của Bắc đại doanh đều biết Trường Canh, rối rít tiến lên hành lễ chào hỏi, nhưng không hề biết Lý Phong, chỉ thấy hắn ăn vận cầu kỳ, khí độ bất phàm, liền cho là một quan văn, nhất loạt gọi đại là “đại nhân”.
Hai huynh đệ Lý gia bằng mặt không bằng lòng sóng vai đứng trên tường thành, từ diện mạo đến thân hình không một điểm tương tự, thân duyên mỏng như giấy dán cửa sổ, một ngón tay là chọc thủng.
Lý Phong thình lình nói với Trường Canh: “Chắc chiều nay là Hàn Kỳ có thể trở về, ngươi nhắn lại cho hoàng thúc, bảo y đến lúc đó tìm người tin được tiếp ứng một chút.”
Trường Canh cũng chẳng hỏi dò, tựa hồ không tò mò tí nào, chỉ thuận miệng đáp: “Vâng.”
Lý Phong: “Không hỏi trẫm cho Hàn Kỳ đi đâu à?”
Trường Canh nhìn xuống gạch đá tường thành, im lặng giây lát rồi nói: “Gần đây ta điều phối tử lưu kim và quân nhu của Hộ bộ, phát hiện trong vài năm lượng tử lưu kim xuất nhập của triều đình hơi đáng nghi… Nhưng khả năng là hoàng huynh tự có an bài.”
Hoàng đế Long An vừa nghe liền biết, chút ít tử lưu kim mình cất riêng sớm bị Trường Canh phát hiện rồi.
Lý Phong hơi xấu hổ nói: “À, trong Đức Thắng môn có một mật đạo thông đến Cảnh Hoa viên, trẫm bảo Hàn Kỳ lĩnh binh xuất thành từ chỗ này, mở tư khố của Cảnh Hoa viên, bên trong có… Khụ, mười sáu ngàn cân tử lưu kim trẫm chưa kịp phát xuống – ngươi đừng để lộ ra, trước mắt trong triều lòng người bất ổn, nếu biết chuyện mật đạo, chỉ sợ mọi người sẽ hoang mang.”
Trường Canh gật đầu, không hề ngạc nhiên – đây là Lý Phong vét hết gia sản ra rồi.
Bảo thủ như Hoàng đế Long An, không thể chịu nỗi nhục mất nước mà xưng thần với ai, hắn thà táng thân dưới cửu môn còn hơn.
Y vừa im lặng, thì giữa hai người liền không còn gì để nói – kỳ thực vẫn luôn vậy, ngoại trừ chính vụ trong triều và mấy lời vô nghĩa khách sáo khi thỉnh an, giữa huynh đệ Lý gia quả thật không có chuyện gì để nói.
Lý Phong: “Ngươi quen biết hoàng thúc từ năm bao nhiêu?”
Trường Canh: “… Tuổi mụ là mười hai.”
Lý Phong “À” một tiếng: “Y chưa thành gia, lại lĩnh binh ở Tây Bắc suốt, chắc hẳn không giỏi chăm sóc ngươi nhỉ?”
Tầm mắt Trường Canh hơi dao động: “Không có, y rất biết thương người ta.”
Lý Phong nheo mắt nhìn ánh dương xa vời, nhớ mình và Cố Quân cũng từng có tình cảm cùng nhau lớn lên, hồi nhỏ thỉnh thoảng vẫn ghen tị phụ hoàng mình đối xử với Cố Quân tốt hơn ôn nhu hơn, song đa số tình huống vẫn cảm thấy tiểu hoàng thúc này mặc dù không hay chơi với họ nhưng là người rất tốt.
Hắn cũng từng cho rằng chút tình cảm thiếu niên này có thể kéo dài suốt đời.
Thế nhưng chẳng qua mới mười mấy năm mà đã là tình cảnh thế này.
“A Mân,” Lý Phong mở miệng, “Nếu thành phá, trẫm sẽ truyền ngôi cho ngươi, ngươi dẫn hậu cung cùng bá quan đi theo mật đạo, dời đô đến Lạc Dương… Lại tính từ từ, rồi có một ngày sẽ quay về thôi.”
Trường Canh rốt cuộc nhìn hắn một cái.
“Nếu thực sự có một ngày như vậy,” Lý Phong chăm chú nhìn thẳng về phương xa, tiếp tục, “Ngươi cũng không cần hoàn vị cho Thái tử, cho các cháu ngươi một nơi dung thân là được.”
Trường Canh không trả lời, giây lát sau, y không hề xúc động mà hờ hững nói: “Hoàng huynh nói quá lời rồi, chưa đến bước ấy đâu.”
Lý Phong nhìn ấu đệ, mang máng nhớ những lời hồi nhỏ từng nghe mẫu hậu nói.
