Thấy người đàn ông đầu trọc đã đi xa, tôi lập tức hỏi Lão Ngũ, vừa xong chuyện gì vừa xảy ra, người đó là ai? Lão Ngũ nói nhỏ với tôi, Lục Lão Tam chính là trưởng môn Đạo phái tại Hắc Long Giang. Lục Lão Tam đã đạt tới trình độ cao và cũng tới Lư sơn Luận Đạo. Những người trong phái Đạo môn khi gặp nhau thường sẽ chào nhau bằng một nghi thức gọi là Chỉ khấu, đưa số ngón tay đúng với cấp bậc đang có, rồi gõ lên lòng và mu bàn tay để thay cho lời chào. Đã hai mươi năm không gặp mà bản lĩnh của tên đệ này đã tiến bộ vượt bậc, nên tự ta đã tăng cho hắn một bậc.
Nghe thấy vậy, tôi vội vàng hỏi:
- Lão Ngũ, vậy là ông ta chỉ thấp hơn lão một bậc?
Lão Ngũ phì một tiếng, xoa xoa chiếc cằm rồi bĩu môi nói:
- Mẹ kiếp, một bậc này cũng đủ cho hắn luyện đến khi chết.
Chúng tôi vẫn đang thì thầm to nhỏ với nhau, thì gã béo đối diện bỗng nhiên la toáng rồi nhảy cẫng lên, lộn chiếc mũ áo ra trước để đổ đống mì đang nóng hôi hổi xuống đấy, chửi ầm ĩ:
- Mẹ kiếp, thằng nào mất dạy thế… - Khiến tất cả mọi người trên khoang tài đều cười khoái chí.
Tôi và chị Giai Tuệ trao nhau một ánh mắt đầy ngụ ý, tự cảm thấy Lục Lão Tứ quả là một người lợi hại, bát mì nóng như thế lại có thể đổ vào mũ áo của gã béo kia mà không ai hay biết, đây có lẽ chính là thuật Thiết lưu mà Lão Ngũ đã từng biểu diễn cho chúng tôi xem.
Tàu chạy được hơn hai tiếng, khoảng sáu giờ năm mươi phút chúng tôi đã tới huyện Câu Bang Tử thuộc thành phố Bắc Trấn, ngoài trời đã tối om.
Vừa bước ra khỏi nhà ga, cả một đám người ùn ùn kéo tới mời chào đi taxi và cho thuê nhà nghỉ. Một mụ đàn bà khoảng tầm trung niên mắt xanh mỏ đỏ trông như yêu tinh vội lao tới kéo mạnh tay áo Lão Ngũ và uốn éo mời chào:
- Sư phụ, sư phụ, nghỉ nhà em nhé, nhà em có bảo kiếm.
Lão Ngũ liền trừng mắt vỗ lên thắt lưng, mặt lạnh tanh đáp:
- Mẹ kiếp, bảo kiếm ta cũng có, nhà cô có bảo đao không?
Thấy thái độ dữ tợn của Lão Ngũ, bà ta liền phụng phịu, ngúng nguẩy bỏ đi, rồi tiến tới mời chào người đàn ông khác.
Tôi ngơ ngác hỏi chị Giai Tuệ:
- Ở đây bán bảo kiếm á, hay chúng ta mua một cái về làm kỉ niệm?
Chị Giai Tuệ cười khúc khích, ghé sát vào tai tôi nói nhỏ vài câu. Mặt tôi bỗng đỏ bừng bừng, thì ra đó là bảo kiện[1]! Mặc dù tôi không hiểu lắm, nhưng chắc chắn nó mang một ý nghĩa không hay ho cho lắm.
[1] Dịch vụ gái gọi.
Chúng tôi tìm một nhà nghỉ để nghỉ tạm một đêm. Sau khi ăn cơm tối xong, mọi người tập trung tại một phòng để nói chuyện. Lão Ngũ khoanh chân trên giường, xoa xoa cằm rồi không ngừng lắc đầu thở dài. Tôi thấy thắc mắc liền hỏi lão có chuyện gì.
Lão thở dài thườn thượt, nói về chặng đường tu luyện để đạt được cấp năm, giờ muốn tiến thêm một bậc nữa, nhưng sẽ rất mất sức, hai mươi năm trời khổ luyện mà cũng không tăng được bậc nào, lại còn mất thêm mười mấy năm ngồi trong tù.
Tôi thấy có chút tò mò, liền hỏi lão:
- Lão Ngũ, lão ngồi tù không phải là để tu luyện đấy chứ?
Lão Ngũ liếc sang tôi, cười khoái chí và chỉ khẽ gật đầu mà không nói gì. Tôi và chị Giai Tuệ quay sang nhìn nhau, không hiểu vì sao Lão Ngũ lại phải làm như thế.
Một lúc sau, Lão Ngũ mới thao thao bất tuyệt kể cho chúng tôi:
- Tên Lục Tứ gặp lúc chiều trên tàu, cũng được coi là một tên có chí, nhưng vẫn chẳng là gì… mẹ kiếp, ý chí của ta còn hừng hực hơn thế…
Nói đến đây, đôi mắt lão trở nên sáng quắc, rồi nhảy tót từ trên giường xuống đất, buông hai chân trần đứng dưới sàn nhà rồi nói với tôi:
- Nhóc con, lúc còn ở dưới lòng Cố Cung ta đã nghĩ rằng, ta không thể để Đạo môn thất truyền ngay dưới tay ta được, hay là… Lão Ngũ này nhận mi làm đệ tử. Mi thấy sao?
Thấy ánh mắt ngập tràn niềm hi vọng của lão, lúc đó thực sự tôi cũng thấy xiêu lòng và phấn khích vô cùng, nên đã lập tức đồng ý trả lời:<>
- Vâng ạ! - Nói rồi, tôi liền cúi gập người bái Lão Ngũ làm sư phụ.
Lão Ngũ đỡ tôi đứng dậy, rồi cười tít, hai mắt như nhắm tịt cả lại, lão xoa đầu tôi, nói:
- Tốt lắm, mi yên tâm, ta nhất định sẽ truyền lại cho mi tất cả những kinh nghiệm và khả năng của mình. Trước tiên là dạy cho mi ba chiêu.
Thì ra trước khi được nhận làm đồ đệ của Đạo môn, sư phụ sẽ đưa ra ba thử thách, và cũng là ba loại Bả Thế, để kiểm tra khả năng của đồ đệ, nếu vượt qua được thì người đó mới được nhận vào. Tôi vội hỏi lão đó là ba chiêu gì, Lão Ngũ cười ha hả rồi chỉ ra bệ cửa.
Tôi quay đầu nhìn sang, trên cửa sổ bày một chậu hoa thủy tiên, đang nở hơn chục bông hoa. Lão Ngũ xỏ dép rồi tiến tới ngắt một bông, sau đó quay người lại, ánh mắt như ngầm nói rằng hãy quan sát thật kỹ.
Tay trái lão cầm cuống hoa, bên tay phải bốn ngón duỗi thẳng, nhẹ nhàng vuốt qua các cánh hoa, rồi quay trở lại, một cánh hoa lập tức biến mất. Lão tiếp tục thực hiện thêm sáu lần, thì sáu cánh hoa cũng lần lượt không cánh mà bay, chỉ còn sót lại phần nhụy hoa.
Lão Ngũ ngửa tay lên, trên đầu ngón tay dính sáu cánh hoa, lại còn xếp thành một hình tròn trịa.
Tôi và chị Giai Tuệ cùng đồng thanh thốt lên:
- Bả Thế của Lão Ngũ thật tuyệt vời.
Lão Ngũ cười khoái chí hỏi tôi:
- Nhóc con, mi đoán xem đây là Bả Thế gì?<>
Tôi nghĩ một lúc, vội lên tiếng:
- Là hái hoa?
Câu trả lời của tôi khiến chị Giai Tuệ cười nắc nẻ, Lão Ngũ thì tỏ vẻ tức tối, sầm mặt xuống.
