Ở giữa bức tranh là hình một loại cá có hình dạng vô cùng kì quặc, trông khá giống cá heo nhưng hai bên thân lại phình ra, đầu ngước lên trên, hai bên mép mọc ra hai sợi râu dài màu bạc, chiếc đuôi như hai lưỡi kéo đang uốn cong lên, toàn thân bao phủ bởi lớp vẩy hình tròn bóng loáng màu trắng bạc. Toàn thân con cá toát ra một thứ ánh sáng mờ ảo như mê hoặc người nhìn.
Hố này phức tạp hơn tôi nghĩ, nó sâu và thẳng đuột xuống dưới như một ống khói khổng lồ, dù bên trên đã có hai người khống chế sợi dây nhưng tôi vẫn phải dùng hai chân đạp mạnh vào hai bên vách tường, vừa để thăm dò vừa để tránh bị va đập. Điều đặc biệt là bề mặt các vách tường đều phủ kín những bức họa, tôi đưa tay ra sờ, ngoài bề mặt nhẵn thín thì những nét vẽ đều hằn sâu vào trong, tôi ngờ vực không biết đó có phải là khắc hình hay không.
Nhưng điều kiến tôi khó hiểu hết sức là những nhân vật xuất hiện trong bức họa đều khỏa thân, trẻ con có, người già có, còn có cả người ốm đâu bệnh tật; mặc dù các nét vẽ khá đơn giản nhưng lại hết sức sinh động, sắc mặt của các nhân vật có vui có buồn, đến cả dáng hình và tư thế cũng không giống nhau. Những bức vẽ này giống như đang miêu tả lại quy luật của cuộc sống, quy luật tồn tại của con người, từ nhỏ đến lớn, từ trẻ đến già, từ sinh ra đến khi chết đi.
Đặc biệt là những đôi mắt, không biết các nghệ nhân xưa đã dùng kỹ thuật gì mà ánh mắt luôn nhìn đối diện về phía người xem, cho dù có ở góc nào đi chăng nữa. Có cảm giác như con ngươi của các nhân vật hơi lồi ra, chứng tỏ các nghệ nhân đã phải rất tỉ mỉ mài giũa, thổi hồn vào trong đó. Tất cả những ánh mắt đó đều giống hệt nhau, càng nhìn càng khiến người xem có cảm giác gì đó rất khó tả, giống như đang bị hàng nghìn hàng vạn ánh mắt theo dõi.
Không hiểu sao nhìn những ánh mắt đó, tôi cảm thấy lòng mình như thắt lại, con người trong cuộc sống bộn bề lo âu và vật lộn để mưu sinh, dù sống trong huy hoàng hay bi kịch thì cuối cùng cũng đều biến thành tàn tro. Tôi lại nghĩ đến bí mật về mảnh da người, tại sao cứ phải đi tìm sự thật? Mà tìm ra sự thật rồi thì để làm gì?
Một cảm giác thất vọng não nề cứ quanh quẩn trong trí óc tôi, nước mắt bắt đầu dâng lên, đầu óc mông lung đến tột cùng. Bỗng nhiên, tôi như sực tỉnh, có điều gì đó rất khác thường trong những bức bích họa này, nhìn lại thật kĩ, tôi nhận ra tất cả nhân vật trong bức tranh đều là phụ nữ.
Tôi hít một hơi thật sâu, lắc mạnh đầu lấy lại tinh thần, kì lạ thật! Nhưng khi nghĩ đến việc ngọn tháp cổ này được xây dựng từ thời nhà Liêu, dùng để cất giữ những di vật của hoàng hậu đương vị; những bức bích họa vẽ Quan Âm Bồ Tát cũng là giới nữ, tôi lại nghĩ có khi đây chính là tính đặc thù của ngọn tháp này cũng nên.
Tôi đang mơ màng trong dòng suy nghĩ thì bỗng nhiên, cả người tụt xuống một khoảng không gian rất rộng, hai chân chới với không điểm tựa. Tôi co rúm người, vội lia đèn pin ra khắp hướng, khung cảnh trước mặt khiến tôi ngỡ ngàng tột độ.