Bà nói nữ nhân đến từ Bắc man đều là yêu quái, giỏi nhất là dùng độc vật, mê hoặc lòng người, mai kia đẻ ra cũng là quái vật làm bẩn huyết mạch hoàng thất Đại Lương.
Sau đó An Định hầu đón tứ hoàng tử lưu lạc dân gian nhiều năm về cung, vì di nguyện của tiên đế và cái danh nhân đức của mình, Lý Phong giữ y lại, phủ nội vụ thêm một phần phân lệ mà thôi, chứ bình thường cũng là mắt không thấy lòng không phiền.
Mãi đến giờ khắc này, Hoàng đế Long An mới phát hiện hắn không nhìn thấu người trẻ tuổi này.
Đứng trước quốc nạn và đại địch không biến sắc, cửu ngũ chi tôn cũng khó mà kích động lòng y, quần áo trên người tựa hồ từ năm ngoái, cổ tay áo sờn rồi vẫn chưa thay.
Y còn khó nắm bắt hơn Liễu Si đại sư của Hộ Quốc tự, cái gì cũng không thích, giống như trên thế giới này không gì có thể lung lay được y vậy.
Lý Phong há miệng, lúc này, Chúc Chân Nhỏ bên cạnh thấp giọng nhắc nhở: “Hoàng thượng, nên hồi cung rồi.”
Lý Phong định thần lại, giao bội kiếm cho tướng sĩ bên cạnh, vỗ vai Trường Canh không nói gì, thoáng nhìn bóng lưng cao ráo rắn rỏi của người thanh niên ấy, đoạn quay lưng đi.
Sau khi Lý Phong đi, một hòa thượng mặt xám mày tro lên thành lâu – chính là Liễu Nhiên.
Tăng nhân Hộ Quốc tự đã rút hết vào thành, hắn đi theo trụ trì, ngày ngày niệm kinh cầu quốc vận, buổi tối lén điều tra những người bên cạnh Lý Phong.
Trường Canh nhìn hắn một cái.
Liễu Nhiên lắc đầu, ra dấu: “Ta đã tra một vòng, bên cạnh hoàng thượng lý lịch đều rất minh bạch, năm đó không có ai qua lại mật thiết với vu nữ mười tám bộ và thuộc hạ cả.”
Trường Canh: “Hoàng thượng trời sinh đa nghi, không phải loại người giấu không được, bên phía chúng ta nhiều lần lộ bí mật, nội ứng ấy nhất định là tâm phúc của y – ngươi đã tra Chúc công công chưa?”
Liễu Nhiên thần sắc ngưng trọng lắc đầu – từng tra, không có vấn đề gì.
Trường Canh hơi nhíu mày.
Lúc này, Cố Quân bị Trường Canh dùng thuốc hạ gục rốt cuộc tỉnh lại, y ngủ đến suýt nữa quên cả trời trăng, cho đến khi vết thương trên vai âm ỉ đau, mới muộn màng nhớ đã xảy ra chuyện gì.
Cố Quân bò dậy mặc quần áo, chuẩn bị đi tìm Trường Canh tính sổ.
Ai ngờ vừa ra liền nghe phương xa vọng đến một tiếng nổ, cả kinh thành đều chấn động, Cố Quân vịn tường thành, nghĩ: “Động đất?”
Trường Canh trên thành lâu quay phắt đầu lại, vẻ âm chí thoáng qua vùng chân mày – y vẫn cho rằng nội gian trong hoàng thành là cung nhân bên cạnh Lý Phong, nhưng với sự cẩn thận đa nghi của Lý Phong, sao có thể tiết lộ chuyện Cảnh Hoa viên cho nô tài?
Cố Quân: “Sao vậy?”
“Không biết,” Trường Canh rảo bước xuống, “Lý Phong vừa đến, nói y để Hàn Kỳ xuất phát từ mật đạo, đến Cảnh Hoa viên vận chuyển tử lưu kim… Đó là hướng Tây giao sao?”
Cố Quân giật mình tỉnh hẳn.
Ngày mùng chín tháng Năm, bí mật về Cảnh Hoa viên bị tiết lộ, người Tây Dương đến đàm hòa quả nhiên là ngụy trang, nhưng không phải là muốn thừa cơ công thành, mà là phái binh vòng đến Kinh Tây, nửa đường cướp giết Hàn Kỳ.
Hàn Kỳ vùng vẫy giãy chết, rốt cuộc không địch lại, quyết đoán kịp thời, một mồi lửa đốt sạch mười vạn tử lưu kim, trực tiếp nổ cửa mật đạo, ngọc nát đá tan.