- Con nhóc chết tiệt này, làm mất mặt Lão Ngũ này quá, từng này tuổi rồi còn hoa hoét gì… - Dừng lại một lúc, lão mới nói. - Đây là chiêu Niêm hoa, mục đích là thử khả năng của các đầu ngón tay. Mẹ kiếp, đạo vật không đạo hương… tạm thời thế, giờ cho các ngươi xem chiêu thứ hai.
Lão Ngũ nhờ chị Giai Tuệ rút từ chiếc ga giường ra hơn chục sợi vải có màu sắc khác nhau, rồi buộc thành một túm. Tay trái kẹp một đầu túm sợi vải, chỉ để lộ ra một đoạn rất ngắn, tay phải đập mạnh xuống, sau đó lại nhanh chóng nhấc lên, một sợi vải màu xanh cũng bị rút theo, giống như dính liền với lòng bàn tay.
Bàn tay phải của lão thoăn thoắt, vỗ xuống liên hồi… bộp bộp bộp… mỗi lần dừng lại là một sợi vải theo đó bị rút ra, chỉ một thoáng sau, tất cả chỗ sợi vải đều lần lượt bị rút ra khỏi lòng bàn tay trái.
Lão ngửa bàn tay phải lên, tôi vươn cổ ngó tới, thì ra hơn chục sợi vải đó kẹp ở giữa lòng bàn tay, trong một đường rãnh hình vòng cung đều tăm tắp, đang bay phấp phơ, mà không một sợi rơi xuống. Lão nói với chúng tôi, đây chính là chiêu thứ hai, gọi là Đề tơ dùng để thử khả năng của lòng bàn tay.
Tôi tò mò sờ vào lòng bàn tay lão, cảm giác các đường chỉ tay sâu hơn của người bình thường, giống như bị dao cứa tạo thành đường vậy, hơn nữa chúng còn được phân thành nhiều tầng nhánh nông sâu chi chít, giống như một màng nhện thu nhỏ vậy.
Lão Ngũ nắm chặt bàn tay lại rồi nói:
- Hai chiêu vừa rồi mới chỉ là cơ bản, đến chiêu thứ ba khó hơn một chút. - Lão bảo tôi tháo chiếc nhẫn trên ngón tay ra, ngắm nghía kỹ càng, rồi cầm một tờ báo đang đặt trên bàn uống nước lên, xé thành nhiều mảnh, sau đó đặt chiếc nhẫn vào bên trong, vo thành một nắm ném vào trong chiếc gạt tàn, rồi đốt thành tro.
Trong lúc tôi vẫn chưa hiểu Lão Ngũ định làm trò gì, thì lão từ từ đưa bàn tay phải ra, úp lòng bàn tay lên chiếc gạt tàn rồi khẽ lắc nhẹ vài cái, sau đó mới từ từ kéo tay lại. Chiếc gạt tàn khẽ rung lên rồi xuất hiện vài vết nứt nhỏ, nhưng không tách ra.
Tôi đang định hỏi lại, thì Lão Ngũ đã cười hề hề, rồi lật tay lên, chiếc nhẫn đã nằm gọn trong lòng bàn tay lão. Lòng bàn tay và cả chiếc nhẫn đều không bị dính tàn tro, mà vẫn sạch sẽ như chưa hề động vào đó.
Tôi ngỡ ngàng đến mức phải thốt lên tán thưởng, vội vàng lao tới cầm lấy chiếc nhẫn, cảm thấy vẫn còn hơi nóng tay, chắc chắn là vừa được lôi từ trong lửa ra.
Lão Ngũ tỏ vẻ đắc ý, xoa cằm và nói:
- Hai nhóc, đã nhìn thấy chưa, đây chính là chiêu thứ ba gọi là Xuyên khôi.
Tính cách Lão Ngũ đã nói là phải làm luôn, nên sau khi thực hiện xong ba chiêu, lão lập tức dạy và giải thích cho tôi thật tỉ mỉ về ba chiêu vừa xong. Tôi loay hoay mãi mà vẫn không làm được cảm thấy mình thật chậm chạp và vô tích sự. Nhưng lão lại tỏ ra hứng chí và thích thú, nói rằng bây giờ không thực hiện được là điều bình thường, chỉ cần nắm được vấn đề cơ bản và thực hiện đúng cách thôi đã là tốt rồi, sau này từ từ tập luyện chắc chắn sẽ lợi hại không kém.
Cả đêm đó không ai nói với ai câu nào, sáng sớm ngày hôm sau, chúng tôi dậy từ rất sớm, thuê một chiếc xe vào trong trung tâm Bắc Trấn. Đây là một thị trấn bé xíu nghèo nàn chẳng có gì đáng xem, chị Giai Tuệ hỏi đường tới phòng cảnh sát Bắc Trấn, rồi dẫn chúng tôi tới gặp trưởng phòng ở đấy.<>
Vị trưởng phòng đó họ Lưu, do đã nhận được chỉ thị của cấp trên, hơn nữa tôi và chị Giai Tuệ dù sao cũng là cảnh sát hình sự trên tỉnh, cũng coi như là cấp trên, nên thái độ của anh ta rất nhiệt tình, lập tức điều quân thu xếp cho chúng tôi ở một khách sạn tốt nhất và hỏi chúng tôi về những kế hoạch trong những ngày tới.
Vừa biết chúng tôi sẽ tới động Lão Mẫu, anh ta không có ý kiến gì, mà chỉ với chúng tôi, hàng năm trước và sau ngày mười chín tháng Hai âm lịch, có rất nhiều du khách tới đây dâng hương và bái đức Thánh mẫu, trung bình khoảng mười nghìn lượt khách mỗi năm. Hôm nay đã là ngày mười tám, cả phòng cảnh sát đã tập trung lực lượng, để đảm bảo ngày hội diễn ra trong trật tự và an toàn. Đây cũng được coi là một thắng cảnh thu hút đông người đến đây, nên chúng tôi phải thay đồ cảnh sát, để tránh sự nghi ngờ của những người tham dự lễ hội.
Sau khi bàn bạc ổn thỏa thì đã đến giữa trưa, mọi người cùng nhau đi ăn cơm, Trưởng phòng Lưu mời chúng tôi tới khách sạn dùng bữa, còn có thêm một vị phó phòng đi cùng.
Sau đó, chúng tôi về khách sạn nghỉ ngơi, ngủ trưa xong ngoài trời đã tối, ăn tối xong xuôi, chúng tôi đều mang theo vật dụng cần thiết theo mình, rồi nhờ vị phó phòng lái xe đưa chúng tôi tới miếu Bắc Trấn nằm ở phía tây. Để người đó đứng đợi ở ngoài, cả ba chúng tôi cùng nhau đi vào miếu.
Miếu Bắc Trấn là một ngôi miếu thờ thần linh khá linh thiêng, phía sau miếu dựa sát vào núi, miếu có diện tích rất rộng lớn, trước mặt là những bậc thang bằng đá chạy từ hướng Nam cao dần tới hướng Bắc, khí trời đang rất trong lành thoáng đãng, giờ lại bắt đầu có tuyết rơi, ánh trăng cũng đang lạnh lùng chiếu sáng khắp mọi nơi, trừ những bông tuyết rơi ra khung cảnh tĩnh mịch một cách bất thường, khiến cho tôi bất chợt có cảm giác thê lương vô cùng.
Mặt trước của ngôi miếu là một khoảng không rất rộng, ở giữa là cổng đá sáu cột màu trắng, phía sau là tượng bốn con vật bằng đá với hình hài rất kỳ lạ, dưới ánh trăng chúng im lìm in bóng xuống mặt đất. Bốn con vật bằng đá rất lớn, đang há miệng giương móng vuốt, bề mặt đá đã điểm nhiều vết rong rêu và nứt nẻ, mỗi con mang một trạng thái khác nhau, nhưng đều rất hung dữ. Tôi thấy chúng có vẻ giống sư tử nhưng nhìn kỹ lại trông giống những con chó khổng lồ.