Phía dưới này là một tầng tháp khác, tôi chỉ có thể nhận ra được một phần vì không gian rất rộng, nhưng điều khiến tôi thực sự bất ngờ là kết cấu của tầng này giống hệt với kết cấu ở những tầng tháp trên.
Trong lúc vẫn còn đang nửa tỉnh nửa mê vì khung cảnh trước mắt thì tôi bỗng giật mình bởi một tiếng động rất lớn vọng xuống từ phía trên đỉnh, giống như tiếng động lúc tầng tháp xoay chuyển. Tôi vội vàng ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy ánh đèn pin mờ mờ của Tiểu Đường và Lão Mục, miệng hố hình chữ S đang dần dần khép lại, luồng ánh sáng từ trên rọi xuống cũng từ từ nhỏ dần. Tôi nghe thấy tiếng của hai người họ hét lớn:
- Xoay rồi, xoay rồi!
Sau đó tiếng la hét của hai người cùng với ánh đèn pin biến mất.
Sợi dây thừng vẫn bị kẹp chặt bởi hai miếng kim loại ở miệng hố, tôi cảm nhận rõ tiếng lựt xựt đứt của sợi dây thừng vì bị kẹp quá chặt, sức nặng của tôi sẽ khiến sợi dây đứt nhanh hơn. Ngó xuống phía dưới thăm dò, vị trí hiện tại của tôi còn cách mặt đất chừng sáu bảy mét.
Sáu bảy mét tương đương với độ cao của ba tầng nhà, bị rơi xuống, không chết cũng sẽ thành tàn tật. Tôi không biết phải làm sao, cũng không dám hét lên vì nghĩ cũng vô ích, chỉ biết giữ chặt sợi dây theo quán tính, nhìn trân trối xuống dưới chân, cố gắng làm sao không bị xoay tròn, tránh cho sợi dây phải chịu thêm áp lực.
Miệng hố Nhân Đạo giờ đã là một bức tường đen ngòm, yên ắng không một tiếng động. Sau khi lấy lại thăng bằng, tôi dùng đèn pin soi lên bức tường trước mặt với những bức họa mờ mờ, cố gắng nhìn thật kĩ, nhưng vì các nét vẽ quá nhỏ và rối, nên tôi gần như không nhận ra nội dung bức tranh là gì.
Bỗng nhiên, một tiếng “rắc” vang lên, thấy sợi dây đã sắp đứt rời, tôi vội vàng ngó nghiêng xung quanh, chuẩn bị tinh thần rơi cho cú rơi sắp tới. Chỉ một lúc sau, sợi dây do bị kéo quá căng nên đã đứt phựt, tôi hoàn toàn rơi tự do xuống phía dưới.
Tôi cố duỗi thẳng hai chân, vươn người đạp mạnh vào bức tường gần nhất để toàn thân nằm ngang ra nhằm giảm bớt lực rơi. Nhưng không như dự định, bức tường mà tôi đạp vào lại mềm như một tảng cao su khổng lồ, khiến cả hai chân tôi thụt sâu vào tới tận đầu gối. Cả người tôi như khựng lại, đầu chúc xuống dưới đất.
Sự cố xảy ra hoàn toàn nằm ngoài dự tính của tôi, để tìm cách thoát ra khỏi bức tường cao su này, hai chân tôi co thật mạnh cố rút ra, cả người cuộn tròn lấy sức vùng vẫy, hai bàn tay nắm thật chặt.
Cũng may kỹ năng thực chiến của tôi khá tốt nên chẳng mấy chốc đã thoát khỏi bức tường đó, sau khi tiếp đất, tôi lộn người vài vòng theo quán tính.
Giống như một trái bóng, tôi cứ lăn tròn không biết bao nhiêu vòng, cho tới khi lưng bị một vật cứng chặn lại. Tôi cảm thấy tay chân đau nhừ, lục phủ ngũ tạng lộn tung lên, cổ họng đắng chát.
Tôi cắn chặt răng, hai mắt nhắm nghiền, cố nằm yên một chỗ để tay chân và đầu óc bình thường trở lại, đồng thời cố điều chỉnh nhịp thở sao cho toàn thân được điều hòa, các cơ bắp được giãn ra.