Đại hỏa ấy như lửa cháy lan ra đồng cỏ nuốt chửng cả Tây giao, tử lưu kim đốt không hết như nghiệp hỏa từ dưới lòng đất, đốt sạch Ngự lâm quân áp tải tử lưu kim, người Tây Dương không kịp đề phòng, thậm chí cẩm tú sơn thủy, đình đài lầu các của Cảnh Hoa viên, khói tím đặc biệt như điềm lành chiếu rọi nửa bầu trời, tựa một luồng sáng đậm màu từ chân trời bay thẳng xuống-
Tâm đại địa đang cháy rực, cả kinh hoa đều chấn động.
Hơi nóng kéo dài mấy chục dặm, từ Tây giao chậm rãi đổ vào cửu môn vững như bàn thạch, kinh thành đầu hạ có thể nói là mát mẻ chớp mắt so được với lò lửa Nam Cương.
Mùi tử lưu kim vốn nhạt và khó nhận ra ngược gió đông tràn tới, mọi người rốt cuộc được nếm thứ mùi đặc thù ấy – vậy mà là một loại mùi thơm dịu khó miêu tả.
Như tùng hương pha lẫn vị cỏ cây.
Tất cả trọng giáp còn lại bị Cố Quân điều động hết, dây bạch hồng căng lên.
Mà không ngoài dự tính của y, đại quân Tây Dương lúc này quả nhiên cũng hành động.
Cố Quân không biết đám cháy ấy thiêu đi bao nhiêu quân Tây Dương, cũng không biết Giáo hoàng bị hao tổn nặng nề như thế còn cầm cự được bao lâu. Vây thành nhiều ngày, song phương đều đã đến cực hạn.
Mới qua giờ Mùi, đợt tấn công điên cuồng đầu tiên đã đến, trọng giáp và chiến xa luân phiên đi, lửa đạn và bạch hồng nối đuôi nhau, hỏa lực cực mạnh của song phương cơ hồ không có một chút khe hở.
Trong kinh thành lòng người hoảng sợ, xe ngựa rất thiếu, bình thường Cố Quân đều để Hoắc Đan dẫn ngựa chờ y ở ngoài cung, nhưng hôm nay không biết Hoắc Đan bị chuyện gì níu chân mà vẫn chưa thấy đâu.
Trường Canh mới đầu không để ý, sóng vai đi cùng lão viện trưởng Linh Xu viện, chậm rãi trở về.
Phụng Hàm công từ sáng đến tối cắm mặt trong Linh Xu viện, vành mắt đã hõm vào, cả người như cải củ bị rút khô nước, chỉ còn lại đôi mắt sáng rực, trông đặc biệt dính răng.
“Phiền điện hạ nhẫn nại đi theo đám lão già chân cẳng chậm chạp này,” Phụng Hàm công thở dài nói, “Viện quân đã có tin tức chưa, rốt cuộc khi nào thì có thể đến?”
Trường Canh: “Loạn tứ cảnh đã quẩn chân năm đại quân khu, trú quân địa phương như thế nào thì ngài cũng biết rồi. Mấy năm nay quân phí và tử lưu kim các châu lại nhiều lần cắt giảm, cơ bản cung ứng không nổi mấy trọng binh giáp, dùng toàn là khinh cừu. Khinh cừu cố nhiên hành quân nhanh, linh hoạt dễ điều động, nhưng cũng cực dễ bị ngăn trở, một khi quân địch bố trí trọng giáp hoặc chiến xa chặn dọc đường, nếu chủ tướng hơi thiếu kinh nghiệm, thì sẽ rất dễ để đội ngũ rơi vào trùng vây – quân Tây Dương thậm chí cũng chẳng cần bao nhiêu người.”
“Điện hạ thật sự khiến lão hủ xấu hổ vô cùng, Linh Xu viện đã nhiều năm liền không làm được thứ gì cho ra hồn,” Trương Phụng Hàm tự giễu lắc đầu, “Lão bất tử vô dụng này cũng chỉ ngồi không ăn bám, vốn định sang năm sẽ xin Hoàng thượng cho cáo lão, nào ngờ gặp quốc nạn, sợ là không được chết già.”
Trường Canh ôn hòa nói: “Công của Phụng Hàm công tồn tại ngàn thu, không thể tự coi nhẹ mình.”
“Ngàn thu… Qua ngàn thu có còn Đại Lương không?” Trương Phụng Hàm chép miệng, “Ta vốn tưởng rằng vào Linh Xu viện, là có thể không để ý chuyện bên ngoài, cả đời tiếp xúc với hỏa cơ cương giáp, chuyên tâm làm tốt việc của mình, nhưng thì ra thiên hạ này quá đông đúc, quân tử tiểu nhân dẫu mỗi kẻ một đường, cũng luôn có thể đụng đầu nhau, ngươi càng không muốn xen vào bất cứ chuyện gì, càng muốn xuất sắc hơn người mà làm chút việc, thì càng là cái gì cũng chẳng làm thành – cho dù chỉ muốn làm hạ cửu lưu tay dính đầy dầu máy.”