Lão Ngũ nhón chân bước tới, ngó nghiêng nhìn ra bốn phía xem xét tình hình, khi đã chắc chắn xung quanh không có người, lão mới chỉ tay vào bốn bức tượng đá và khẽ nói:
- Hai đứa biết không, bốn con vật này vốn tượng trưng cho Hỉ Nộ Ai Lạc, chúng là bốn con sư tử đá. Dựa vào những điều ghi trong cuốn Giải kiện tập lục thì chúng ta phải tìm cho ra chiếc chìa khóa mở động Lão Mẫu giấu bên trong miệng các con sư tử này.
Tôi khẽ gật đầu, rồi lập tức tiến tới trước một bức tượng để quan sát kỹ hơn. Tôi phát hiện thấy dưới chân con sư tử là một phiến đá hình chữ nhật, một mặt được nối liền một khối với con sư tử, mặt dưới lại liền với mặt đất, có thể là từ lúc xây dựng, người ta đã cố tình để lại bốn tảng đá lớn, rồi mới từ từ khắc chúng. Thế nhưng công trình này có vẻ cũng rất đồ sộ và công phu khi dành hẳn một khoảng rộng lớn như vậy chỉ để bày bốn con sư tử đá.
Sau khi xem xét phía ngoài không có gì đáng ngờ, chị Giai Tuệ mới ngồi xuống để tôi trèo lên vai, bước lên bục đá, tay bám chặt vào đầu sư tử. Áp sát người vào bức tượng, tôi từ từ thò vào bên trong miệng con sư tử để cố gắng tìm ra chiếc chìa khóa. Tôi thấy phía bên trong miệng không hề gồ ghề như tôi nghĩ, mà hết sức nhẵn nhụi, chắc chắn là nó đã được mài rất kĩ.
Cho tới khi cả cánh tay đã thọc sâu vào bên trong, đầu ngón tay vừa chạm tới vị trí cuống họng, thì tôi chợt phát hiện ra phía trong cuống họng có một vòng khuyên to bằng miệng bát, qua đánh giá ban đầu, tôi nghĩ nó làm bằng kim loại. Thử kéo vòng tròn đó về phía mình, nhưng không có phản ứng gì. Tôi nhảy xuống, tiếp tục đi tới ba con sư tử còn lại để kiểm tra lại, thì ra bên trong họng của chúng đều có cấu tạo giống y hệt nhau, hơn nữa đây có thể chính là bí mật.
Tôi nói lại tình hình cho Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, Lão Ngũ liền vỗ vai tôi nói rằng:
- Vậy thì không mau giải quyết nó đi, còn lề mề gì nữa. Luận Đạo cũng sắp diễn ra rồi, không nhanh tay lên thì không còn lúc nào nữa đâu.
Tôi không dám chần chừ thêm một phút giây nào nữa, lập tức chọn một con sư tử đá, lấy ra một chiếc kim móc từ trong túi, cẩn thận cào vào trong miệng nó. Thế nhưng cho dù tôi có dùng cách nào đi chăng nữa, thì trong miệng sư tử đá cũng không có một chút động tĩnh gì, chiếc vòng sắt kia như được gắn cố định vào trong họng. Tôi bắt đầu cuống lên, chuyển sang ba con còn lại thử xem sao, kết quả vẫn không có gì thay đổi.
Thời gian cứ thế mải miết trôi đi, chẳng mấy chốc đã hết một tiếng đồng hồ loay hoay với bốn tượng sư tử, mà tôi vẫn không tìm ra manh mối nào. Lão Ngũ cũng thật là phiền phức, liên tục quay sang chị Giai Tuệ hỏi giờ, rồi quay lại giục tôi, khiến tôi càng thêm rối trí, mồ hôi vã ra đầm đìa.
Thấy bốn bức tượng sư tử vẫn đứng yên bất động, tôi cố gắng nghĩ lại thật tỉ mỉ những thao tác vừa xong, xem rốt cuộc mình đã thực hiện sai ở bước nào? Những bông tuyết rơi mỗi lúc một dày hơn, chúng bay cả vào trong cổ áo tôi, lập tức tan thành nước lạnh toát, tôi cố gượng để không rét run lên cầm cập. Lập tức dựng cổ áo lên, rồi vô thức ngẩng cổ nhìn lên.
Bầu trời vẫn một màu xám xịt, dưới ánh trăng sáng những bông tuyết rơi dày như những đường kẻ sọc từ trên trời xuống, cảnh tượng rất đẹp và nên thơ. Bỗng nhiên, tôi sực nhớ ra, liền cúi xuống nhìn về với bốn bức tượng sư tử đá. Tôi thấy chúng đều đang ngẩng mặt lên trời, hai hàm há rộng tạo thành một góc chéo, hướng thẳng lên đỉnh cổng đá.
Tôi bước tới đứng dưới cổng đá, hơi kiễng chân nhìn lên, đó là một phiến đá hình chữ nhật, ở giữa khảm một vật hình cầu tròn, ánh trăng giống như rọi qua một lớp lưới, rõ ràng đó là một khối rỗng.
Tôi liền gọi Lão Ngũ tới, lão cũng ngẩng đầu quan sát kỹ lưỡng, sau đó tự gõ lên đầu mình một cái rồi nói:
- Cổ ngữ nói Long thốn cầu, sư thưởng cầu. Bên trong quả cầu đó chắc chắn cất giữ điều gì đó, hay đấy, hay đấy!
Nói rồi, Lão Ngũ lùi ra sau vài bước, rồi lao lên phía trước, một chân đạp thật mạnh lên cột đá lấy đà rồi lập tức búng người nhảy lên cao, lão bám vào giữa lưng chừng cột đá rồi leo dần lên trên giống như một con khỉ đang leo cây.
Lão Ngũ đu lên xà ngang, đưa một tay ra sờ lên quả cầu tròn, rồi lập tức hét toáng lên:
- Lan Lan, đến đây xem xem, có cái này rất hay! - Vừa nói hết câu, lão đã quắp hai chân vào xà ngang, đu người và dốc ngược hai tay xuống, chị Giai Tuệ đứng dưới để làm điểm tì cho tôi trèo lên, rồi Lão Ngũ cầm lấy hai tay tôi, nhấc bổng cả người tôi lên.
Lão Ngũ ôm thật chặt thắt lưng tôi từ đằng sau, để tôi có thể giữ yên vị trí. Tôi rướn cổ lên cao, mở thật to đôi mắt để nhìn cho rõ hơn. Tôi phát hiện ra quả cầu rỗng đó làm bằng đá, những đường hoa văn bọc bên ngoài hết sức tinh tế, tổng thể to gần bằng quả bóng chuyền, bên trong còn lồng thêm hai quả cầu tròn nhỏ hơn. Tôi lưỡng lự một lúc, rồi từ từ chọc đầu ngón tay qua khe hở, khoắng một vòng, hai quả cầu nhỏ bên trong liên tục chuyển động va vào nhau, phát ra những tiếng lách cách. Ánh trăng từ bên ngoài chiếu vào, sáng long lanh như hai viên ngọc.
Trong đầu tôi liên tưởng tới hình ảnh cả bốn con sư tử cùng hướng lên trên, hơn nữa ba quả cầu bên trên lồng vào nhau tạo thành một tổ hợp cầu mẫu tử, vậy là muốn biểu thị ý nghĩa gì, lẽ nào…
Tôi vẫn đang miên man trong dòng suy nghĩ, thì bỗng nhiên nghe giọng chị Giai Tuệ từ phía dưới vọng lên:
- Lan Lan, sao rồi?
Tôi vội vàng cúi xuống, đang định trả lời chị thì lập tức lặng người, phát hiện ra phía trước ngực chiếc áo da của chị Giai Tuệ có in một hình tròn màu bạc với nhiều họa tiết rất lạ mắt.