Trường Canh biết Phụng Hàm công chỉ đang tự cảm khái, chứ không hề muốn nghe y trả lời, liền chỉ cười mà không lên tiếng.
Đại Lương đi đến bước hiện giờ, mâu thuẫn tích tụ hai đời giữa hoàng quyền và quân quyền cố nhiên là mồi lửa, nhưng cũng không phải nguyên do căn bản nhất – cố tật trầm kha tại thời điểm quốc khố mỗi năm một teo đi, đã định trước kết cục thảm đạm này.
Trương Phụng Hàm: “Cọc ngầm của lưới cấm không ở Khởi Diên lâu đang điều chỉnh mỗi ngày, bọn Tây Dương đó hiện giờ chỉ dám đi binh xa, rất nhiều ưng giáp không dám lên, nhưng năng lượng trong cọc ngầm thủy chung có hạn. Ta nghe nói người Tây Dương ngày ngày dùng dây thừng kéo mộc diên ‘thả diều’ ở ngoài thành, chỉ sợ chẳng được mấy hôm, thiết tiễn dự trữ trong cọc ngầm sẽ khó lòng tiếp tục, đến lúc đó phải làm thế nào, Cố soái có kế hoạch chưa?”
Huyền ưng Bắc đại doanh hiện có, tính cả số thiếu tay cụt chân, tổng cộng chưa đến một trăm, một khi lưới cấm không mất đi hiệu lực, chỉ sợ cũng là lúc thành phá.
Trường Canh: “Ừm, y biết, đang nghĩ cách.”
Trương Phụng Hàm lòng đầy sầu lo nghe thế dở khóc dở cười, không biết nên nói Nhạn Bắc vương này là “anh hùng xuất thiếu niên”, hay nên nói y chậm tiêu, giống như dù là trời sập trước mặt, tiểu Vương gia kia cũng chỉ một câu “biết rồi” như không liên quan đến mình vậy.
Trương Phụng Hàm cố ý hạ giọng nói: “Hôm nay vào triều không thấy Hàn thống lĩnh của Ngự lâm quân, Vương gia có nhìn thấy không? Hiện tại trong triều có lời đồn, rằng Hoàng thượng ngoài mặt quở mắng sứ giả Tây Dương, thực tế đã tính toán dời đô rồi.”
Trường Canh cười cười, không hề giật mình: “Hoàng thượng sẽ không làm vậy, chúng ta cũng chưa đến lúc cùng đường, ta thấy xe của Linh Xu viện rồi, để ta đỡ ngài lên… A Hoắc bá đến rồi?”
Hoắc Đan dáng đi vội vàng, vẻ mặt lơ đãng, đi đến trước mặt Trường Canh: “Lão nô hôm nay đến muộn, xin Vương gia thứ tội.”
“Không sao,” Trường Canh khoát tay, “Hoắc bá hôm nay bị chuyện gì níu chân vậy?”
“…” Hoắc Đan cẩn thận liếc trộm thần sắc y, “Hầu gia đêm qua bị tên của người Tây Dương gây thương tích, ta cũng sáng sớm nay mới nghe nói, vừa đi rồi… Ơ, Vương gia!”
Trước sự trợn mắt há mồm của Hoắc Đan và Trương Phụng Hàm, Trường Canh mới thong thả đi bộ đột nhiên biến sắc, nhảy lên ngựa lao vút đi như một trận gió.
Khói thuốc súng trước cửu môn còn chưa tan, đại quân Tây Dương hửng sáng mới ngừng chiến rút đi, Cố Quân cũng được nghỉ ngơi chốc lát.
Kiên giáp huyền thiết lõm vào, mũi tên đã rút ra, hai quân y vây quanh Cố Quân, cầm kìm và kéo, cẩn thận nạy kiên giáp đã biến hình, quần áo bên trong đã dính vào thịt.
Trường Canh vội vàng xông tới, ánh mắt dừng trên người Cố Quân một chút, liền không nhịn được nhìn đi chỗ khác, sắc mặt thực sự còn khó coi hơn vị bị thương.
“A…” Cố Quân rùng mình, “Ta nói hai vị có thể dứt khoát chút không? Thêu hoa à – thế nào?”
Trường Canh không đáp, hít sâu một hơi tiến lên, cho hai quân y lui đi, khom lưng cẩn thận ngắm nghía mảnh giáp không gỡ được trên người Cố Quân một chút, lấy từ trong lòng ra một cái kìm sắt nhỏ chỉ dài bằng đầu ngón tay, ôm chặt vai Cố Quân, cắt xuống từ bên kia. Tay y cực nhanh, cái kìm nhỏ sắc lẻm chém sắt như chém bùn cắt thủng kiên giáp biến dạng, máu lập tức dính đầy tay.
Trường Canh vẻ mặt căng thẳng, nhất thời thở không nổi, thấp giọng nói: “Sao bị thương thế này mà không cho con biết?”
Cố Quân mới còn méo mặt lập tức cố nén đau, nghiến răng nghiến lợi nói: “Việc nhỏ – trên triều hội sứ giả Tây Dương nói thế nào?”
“Có thể nói thế nào, phát ngôn xằng bậy trên kim điện,” Trường Canh hoạt động ngón tay không vững một chút, lột mảnh giáp vụn bị máu dính trên người Cố Quân, “Muốn chúng ta giải trừ ‘bức hại cướp bóc’ cho các quốc gia Tây Vực, lãnh thổ bên ngoài Gia Dự quan làm thương khu vạn quốc, pháp luật trong thương khu dựa theo pháp trị ở nước họ, còn có…”
Kiên giáp biến dạng tháo cả xuống, Trường Canh nhìn chằm chằm vết thương của Cố Quân mà hít sâu một hơi, khó khăn đứng thẳng người nghỉ ngơi giây lát.
“Còn có… cái gì?” Cố Quân rùng mình, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, “Ta nói đại phu này, sao lão nhân gia còn sợ máu hả?”
Trường Canh cả người cứng như thiết bổng: “Con sợ máu của người.”
Y đoạt lấy bầu rượu của Cố Quân, dốc hai ngụm liền, đầu váng mắt hoa chực nôn, cố gắng hít thở chốc lát, mới cầm kéo lên cắt y phục không nhìn ra màu ban đầu.
“Còn có đem ba mươi sáu quận Bắc cương, tuyến Tây Kinh đến Trực Lệ U Châu về phía Bắc vạch hết cho mười tám bộ lạc, kinh thành Đại Lương dời đến Trung Nguyên Đông Đô – lại đưa Hòa Ninh công chúa đến mười tám bộ làm con tin, từ đây triều ta xưng thần với mười tám bộ, hàng năm tiến cống…”
Hòa Ninh là nữ nhi duy nhất của Lý Phong, mới bảy tuổi.
Cố Quân nổi giận: “Cái rắm!”
Y vừa cựa quậy thì máu liền trào ra, Trường Canh không nhịn được nữa quát: “Đừng nhúc nhích!”
Hai người nhìn nhau im lặng một lát, Cố Quân thần sắc không rõ hỉ nộ, một lúc lâu mới nói: “… Ngươi tiếp tục đi.”
“Ngoài ra, họ còn ép Lý Phong hạ lệnh, để Thẩm Dịch rút trú quân Nam Cương đóng ở chư đảo Nam Dương đi, trong ngoài vận hà Đông Hải chia sông mà trị, thủy sư Giang Nam lui vào trong, mé ngoài và tuyến Đông Hải vạch về khu Viễn Đông Tây Dương.” Trường Canh ánh mắt nặng nề, nhưng tay hết sức nhẹ nhàng lau vết thương cho y, dừng một thoáng lại tiếp, “Rồi còn khoản bồi thường chiến tranh…”
Cố Quân im lặng mà căng hết cơ bắp lên.
“Lúc lâm triều Lý Phong muốn chém sứ, được quần thần khuyên can.” Trường Canh nắm vai không bị thương của Cố Quân, “Con phải rửa vết thương, nghĩa phụ, tạm thời phong bế tri giác được chứ?”
Cố Quân lắc đầu.
Trường Canh ôn tồn khuyên nhủ: “Con chỉ dùng một ít thuốc, người có tính kháng dược mạnh, sẽ không ngủ lâu, nếu ngoại thành có biến, con thủ thay người…”
“Rửa thì rửa đi,” Cố Quân ngắt lời, “Đừng nói nhảm.”
Trường Canh nhìn y một cái, ý thức được nói lý lẽ với người này là vô dụng.
Đúng lúc này, Đàm Hồng Phi chạy tới nói: “Đại soái…”
Cố Quân vừa quay đầu lại liền nghe thấy một thứ mùi quỷ dị, không hề phòng bị hít vào một hơi, cả người tức thì mềm nhũn.
An Định hầu anh minh thần võ tuyệt đối không ngờ đến Quận vương điện hạ còn biết thủ đoạn giang hồ “tụ lý càn khôn” bất nhập lưu này, mà còn là dùng với mình!
Cố Quân: “Ngươi…”
Trường Canh mắt cũng không chớp, nhanh chóng đâm châm mảnh vào huyệt đạo của Cố Quân, sau đó đỡ lấy thân thể mất đi tri giác.
Đàm Hồng Phi trơ mắt nhìn chủ soái bị đánh ngã sững sờ ngay cửa, cùng Quận vương điện hạ thô lố mắt nhìn nhau: “…”
Trường Canh mặt không đổi sắc ra hiệu cho hắn im lặng, bế Cố Quân lên đặt ngay ngắn, bắt đầu cẩn thận làm sạch vết thương.