Tôi vội thốt lên:
- Chị Giai Tuệ, trên… trên… áo chị… có cái gì ý. Chị Giai Tuệ lập tức tiến lên trước vài bước, nói:
- Cái gì? - Đúng lúc ấy, hình ảnh trên áo chị bỗng dưng biến mất.
Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cùng hỏi lại tôi đã nhìn thấy cái gì. Bình tĩnh suy xét, tôi bỗng nhớ lại hình quả cầu to bọc hai quả cầu nhỏ phía trên đầu, liền bảo chị Giai Tuệ lùi vài bước ra sau, quay lại vị trí ban nãy.
Chị vừa đặt chân vào vị trí vừa xong, hình tròn màu bạc lại lập tức hiện ra, tôi quan sát kỹ hơn, thì ra ánh trăng xuyên qua quả cầu lớn sẽ bị cắt thành hình hai đầu sư tử nhỏ in xuống dưới.
Tôi nhìn chằm chằm, trong đầu bỗng dưng nhớ lại lời ông nội đã nói, đây là loại khóa Truy quang thấu ảnh vẫn được nhắc đến trong truyền thuyết. Loại khóa này thường được thiết kế ở những vùng hoang dã với không gian rộng lớn, mượn ánh sáng phản quang trong tự nhiên, để tạo thành một đường dẫn duy nhất, phía trước mặt là lớp tuyết trắng dày, nhưng nếu như chị Giai Tuệ không vô tình đứng đúng vào vị trí đó, cũng như không mặc chiếc áo da màu đen dễ bắt sáng thì tôi cũng không thể phát hiện ra điều đó.
Khi nghe tôi nói xong, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đều hào hứng vô cùng, bắt tôi phải giải thích lại tỉ mỉ hơn. Tôi nói với hai người rằng, quả cầu mẫu tử bên trên tạo thành một tổ hợp ba quả cầu lồng vào nhau, mỗi một quả cầu đều có thể xoay chuyển một trăm tám mươi độ, dựa vào bí quyết khóa vòng, thì đây chính là chiếc khóa Nguyệt ba vòng, thêm bốn chiếc vòng khác nằm bên trong miệng bốn con sư tử, gọi là khóa Phồn tinh bốn vòng, tập hợp của ba và bốn, vừa khớp với thuật Thất hoàn sao sơn xuyên. Chẳng trách trong cuốn Giải kiện tập lục có ghi chú rằng, người mở khóa nhất định phải tới miếu Bắc Trấn vào buổi tối có trăng, tìm chìa khóa ở miệng bốn tượng con sư tử đặt trước cổng.
Chị Giai Tuệ đã hiểu ra vấn đề, gật đầu lia lịa và lập tức cởi chiếc áo khoác đang mặc trên người, rồi phủi thật sạch lớp tuyết phủ trên mặt đất, để lộ ra một mặt đá đen ướt nhẹp, quả nhiên bóng hai con sư tử màu trắng bạc đang vờn nhau lập tức in hình xuống mặt đá.
Vội bảo Lão Ngũ đưa mình xuống, tôi nhanh chân bước tới trước bóng hai con sư tử, trong khi đó vẫn ra hiệu cho Lão Ngũ khẽ chuyển động hai quả cầu nhỏ phía trên. Ánh trăng chiếu qua những góc độ khác nhau, khiến cho bóng hai con sư tử bên dưới cũng liên tục nhảy nhót, lắc lư, các chân không ngừng thay đổi tư thế, rất giống hai con sư tử thật đang nhảy múa. Miệng hai con sư tử đối nhau, tạo nên một hình tròn gần bằng hai đầu ngón tay, mặc dù mặt đá đều ướt như nhau, nhưng rõ ràng tại điểm tròn đó màu sắc lúc nào cũng đậm hơn những chỗ xung quanh.
Tôi vui sướng, lập tức ngồi thụp xuống nhìn thật kỹ, thì phát hiện ra tại điểm giữa của hình tròn đó là một lỗ nhỏ, bao xung quanh đó là một đường viền rất mảnh, được bịt kín bằng đất sét. Tôi liền lấy một cây kim móc ra, khẽ chọc đầu kim sâu xuống miệng lỗ, rồi nhẹ nhàng xoáy ngược lại. Trong màn đêm tĩnh lặng, những tiếng xoẹt xoẹt của đinh ốc vang lên đều đặn, rồi tôi từ từ rút ra một thanh đá hình trụ dài gần bằng chiếc bút chì, với những bước ren xoắn đều xung quanh thân.
Lão Ngũ từ trên xà ngang nhảy phốc xuống, cầm lấy thanh đá ngắm nghía qua rồi nói:
- Mẹ kiếp, trông y như thanh củi, liệu có phải là chìa khóa không? - Lão bỗng nhiên thốt lên một tiếng “á…”, đầu thanh đá đột nhiên thòi ra một vật màu đen, hơi thuôn dài, rơi đánh cạch xuống sàn đá. Thì ra thanh đá rỗng lõi này cất giấu một vật bên trong.
Tôi vội vàng kiểm tra lại, đó thực ra là một mẩu kim loại, dài khoảng ba bốn phân, to gần bằng đầu ngón tay, ở phần đuôi có một lỗ nhỏ, tôi nhận ra nó giống y hệt với thanh kim loại mà ông nội đặt ở dưới viên gạch trong phòng ngủ. Tôi lập tức lôi nó từ balô ra để so sánh, rõ ràng là từ chất liệu cho tới hình dạng và màu sắc của hai mẩu kim loại đều không khác nhau tới một li.
Tôi cầm hai mẩu kim loại trong tay, mà vẫn cảm thấy thật khó hiểu, nếu như mẩu kim loại mà ông nội đang giữ là một chiếc chìa khóa rồi, thì tại sao ở miếu Bắc Trấn lại xuất hiện cái thứ hai, lẽ nào để mở được động Lão Mẫu thì bắt buộc phải cần có hai chiếc chìa khóa? Thế nhưng trong cuốn Giải kiện tập lục lại không hề nhắc đến vấn đề này.
Lão Ngũ ngó nghiêng suy ngẫm mãi mà cũng không tìm ra nguyên nhân, chỉ nói rằng chúng được đúc bằng gang đen, rồi giục tôi mau chóng tới chùa Thanh Nham, hội Luận Đạo sẽ diễn ra vào đúng lúc mười hai giờ đêm. Tôi lập tức nhét thanh đá về vị trí cũ, rồi cả ba người cùng chạy ra xe để tới chùa Thanh Nham.
Trên đường lúc này đã có hàng đoàn xe nối đuôi nhau, lũ lượt kéo về phía động Thanh Nham, hầu hết đều mang biển ngoại tỉnh, xem ra số lượng người đến đây dự lễ không hề ít. Đợi cho đến khi tới được cửa động tôi mới nhìn thấy dòng chữ to màu đỏ, nét chữ rồng bay phượng múa khắc ở phía trên: “Thanh Nham Thánh cảnh”.
Chúng tôi không khác gì đang chen chân tại một hội chợ, đâu đâu cũng là người và xe, tiếng la ó, tiếng còi xe rú lên inh ỏi, hai bên đường là những dãy hàng rong bán hoa cẩm bào sặc sỡ màu sắc. Thế nhưng tôi thấy rằng phong cảnh Lư Sơn về đêm vẫn hết sức hùng vĩ, các ngọn núi trập trùng nối tiếp nhau trông mới nguy nga và tráng lệ làm sao, cảnh tưởng không khác với bức tranh in trên chiếc đĩa sứ là bao. Vô số ánh đèn nhấp nháy giữa khói hương nghi ngút, tạo cho người ta cảm giác như đang lạc vào chốn tiên cảnh.