Đàm Hồng Phi trố mắt nhìn: “Đây… kia…”
Trường Canh: “Không sao, để y ngủ một lúc, bớt chịu tội đi.”
Đàm Hồng Phi chớp chớp mắt – Rất lâu trước, hắn vẫn cho rằng Nhạn Bắc vương điện hạ giống một thư sinh hòa hòa khí khí, sau đó phát hiện y đánh giỏi tính hay, rất đỗi bội phục, sinh lòng muốn thân cận… Mãi đến giờ khắc này, Đàm thống lĩnh mới trào lên sự sùng kính hừng hực đối với y.
Đàm Hồng Phi vô thức đưa tay sờ sờ mặt – vết sẹo bị Cố Quân quất vẫn chưa lặn – bụng nghĩ: “Vương gia cũng to gan thật.”
Trường Canh: “Đúng rồi, có chuyện gì thế?”
Đàm Hồng Phi lúc này mới hoàn hồn, vội nói: “Điện hạ, Hoàng thượng tới, xa giá ở ngay phía sau, ngài xem…”
Đang nói thì Lý Phong thần sắc tiều tụy vận thường phục đi tới, bên cạnh chỉ dẫn theo Chúc Chân Nhỏ.
Lý Phong cúi đầu nhìn Cố Quân hôn mê, lại đưa tay sờ thử trán y: “Hoàng thúc không sao chứ?”
“Bị thương da thịt thôi.” Trường Canh băng bó vết thương xong xuôi, khoác ngoại bào tơ mỏng lên người Cố Quân, thu dọn ngân châm: “Chỉ là ta dùng chút thuốc mê cho y, nhất thời chưa tỉnh lại được, hoàng huynh đừng chê trách.”
Đoạn Trường Canh đứng dậy cầm cát phong nhận của Cố Quân, mũ giáp cũng không mặc, quay người đi ra ngoài.
Lý Phong vội hỏi: “Sao thế?”
“Ta thay nghĩa phụ thủ thành một lúc,” Trường Canh nói, “Mặc dù sứ giả đang ở trong kinh, nhưng chỉ sợ là mê trận của người Tây Dương, chưa biết chừng sẽ nhân lúc chúng ta thả lỏng cảnh giác mà công thành, cẩn thận vẫn hơn.”
Lý Phong đứng ngây ra đó giây lát, đột nhiên cầm một thanh bội kiếm đi theo, Chúc Chân Nhỏ giật nảy mình: “Hoàng thượng!”
Lý Phong phớt lờ hắn, lên tường thành.
Nhờ thiên lý nhãn trong tay, Hoàng đế Long An nhìn thấy không xa là doanh trướng của quân Tây Dương, kinh giao ốc thổ, hiện giờ đã chồng chất vết thương. Ngoài kinh thành cửu môn ngày trước ngựa xe như nước nay tiêu điều là thế, tường thành sập một góc được huyền thiết giáp báo hỏng chống đỡ, lắc lư chực đổ, không chịu sửa.
Binh tướng bình thường của Bắc đại doanh đều biết Trường Canh, rối rít tiến lên hành lễ chào hỏi, nhưng không hề biết Lý Phong, chỉ thấy hắn ăn vận cầu kỳ, khí độ bất phàm, liền cho là một quan văn, nhất loạt gọi đại là “đại nhân”.
Hai huynh đệ Lý gia bằng mặt không bằng lòng sóng vai đứng trên tường thành, từ diện mạo đến thân hình không một điểm tương tự, thân duyên mỏng như giấy dán cửa sổ, một ngón tay là chọc thủng.
Lý Phong thình lình nói với Trường Canh: “Chắc chiều nay là Hàn Kỳ có thể trở về, ngươi nhắn lại cho hoàng thúc, bảo y đến lúc đó tìm người tin được tiếp ứng một chút.”
Trường Canh cũng chẳng hỏi dò, tựa hồ không tò mò tí nào, chỉ thuận miệng đáp: “Vâng.”
Lý Phong: “Không hỏi trẫm cho Hàn Kỳ đi đâu à?”
Trường Canh nhìn xuống gạch đá tường thành, im lặng giây lát rồi nói: “Gần đây ta điều phối tử lưu kim và quân nhu của Hộ bộ, phát hiện trong vài năm lượng tử lưu kim xuất nhập của triều đình hơi đáng nghi… Nhưng khả năng là hoàng huynh tự có an bài.”
Hoàng đế Long An vừa nghe liền biết, chút ít tử lưu kim mình cất riêng sớm bị Trường Canh phát hiện rồi.
Lý Phong hơi xấu hổ nói: “À, trong Đức Thắng môn có một mật đạo thông đến Cảnh Hoa viên, trẫm bảo Hàn Kỳ lĩnh binh xuất thành từ chỗ này, mở tư khố của Cảnh Hoa viên, bên trong có… Khụ, mười sáu ngàn cân tử lưu kim trẫm chưa kịp phát xuống – ngươi đừng để lộ ra, trước mắt trong triều lòng người bất ổn, nếu biết chuyện mật đạo, chỉ sợ mọi người sẽ hoang mang.”
Trường Canh gật đầu, không hề ngạc nhiên – đây là Lý Phong vét hết gia sản ra rồi.
Bảo thủ như Hoàng đế Long An, không thể chịu nỗi nhục mất nước mà xưng thần với ai, hắn thà táng thân dưới cửu môn còn hơn.
Y vừa im lặng, thì giữa hai người liền không còn gì để nói – kỳ thực vẫn luôn vậy, ngoại trừ chính vụ trong triều và mấy lời vô nghĩa khách sáo khi thỉnh an, giữa huynh đệ Lý gia quả thật không có chuyện gì để nói.
Lý Phong: “Ngươi quen biết hoàng thúc từ năm bao nhiêu?”
Trường Canh: “… Tuổi mụ là mười hai.”
Lý Phong “À” một tiếng: “Y chưa thành gia, lại lĩnh binh ở Tây Bắc suốt, chắc hẳn không giỏi chăm sóc ngươi nhỉ?”
Tầm mắt Trường Canh hơi dao động: “Không có, y rất biết thương người ta.”
Lý Phong nheo mắt nhìn ánh dương xa vời, nhớ mình và Cố Quân cũng từng có tình cảm cùng nhau lớn lên, hồi nhỏ thỉnh thoảng vẫn ghen tị phụ hoàng mình đối xử với Cố Quân tốt hơn ôn nhu hơn, song đa số tình huống vẫn cảm thấy tiểu hoàng thúc này mặc dù không hay chơi với họ nhưng là người rất tốt.
Hắn cũng từng cho rằng chút tình cảm thiếu niên này có thể kéo dài suốt đời.
Thế nhưng chẳng qua mới mười mấy năm mà đã là tình cảnh thế này.
“A Mân,” Lý Phong mở miệng, “Nếu thành phá, trẫm sẽ truyền ngôi cho ngươi, ngươi dẫn hậu cung cùng bá quan đi theo mật đạo, dời đô đến Lạc Dương… Lại tính từ từ, rồi có một ngày sẽ quay về thôi.”
Trường Canh rốt cuộc nhìn hắn một cái.
“Nếu thực sự có một ngày như vậy,” Lý Phong chăm chú nhìn thẳng về phương xa, tiếp tục, “Ngươi cũng không cần hoàn vị cho Thái tử, cho các cháu ngươi một nơi dung thân là được.”
Trường Canh không trả lời, giây lát sau, y không hề xúc động mà hờ hững nói: “Hoàng huynh nói quá lời rồi, chưa đến bước ấy đâu.”
Lý Phong nhìn ấu đệ, mang máng nhớ những lời hồi nhỏ từng nghe mẫu hậu nói.
Bà nói nữ nhân đến từ Bắc man đều là yêu quái, giỏi nhất là dùng độc vật, mê hoặc lòng người, mai kia đẻ ra cũng là quái vật làm bẩn huyết mạch hoàng thất Đại Lương.
Sau đó An Định hầu đón tứ hoàng tử lưu lạc dân gian nhiều năm về cung, vì di nguyện của tiên đế và cái danh nhân đức của mình, Lý Phong giữ y lại, phủ nội vụ thêm một phần phân lệ mà thôi, chứ bình thường cũng là mắt không thấy lòng không phiền.
Mãi đến giờ khắc này, Hoàng đế Long An mới phát hiện hắn không nhìn thấu người trẻ tuổi này.
Đứng trước quốc nạn và đại địch không biến sắc, cửu ngũ chi tôn cũng khó mà kích động lòng y, quần áo trên người tựa hồ từ năm ngoái, cổ tay áo sờn rồi vẫn chưa thay.
Y còn khó nắm bắt hơn Liễu Si đại sư của Hộ Quốc tự, cái gì cũng không thích, giống như trên thế giới này không gì có thể lung lay được y vậy.
Lý Phong há miệng, lúc này, Chúc Chân Nhỏ bên cạnh thấp giọng nhắc nhở: “Hoàng thượng, nên hồi cung rồi.”
Lý Phong định thần lại, giao bội kiếm cho tướng sĩ bên cạnh, vỗ vai Trường Canh không nói gì, thoáng nhìn bóng lưng cao ráo rắn rỏi của người thanh niên ấy, đoạn quay lưng đi.
Sau khi Lý Phong đi, một hòa thượng mặt xám mày tro lên thành lâu – chính là Liễu Nhiên.