Khi vào tới một cái điện nhỏ nằm dưới chân chùa Thanh Nham, Trưởng phòng Lưu đã đợi chúng tôi ở đó. Sau khi thay đồng phục mùa đông mà họ đã chuẩn bị cho chúng tôi, chị Giai Tuệ còn yêu cầu thêm ba bộ dụng cụ chuyên dụng của cảnh sát, vì cho rằng tình hình ở trong động Lão Mẫu vẫn chưa nắm rõ, nên cứ chuẩn bị kĩ lưỡng nhỡ đâu có lúc cần dùng đến.
Nghe thấy vậy, tôi vội vàng hỏi:
- Lão Ngũ, vậy là ông ta chỉ thấp hơn lão một bậc?
Lão Ngũ phì một tiếng, xoa xoa chiếc cằm rồi bĩu môi nói:
- Mẹ kiếp, một bậc này cũng đủ cho hắn luyện đến khi chết.
Chúng tôi vẫn đang thì thầm to nhỏ với nhau, thì gã béo đối diện bỗng nhiên la toáng rồi nhảy cẫng lên, lộn chiếc mũ áo ra trước để đổ đống mì đang nóng hôi hổi xuống đấy, chửi ầm ĩ:
- Mẹ kiếp, thằng nào mất dạy thế… - Khiến tất cả mọi người trên khoang tài đều cười khoái chí.
Tôi và chị Giai Tuệ trao nhau một ánh mắt đầy ngụ ý, tự cảm thấy Lục Lão Tứ quả là một người lợi hại, bát mì nóng như thế lại có thể đổ vào mũ áo của gã béo kia mà không ai hay biết, đây có lẽ chính là thuật Thiết lưu mà Lão Ngũ đã từng biểu diễn cho chúng tôi xem.
Tàu chạy được hơn hai tiếng, khoảng sáu giờ năm mươi phút chúng tôi đã tới huyện Câu Bang Tử thuộc thành phố Bắc Trấn, ngoài trời đã tối om.
Vừa bước ra khỏi nhà ga, cả một đám người ùn ùn kéo tới mời chào đi taxi và cho thuê nhà nghỉ. Một mụ đàn bà khoảng tầm trung niên mắt xanh mỏ đỏ trông như yêu tinh vội lao tới kéo mạnh tay áo Lão Ngũ và uốn éo mời chào:
- Sư phụ, sư phụ, nghỉ nhà em nhé, nhà em có bảo kiếm.
Lão Ngũ liền trừng mắt vỗ lên thắt lưng, mặt lạnh tanh đáp:
- Mẹ kiếp, bảo kiếm ta cũng có, nhà cô có bảo đao không?
Thấy thái độ dữ tợn của Lão Ngũ, bà ta liền phụng phịu, ngúng nguẩy bỏ đi, rồi tiến tới mời chào người đàn ông khác.
Tôi ngơ ngác hỏi chị Giai Tuệ:
- Ở đây bán bảo kiếm á, hay chúng ta mua một cái về làm kỉ niệm?
Chị Giai Tuệ cười khúc khích, ghé sát vào tai tôi nói nhỏ vài câu. Mặt tôi bỗng đỏ bừng bừng, thì ra đó là bảo kiện[1]! Mặc dù tôi không hiểu lắm, nhưng chắc chắn nó mang một ý nghĩa không hay ho cho lắm.
[1] Dịch vụ gái gọi.
Chúng tôi tìm một nhà nghỉ để nghỉ tạm một đêm. Sau khi ăn cơm tối xong, mọi người tập trung tại một phòng để nói chuyện. Lão Ngũ khoanh chân trên giường, xoa xoa cằm rồi không ngừng lắc đầu thở dài. Tôi thấy thắc mắc liền hỏi lão có chuyện gì.
Lão thở dài thườn thượt, nói về chặng đường tu luyện để đạt được cấp năm, giờ muốn tiến thêm một bậc nữa, nhưng sẽ rất mất sức, hai mươi năm trời khổ luyện mà cũng không tăng được bậc nào, lại còn mất thêm mười mấy năm ngồi trong tù.
Tôi thấy có chút tò mò, liền hỏi lão:
- Lão Ngũ, lão ngồi tù không phải là để tu luyện đấy chứ?
Lão Ngũ liếc sang tôi, cười khoái chí và chỉ khẽ gật đầu mà không nói gì. Tôi và chị Giai Tuệ quay sang nhìn nhau, không hiểu vì sao Lão Ngũ lại phải làm như thế.
Một lúc sau, Lão Ngũ mới thao thao bất tuyệt kể cho chúng tôi:
- Tên Lục Tứ gặp lúc chiều trên tàu, cũng được coi là một tên có chí, nhưng vẫn chẳng là gì… mẹ kiếp, ý chí của ta còn hừng hực hơn thế…
Nói đến đây, đôi mắt lão trở nên sáng quắc, rồi nhảy tót từ trên giường xuống đất, buông hai chân trần đứng dưới sàn nhà rồi nói với tôi:
- Nhóc con, lúc còn ở dưới lòng Cố Cung ta đã nghĩ rằng, ta không thể để Đạo môn thất truyền ngay dưới tay ta được, hay là… Lão Ngũ này nhận mi làm đệ tử. Mi thấy sao?
Thấy ánh mắt ngập tràn niềm hi vọng của lão, lúc đó thực sự tôi cũng thấy xiêu lòng và phấn khích vô cùng, nên đã lập tức đồng ý trả lời:<>
- Vâng ạ! - Nói rồi, tôi liền cúi gập người bái Lão Ngũ làm sư phụ.
Lão Ngũ đỡ tôi đứng dậy, rồi cười tít, hai mắt như nhắm tịt cả lại, lão xoa đầu tôi, nói:
- Tốt lắm, mi yên tâm, ta nhất định sẽ truyền lại cho mi tất cả những kinh nghiệm và khả năng của mình. Trước tiên là dạy cho mi ba chiêu.
Thì ra trước khi được nhận làm đồ đệ của Đạo môn, sư phụ sẽ đưa ra ba thử thách, và cũng là ba loại Bả Thế, để kiểm tra khả năng của đồ đệ, nếu vượt qua được thì người đó mới được nhận vào. Tôi vội hỏi lão đó là ba chiêu gì, Lão Ngũ cười ha hả rồi chỉ ra bệ cửa.
Tôi quay đầu nhìn sang, trên cửa sổ bày một chậu hoa thủy tiên, đang nở hơn chục bông hoa. Lão Ngũ xỏ dép rồi tiến tới ngắt một bông, sau đó quay người lại, ánh mắt như ngầm nói rằng hãy quan sát thật kỹ.
Tay trái lão cầm cuống hoa, bên tay phải bốn ngón duỗi thẳng, nhẹ nhàng vuốt qua các cánh hoa, rồi quay trở lại, một cánh hoa lập tức biến mất. Lão tiếp tục thực hiện thêm sáu lần, thì sáu cánh hoa cũng lần lượt không cánh mà bay, chỉ còn sót lại phần nhụy hoa.
Lão Ngũ ngửa tay lên, trên đầu ngón tay dính sáu cánh hoa, lại còn xếp thành một hình tròn trịa.
Tôi và chị Giai Tuệ cùng đồng thanh thốt lên:
- Bả Thế của Lão Ngũ thật tuyệt vời.
Lão Ngũ cười khoái chí hỏi tôi:
- Nhóc con, mi đoán xem đây là Bả Thế gì?<>
Tôi nghĩ một lúc, vội lên tiếng:
- Là hái hoa?
Câu trả lời của tôi khiến chị Giai Tuệ cười nắc nẻ, Lão Ngũ thì tỏ vẻ tức tối, sầm mặt xuống.
- Con nhóc chết tiệt này, làm mất mặt Lão Ngũ này quá, từng này tuổi rồi còn hoa hoét gì… - Dừng lại một lúc, lão mới nói. - Đây là chiêu Niêm hoa, mục đích là thử khả năng của các đầu ngón tay. Mẹ kiếp, đạo vật không đạo hương… tạm thời thế, giờ cho các ngươi xem chiêu thứ hai.