Tăng nhân Hộ Quốc tự đã rút hết vào thành, hắn đi theo trụ trì, ngày ngày niệm kinh cầu quốc vận, buổi tối lén điều tra những người bên cạnh Lý Phong.
Trường Canh nhìn hắn một cái.
Liễu Nhiên lắc đầu, ra dấu: “Ta đã tra một vòng, bên cạnh hoàng thượng lý lịch đều rất minh bạch, năm đó không có ai qua lại mật thiết với vu nữ mười tám bộ và thuộc hạ cả.”
Trường Canh: “Hoàng thượng trời sinh đa nghi, không phải loại người giấu không được, bên phía chúng ta nhiều lần lộ bí mật, nội ứng ấy nhất định là tâm phúc của y – ngươi đã tra Chúc công công chưa?”
Liễu Nhiên thần sắc ngưng trọng lắc đầu – từng tra, không có vấn đề gì.
Trường Canh hơi nhíu mày.
Lúc này, Cố Quân bị Trường Canh dùng thuốc hạ gục rốt cuộc tỉnh lại, y ngủ đến suýt nữa quên cả trời trăng, cho đến khi vết thương trên vai âm ỉ đau, mới muộn màng nhớ đã xảy ra chuyện gì.
Cố Quân bò dậy mặc quần áo, chuẩn bị đi tìm Trường Canh tính sổ.
Ai ngờ vừa ra liền nghe phương xa vọng đến một tiếng nổ, cả kinh thành đều chấn động, Cố Quân vịn tường thành, nghĩ: “Động đất?”
Trường Canh trên thành lâu quay phắt đầu lại, vẻ âm chí thoáng qua vùng chân mày – y vẫn cho rằng nội gian trong hoàng thành là cung nhân bên cạnh Lý Phong, nhưng với sự cẩn thận đa nghi của Lý Phong, sao có thể tiết lộ chuyện Cảnh Hoa viên cho nô tài?
Cố Quân: “Sao vậy?”
“Không biết,” Trường Canh rảo bước xuống, “Lý Phong vừa đến, nói y để Hàn Kỳ xuất phát từ mật đạo, đến Cảnh Hoa viên vận chuyển tử lưu kim… Đó là hướng Tây giao sao?”
Cố Quân giật mình tỉnh hẳn.
Ngày mùng chín tháng Năm, bí mật về Cảnh Hoa viên bị tiết lộ, người Tây Dương đến đàm hòa quả nhiên là ngụy trang, nhưng không phải là muốn thừa cơ công thành, mà là phái binh vòng đến Kinh Tây, nửa đường cướp giết Hàn Kỳ.
Hàn Kỳ vùng vẫy giãy chết, rốt cuộc không địch lại, quyết đoán kịp thời, một mồi lửa đốt sạch mười vạn tử lưu kim, trực tiếp nổ cửa mật đạo, ngọc nát đá tan.
Đại hỏa ấy như lửa cháy lan ra đồng cỏ nuốt chửng cả Tây giao, tử lưu kim đốt không hết như nghiệp hỏa từ dưới lòng đất, đốt sạch Ngự lâm quân áp tải tử lưu kim, người Tây Dương không kịp đề phòng, thậm chí cẩm tú sơn thủy, đình đài lầu các của Cảnh Hoa viên, khói tím đặc biệt như điềm lành chiếu rọi nửa bầu trời, tựa một luồng sáng đậm màu từ chân trời bay thẳng xuống-
Tâm đại địa đang cháy rực, cả kinh hoa đều chấn động.
Hơi nóng kéo dài mấy chục dặm, từ Tây giao chậm rãi đổ vào cửu môn vững như bàn thạch, kinh thành đầu hạ có thể nói là mát mẻ chớp mắt so được với lò lửa Nam Cương.
Mùi tử lưu kim vốn nhạt và khó nhận ra ngược gió đông tràn tới, mọi người rốt cuộc được nếm thứ mùi đặc thù ấy – vậy mà là một loại mùi thơm dịu khó miêu tả.
Như tùng hương pha lẫn vị cỏ cây.
Tất cả trọng giáp còn lại bị Cố Quân điều động hết, dây bạch hồng căng lên.
Mà không ngoài dự tính của y, đại quân Tây Dương lúc này quả nhiên cũng hành động.
Cố Quân không biết đám cháy ấy thiêu đi bao nhiêu quân Tây Dương, cũng không biết Giáo hoàng bị hao tổn nặng nề như thế còn cầm cự được bao lâu. Vây thành nhiều ngày, song phương đều đã đến cực hạn.
Mới qua giờ Mùi, đợt tấn công điên cuồng đầu tiên đã đến, trọng giáp và chiến xa luân phiên đi, lửa đạn và bạch hồng nối đuôi nhau, hỏa lực cực mạnh của song phương cơ hồ không có một chút khe hở.
/100
|