Lão Ngũ nhờ chị Giai Tuệ rút từ chiếc ga giường ra hơn chục sợi vải có màu sắc khác nhau, rồi buộc thành một túm. Tay trái kẹp một đầu túm sợi vải, chỉ để lộ ra một đoạn rất ngắn, tay phải đập mạnh xuống, sau đó lại nhanh chóng nhấc lên, một sợi vải màu xanh cũng bị rút theo, giống như dính liền với lòng bàn tay.
Bàn tay phải của lão thoăn thoắt, vỗ xuống liên hồi… bộp bộp bộp… mỗi lần dừng lại là một sợi vải theo đó bị rút ra, chỉ một thoáng sau, tất cả chỗ sợi vải đều lần lượt bị rút ra khỏi lòng bàn tay trái.
Lão ngửa bàn tay phải lên, tôi vươn cổ ngó tới, thì ra hơn chục sợi vải đó kẹp ở giữa lòng bàn tay, trong một đường rãnh hình vòng cung đều tăm tắp, đang bay phấp phơ, mà không một sợi rơi xuống. Lão nói với chúng tôi, đây chính là chiêu thứ hai, gọi là Đề tơ dùng để thử khả năng của lòng bàn tay.
Tôi tò mò sờ vào lòng bàn tay lão, cảm giác các đường chỉ tay sâu hơn của người bình thường, giống như bị dao cứa tạo thành đường vậy, hơn nữa chúng còn được phân thành nhiều tầng nhánh nông sâu chi chít, giống như một màng nhện thu nhỏ vậy.
Lão Ngũ nắm chặt bàn tay lại rồi nói:
- Hai chiêu vừa rồi mới chỉ là cơ bản, đến chiêu thứ ba khó hơn một chút. - Lão bảo tôi tháo chiếc nhẫn trên ngón tay ra, ngắm nghía kỹ càng, rồi cầm một tờ báo đang đặt trên bàn uống nước lên, xé thành nhiều mảnh, sau đó đặt chiếc nhẫn vào bên trong, vo thành một nắm ném vào trong chiếc gạt tàn, rồi đốt thành tro.
Trong lúc tôi vẫn chưa hiểu Lão Ngũ định làm trò gì, thì lão từ từ đưa bàn tay phải ra, úp lòng bàn tay lên chiếc gạt tàn rồi khẽ lắc nhẹ vài cái, sau đó mới từ từ kéo tay lại. Chiếc gạt tàn khẽ rung lên rồi xuất hiện vài vết nứt nhỏ, nhưng không tách ra.
Tôi đang định hỏi lại, thì Lão Ngũ đã cười hề hề, rồi lật tay lên, chiếc nhẫn đã nằm gọn trong lòng bàn tay lão. Lòng bàn tay và cả chiếc nhẫn đều không bị dính tàn tro, mà vẫn sạch sẽ như chưa hề động vào đó.
Tôi ngỡ ngàng đến mức phải thốt lên tán thưởng, vội vàng lao tới cầm lấy chiếc nhẫn, cảm thấy vẫn còn hơi nóng tay, chắc chắn là vừa được lôi từ trong lửa ra.
Lão Ngũ tỏ vẻ đắc ý, xoa cằm và nói:
- Hai nhóc, đã nhìn thấy chưa, đây chính là chiêu thứ ba gọi là Xuyên khôi.
Tính cách Lão Ngũ đã nói là phải làm luôn, nên sau khi thực hiện xong ba chiêu, lão lập tức dạy và giải thích cho tôi thật tỉ mỉ về ba chiêu vừa xong. Tôi loay hoay mãi mà vẫn không làm được cảm thấy mình thật chậm chạp và vô tích sự. Nhưng lão lại tỏ ra hứng chí và thích thú, nói rằng bây giờ không thực hiện được là điều bình thường, chỉ cần nắm được vấn đề cơ bản và thực hiện đúng cách thôi đã là tốt rồi, sau này từ từ tập luyện chắc chắn sẽ lợi hại không kém.
Cả đêm đó không ai nói với ai câu nào, sáng sớm ngày hôm sau, chúng tôi dậy từ rất sớm, thuê một chiếc xe vào trong trung tâm Bắc Trấn. Đây là một thị trấn bé xíu nghèo nàn chẳng có gì đáng xem, chị Giai Tuệ hỏi đường tới phòng cảnh sát Bắc Trấn, rồi dẫn chúng tôi tới gặp trưởng phòng ở đấy.<>
Vị trưởng phòng đó họ Lưu, do đã nhận được chỉ thị của cấp trên, hơn nữa tôi và chị Giai Tuệ dù sao cũng là cảnh sát hình sự trên tỉnh, cũng coi như là cấp trên, nên thái độ của anh ta rất nhiệt tình, lập tức điều quân thu xếp cho chúng tôi ở một khách sạn tốt nhất và hỏi chúng tôi về những kế hoạch trong những ngày tới.
Vừa biết chúng tôi sẽ tới động Lão Mẫu, anh ta không có ý kiến gì, mà chỉ với chúng tôi, hàng năm trước và sau ngày mười chín tháng Hai âm lịch, có rất nhiều du khách tới đây dâng hương và bái đức Thánh mẫu, trung bình khoảng mười nghìn lượt khách mỗi năm. Hôm nay đã là ngày mười tám, cả phòng cảnh sát đã tập trung lực lượng, để đảm bảo ngày hội diễn ra trong trật tự và an toàn. Đây cũng được coi là một thắng cảnh thu hút đông người đến đây, nên chúng tôi phải thay đồ cảnh sát, để tránh sự nghi ngờ của những người tham dự lễ hội.
Sau khi bàn bạc ổn thỏa thì đã đến giữa trưa, mọi người cùng nhau đi ăn cơm, Trưởng phòng Lưu mời chúng tôi tới khách sạn dùng bữa, còn có thêm một vị phó phòng đi cùng.
Sau đó, chúng tôi về khách sạn nghỉ ngơi, ngủ trưa xong ngoài trời đã tối, ăn tối xong xuôi, chúng tôi đều mang theo vật dụng cần thiết theo mình, rồi nhờ vị phó phòng lái xe đưa chúng tôi tới miếu Bắc Trấn nằm ở phía tây. Để người đó đứng đợi ở ngoài, cả ba chúng tôi cùng nhau đi vào miếu.
Miếu Bắc Trấn là một ngôi miếu thờ thần linh khá linh thiêng, phía sau miếu dựa sát vào núi, miếu có diện tích rất rộng lớn, trước mặt là những bậc thang bằng đá chạy từ hướng Nam cao dần tới hướng Bắc, khí trời đang rất trong lành thoáng đãng, giờ lại bắt đầu có tuyết rơi, ánh trăng cũng đang lạnh lùng chiếu sáng khắp mọi nơi, trừ những bông tuyết rơi ra khung cảnh tĩnh mịch một cách bất thường, khiến cho tôi bất chợt có cảm giác thê lương vô cùng.
Mặt trước của ngôi miếu là một khoảng không rất rộng, ở giữa là cổng đá sáu cột màu trắng, phía sau là tượng bốn con vật bằng đá với hình hài rất kỳ lạ, dưới ánh trăng chúng im lìm in bóng xuống mặt đất. Bốn con vật bằng đá rất lớn, đang há miệng giương móng vuốt, bề mặt đá đã điểm nhiều vết rong rêu và nứt nẻ, mỗi con mang một trạng thái khác nhau, nhưng đều rất hung dữ. Tôi thấy chúng có vẻ giống sư tử nhưng nhìn kỹ lại trông giống những con chó khổng lồ.
Lão Ngũ nhón chân bước tới, ngó nghiêng nhìn ra bốn phía xem xét tình hình, khi đã chắc chắn xung quanh không có người, lão mới chỉ tay vào bốn bức tượng đá và khẽ nói:
- Hai đứa biết không, bốn con vật này vốn tượng trưng cho Hỉ Nộ Ai Lạc, chúng là bốn con sư tử đá. Dựa vào những điều ghi trong cuốn Giải kiện tập lục thì chúng ta phải tìm cho ra chiếc chìa khóa mở động Lão Mẫu giấu bên trong miệng các con sư tử này.
Tôi khẽ gật đầu, rồi lập tức tiến tới trước một bức tượng để quan sát kỹ hơn. Tôi phát hiện thấy dưới chân con sư tử là một phiến đá hình chữ nhật, một mặt được nối liền một khối với con sư tử, mặt dưới lại liền với mặt đất, có thể là từ lúc xây dựng, người ta đã cố tình để lại bốn tảng đá lớn, rồi mới từ từ khắc chúng. Thế nhưng công trình này có vẻ cũng rất đồ sộ và công phu khi dành hẳn một khoảng rộng lớn như vậy chỉ để bày bốn con sư tử đá.
Sau khi xem xét phía ngoài không có gì đáng ngờ, chị Giai Tuệ mới ngồi xuống để tôi trèo lên vai, bước lên bục đá, tay bám chặt vào đầu sư tử. Áp sát người vào bức tượng, tôi từ từ thò vào bên trong miệng con sư tử để cố gắng tìm ra chiếc chìa khóa. Tôi thấy phía bên trong miệng không hề gồ ghề như tôi nghĩ, mà hết sức nhẵn nhụi, chắc chắn là nó đã được mài rất kĩ.
Cho tới khi cả cánh tay đã thọc sâu vào bên trong, đầu ngón tay vừa chạm tới vị trí cuống họng, thì tôi chợt phát hiện ra phía trong cuống họng có một vòng khuyên to bằng miệng bát, qua đánh giá ban đầu, tôi nghĩ nó làm bằng kim loại. Thử kéo vòng tròn đó về phía mình, nhưng không có phản ứng gì. Tôi nhảy xuống, tiếp tục đi tới ba con sư tử còn lại để kiểm tra lại, thì ra bên trong họng của chúng đều có cấu tạo giống y hệt nhau, hơn nữa đây có thể chính là bí mật.
Tôi nói lại tình hình cho Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, Lão Ngũ liền vỗ vai tôi nói rằng:
- Vậy thì không mau giải quyết nó đi, còn lề mề gì nữa. Luận Đạo cũng sắp diễn ra rồi, không nhanh tay lên thì không còn lúc nào nữa đâu.
Tôi không dám chần chừ thêm một phút giây nào nữa, lập tức chọn một con sư tử đá, lấy ra một chiếc kim móc từ trong túi, cẩn thận cào vào trong miệng nó. Thế nhưng cho dù tôi có dùng cách nào đi chăng nữa, thì trong miệng sư tử đá cũng không có một chút động tĩnh gì, chiếc vòng sắt kia như được gắn cố định vào trong họng. Tôi bắt đầu cuống lên, chuyển sang ba con còn lại thử xem sao, kết quả vẫn không có gì thay đổi.
Thời gian cứ thế mải miết trôi đi, chẳng mấy chốc đã hết một tiếng đồng hồ loay hoay với bốn tượng sư tử, mà tôi vẫn không tìm ra manh mối nào. Lão Ngũ cũng thật là phiền phức, liên tục quay sang chị Giai Tuệ hỏi giờ, rồi quay lại giục tôi, khiến tôi càng thêm rối trí, mồ hôi vã ra đầm đìa.
Thấy bốn bức tượng sư tử vẫn đứng yên bất động, tôi cố gắng nghĩ lại thật tỉ mỉ những thao tác vừa xong, xem rốt cuộc mình đã thực hiện sai ở bước nào? Những bông tuyết rơi mỗi lúc một dày hơn, chúng bay cả vào trong cổ áo tôi, lập tức tan thành nước lạnh toát, tôi cố gượng để không rét run lên cầm cập. Lập tức dựng cổ áo lên, rồi vô thức ngẩng cổ nhìn lên.
Bầu trời vẫn một màu xám xịt, dưới ánh trăng sáng những bông tuyết rơi dày như những đường kẻ sọc từ trên trời xuống, cảnh tượng rất đẹp và nên thơ. Bỗng nhiên, tôi sực nhớ ra, liền cúi xuống nhìn về với bốn bức tượng sư tử đá. Tôi thấy chúng đều đang ngẩng mặt lên trời, hai hàm há rộng tạo thành một góc chéo, hướng thẳng lên đỉnh cổng đá.
Tôi bước tới đứng dưới cổng đá, hơi kiễng chân nhìn lên, đó là một phiến đá hình chữ nhật, ở giữa khảm một vật hình cầu tròn, ánh trăng giống như rọi qua một lớp lưới, rõ ràng đó là một khối rỗng.
Tôi liền gọi Lão Ngũ tới, lão cũng ngẩng đầu quan sát kỹ lưỡng, sau đó tự gõ lên đầu mình một cái rồi nói:
- Cổ ngữ nói Long thốn cầu, sư thưởng cầu. Bên trong quả cầu đó chắc chắn cất giữ điều gì đó, hay đấy, hay đấy!
Nói rồi, Lão Ngũ lùi ra sau vài bước, rồi lao lên phía trước, một chân đạp thật mạnh lên cột đá lấy đà rồi lập tức búng người nhảy lên cao, lão bám vào giữa lưng chừng cột đá rồi leo dần lên trên giống như một con khỉ đang leo cây.
Lão Ngũ đu lên xà ngang, đưa một tay ra sờ lên quả cầu tròn, rồi lập tức hét toáng lên:
- Lan Lan, đến đây xem xem, có cái này rất hay! - Vừa nói hết câu, lão đã quắp hai chân vào xà ngang, đu người và dốc ngược hai tay xuống, chị Giai Tuệ đứng dưới để làm điểm tì cho tôi trèo lên, rồi Lão Ngũ cầm lấy hai tay tôi, nhấc bổng cả người tôi lên.
Lão Ngũ ôm thật chặt thắt lưng tôi từ đằng sau, để tôi có thể giữ yên vị trí. Tôi rướn cổ lên cao, mở thật to đôi mắt để nhìn cho rõ hơn. Tôi phát hiện ra quả cầu rỗng đó làm bằng đá, những đường hoa văn bọc bên ngoài hết sức tinh tế, tổng thể to gần bằng quả bóng chuyền, bên trong còn lồng thêm hai quả cầu tròn nhỏ hơn. Tôi lưỡng lự một lúc, rồi từ từ chọc đầu ngón tay qua khe hở, khoắng một vòng, hai quả cầu nhỏ bên trong liên tục chuyển động va vào nhau, phát ra những tiếng lách cách. Ánh trăng từ bên ngoài chiếu vào, sáng long lanh như hai viên ngọc.
Trong đầu tôi liên tưởng tới hình ảnh cả bốn con sư tử cùng hướng lên trên, hơn nữa ba quả cầu bên trên lồng vào nhau tạo thành một tổ hợp cầu mẫu tử, vậy là muốn biểu thị ý nghĩa gì, lẽ nào…
Tôi vẫn đang miên man trong dòng suy nghĩ, thì bỗng nhiên nghe giọng chị Giai Tuệ từ phía dưới vọng lên:
- Lan Lan, sao rồi?
Tôi vội vàng cúi xuống, đang định trả lời chị thì lập tức lặng người, phát hiện ra phía trước ngực chiếc áo da của chị Giai Tuệ có in một hình tròn màu bạc với nhiều họa tiết rất lạ mắt.
Tôi vội thốt lên:
- Chị Giai Tuệ, trên… trên… áo chị… có cái gì ý. Chị Giai Tuệ lập tức tiến lên trước vài bước, nói:
- Cái gì? - Đúng lúc ấy, hình ảnh trên áo chị bỗng dưng biến mất.
Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cùng hỏi lại tôi đã nhìn thấy cái gì. Bình tĩnh suy xét, tôi bỗng nhớ lại hình quả cầu to bọc hai quả cầu nhỏ phía trên đầu, liền bảo chị Giai Tuệ lùi vài bước ra sau, quay lại vị trí ban nãy.
Chị vừa đặt chân vào vị trí vừa xong, hình tròn màu bạc lại lập tức hiện ra, tôi quan sát kỹ hơn, thì ra ánh trăng xuyên qua quả cầu lớn sẽ bị cắt thành hình hai đầu sư tử nhỏ in xuống dưới.
Tôi nhìn chằm chằm, trong đầu bỗng dưng nhớ lại lời ông nội đã nói, đây là loại khóa Truy quang thấu ảnh vẫn được nhắc đến trong truyền thuyết. Loại khóa này thường được thiết kế ở những vùng hoang dã với không gian rộng lớn, mượn ánh sáng phản quang trong tự nhiên, để tạo thành một đường dẫn duy nhất, phía trước mặt là lớp tuyết trắng dày, nhưng nếu như chị Giai Tuệ không vô tình đứng đúng vào vị trí đó, cũng như không mặc chiếc áo da màu đen dễ bắt sáng thì tôi cũng không thể phát hiện ra điều đó.
Khi nghe tôi nói xong, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đều hào hứng vô cùng, bắt tôi phải giải thích lại tỉ mỉ hơn. Tôi nói với hai người rằng, quả cầu mẫu tử bên trên tạo thành một tổ hợp ba quả cầu lồng vào nhau, mỗi một quả cầu đều có thể xoay chuyển một trăm tám mươi độ, dựa vào bí quyết khóa vòng, thì đây chính là chiếc khóa Nguyệt ba vòng, thêm bốn chiếc vòng khác nằm bên trong miệng bốn con sư tử, gọi là khóa Phồn tinh bốn vòng, tập hợp của ba và bốn, vừa khớp với thuật Thất hoàn sao sơn xuyên. Chẳng trách trong cuốn Giải kiện tập lục có ghi chú rằng, người mở khóa nhất định phải tới miếu Bắc Trấn vào buổi tối có trăng, tìm chìa khóa ở miệng bốn tượng con sư tử đặt trước cổng.
Chị Giai Tuệ đã hiểu ra vấn đề, gật đầu lia lịa và lập tức cởi chiếc áo khoác đang mặc trên người, rồi phủi thật sạch lớp tuyết phủ trên mặt đất, để lộ ra một mặt đá đen ướt nhẹp, quả nhiên bóng hai con sư tử màu trắng bạc đang vờn nhau lập tức in hình xuống mặt đá.
Vội bảo Lão Ngũ đưa mình xuống, tôi nhanh chân bước tới trước bóng hai con sư tử, trong khi đó vẫn ra hiệu cho Lão Ngũ khẽ chuyển động hai quả cầu nhỏ phía trên. Ánh trăng chiếu qua những góc độ khác nhau, khiến cho bóng hai con sư tử bên dưới cũng liên tục nhảy nhót, lắc lư, các chân không ngừng thay đổi tư thế, rất giống hai con sư tử thật đang nhảy múa. Miệng hai con sư tử đối nhau, tạo nên một hình tròn gần bằng hai đầu ngón tay, mặc dù mặt đá đều ướt như nhau, nhưng rõ ràng tại điểm tròn đó màu sắc lúc nào cũng đậm hơn những chỗ xung quanh.
Tôi vui sướng, lập tức ngồi thụp xuống nhìn thật kỹ, thì phát hiện ra tại điểm giữa của hình tròn đó là một lỗ nhỏ, bao xung quanh đó là một đường viền rất mảnh, được bịt kín bằng đất sét. Tôi liền lấy một cây kim móc ra, khẽ chọc đầu kim sâu xuống miệng lỗ, rồi nhẹ nhàng xoáy ngược lại. Trong màn đêm tĩnh lặng, những tiếng xoẹt xoẹt của đinh ốc vang lên đều đặn, rồi tôi từ từ rút ra một thanh đá hình trụ dài gần bằng chiếc bút chì, với những bước ren xoắn đều xung quanh thân.
Lão Ngũ từ trên xà ngang nhảy phốc xuống, cầm lấy thanh đá ngắm nghía qua rồi nói:
- Mẹ kiếp, trông y như thanh củi, liệu có phải là chìa khóa không? - Lão bỗng nhiên thốt lên một tiếng “á…”, đầu thanh đá đột nhiên thòi ra một vật màu đen, hơi thuôn dài, rơi đánh cạch xuống sàn đá. Thì ra thanh đá rỗng lõi này cất giấu một vật bên trong.
Tôi vội vàng kiểm tra lại, đó thực ra là một mẩu kim loại, dài khoảng ba bốn phân, to gần bằng đầu ngón tay, ở phần đuôi có một lỗ nhỏ, tôi nhận ra nó giống y hệt với thanh kim loại mà ông nội đặt ở dưới viên gạch trong phòng ngủ. Tôi lập tức lôi nó từ balô ra để so sánh, rõ ràng là từ chất liệu cho tới hình dạng và màu sắc của hai mẩu kim loại đều không khác nhau tới một li.
Tôi cầm hai mẩu kim loại trong tay, mà vẫn cảm thấy thật khó hiểu, nếu như mẩu kim loại mà ông nội đang giữ là một chiếc chìa khóa rồi, thì tại sao ở miếu Bắc Trấn lại xuất hiện cái thứ hai, lẽ nào để mở được động Lão Mẫu thì bắt buộc phải cần có hai chiếc chìa khóa? Thế nhưng trong cuốn Giải kiện tập lục lại không hề nhắc đến vấn đề này.
Lão Ngũ ngó nghiêng suy ngẫm mãi mà cũng không tìm ra nguyên nhân, chỉ nói rằng chúng được đúc bằng gang đen, rồi giục tôi mau chóng tới chùa Thanh Nham, hội Luận Đạo sẽ diễn ra vào đúng lúc mười hai giờ đêm. Tôi lập tức nhét thanh đá về vị trí cũ, rồi cả ba người cùng chạy ra xe để tới chùa Thanh Nham.
Trên đường lúc này đã có hàng đoàn xe nối đuôi nhau, lũ lượt kéo về phía động Thanh Nham, hầu hết đều mang biển ngoại tỉnh, xem ra số lượng người đến đây dự lễ không hề ít. Đợi cho đến khi tới được cửa động tôi mới nhìn thấy dòng chữ to màu đỏ, nét chữ rồng bay phượng múa khắc ở phía trên: “Thanh Nham Thánh cảnh”.
Chúng tôi không khác gì đang chen chân tại một hội chợ, đâu đâu cũng là người và xe, tiếng la ó, tiếng còi xe rú lên inh ỏi, hai bên đường là những dãy hàng rong bán hoa cẩm bào sặc sỡ màu sắc. Thế nhưng tôi thấy rằng phong cảnh Lư Sơn về đêm vẫn hết sức hùng vĩ, các ngọn núi trập trùng nối tiếp nhau trông mới nguy nga và tráng lệ làm sao, cảnh tưởng không khác với bức tranh in trên chiếc đĩa sứ là bao. Vô số ánh đèn nhấp nháy giữa khói hương nghi ngút, tạo cho người ta cảm giác như đang lạc vào chốn tiên cảnh.
Khi vào tới một cái điện nhỏ nằm dưới chân chùa Thanh Nham, Trưởng phòng Lưu đã đợi chúng tôi ở đó. Sau khi thay đồng phục mùa đông mà họ đã chuẩn bị cho chúng tôi, chị Giai Tuệ còn yêu cầu thêm ba bộ dụng cụ chuyên dụng của cảnh sát, vì cho rằng tình hình ở trong động Lão Mẫu vẫn chưa nắm rõ, nên cứ chuẩn bị kĩ lưỡng nhỡ đâu có lúc cần dùng đến.
/33
|