Không gian xung quanh vẫn lặng yên như tờ, chỉ có tiếng ù ù trong đầu tôi vẫn đang loạn nhịp, đầu óc như muốn nổ tung. Phải mất một lúc lâu sau, tôi mới lấy lại tinh thần và nhịp thở, toàn thân mồ hôi vã ra như tắm, thấm ướt cả chiếc áo len đang mặc bên trong.
Sau khi bình tĩnh lại, tôi mở mắt, chống lại hai tay trên đất, cố gắng đứng dậy, cảm giác chân tay đang mềm nhũn ra, mắt nhìn sang bên cạnh, vật cứng chặn tôi lại chính là cây cột tháp.
Tôi ngồi dựa lưng lên đó, thở hắt ra, đưa mắt nhìn xung quanh. Chiếc đèn pin đã bị lăn ra một góc rất xa, luồng sáng chiếu thẳng vào một góc tường màu xanh.
Tôi liền đưa tay dụi mắt cho tỉnh táo hơn, định thần lại thì thấy một mảng xanh trong suốt như tảng pha lê màu ngọc bích khảm vào tường, lẽ nào đây là một bức bích họa khác? Đợi cho đến khi sức lực đã hồi phục trở lại, tôi bám vào thân cột đứng lên, lê từng bước tiến tới chỗ chiếc đèn pin. Khẽ cúi xuống nhặt chiếc đèn pin lên, tôi vừa mát-xa nhẹ vùng gáy vừa ngắm nhìn bức bích họa.
Mặc dù bức họa đã tồn tại từ rất lâu, màu sắc bên trên đã phần nào phai nhạt nhưng tôi vẫn nhận ra cục diện của bức tranh. Cả bức tường bao trùm bởi màu xanh làm, dưới ánh đèn pin, bề mặt bức tranh nổi lên như sóng cuộn, như đại dương rộng lớn mênh mông.
Phía trên đỉnh góc phải là hai dấu chân tôi bị thụt vào khi nãy, xung quanh mép nhăn nhúm như bề mặt xi-măng vừa láng bị ai đó vô tình giẫm lên. Ở giữa bức tranh là hình một loại cá có hình dạng vô cùng kì quặc, trông khá giống cá heo nhưng hai bên thân lại phình ra, đầu ngưới lên trên, hai bên mép mọc ra hai sợi râu dài màu bạc, chiếc đuôi như hai lưỡi kéo đang uốn cong lên, toàn thân bao phủ bởi lớp vẩy hình tròn bóng loáng màu trắng bạc. Toàn thân con cá toát ra một thứ ánh sáng mờ ảo như mê hoặc người nhìn.
Càng nhìn tôi càng thấy con cá này không giống với bất kì loại cá nào mình từng biết. Nhưng hình vẽ lại chân thật và sống động tới mức tôi cứ ngỡ con cá đang thỏa sức vẫy vùng giữa đại dương và cố nhảy lên không trung đùa giỡn với những con sóng.
Từ trước đến nay tôi chưa từng nghe nói cá là vật tổ của Phật giáo, nên cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Tôi đưa tay chạm nhẹ lên bức hình, cảm giác mát lạnh, trơn nhẵn và hơi dinh dính. Tôi cũng không biết phải miêu tả cảm giác đó như thế nào, chỉ biết rằng các sợi dây thần kinh trên dầu ngón tay mách bảo rằng tôi đang sờ vào một con cá thật.
Tôi bỗng thấy lạnh cả sống lưng, lập tức co người nhảy lùi ra sau, đôi mắt hãi hùng vẫn không rời khỏi con cá. Mẹ kiếp! Rõ ràng đó là một bức tranh. Tôi rùng mình lắc mạnh đầu, trong lòng tự trấn an bản thân chỉ là thần hồn nát thần tính, rồi nhớ lại bức tranh của cậu tôi, ở giữa bức tranh cũng đính một mảng da người thật, liệu bức tranh này có như vậy không?
Tôi hít một hơi thật sâu, lấy hết lòng can đảm tiến lại gần bức tranh, đưa tay kiểm nghiệm một lần nữa. Quả đúng như thế, lớp da cá chính xác được khảm lên bề mặt bức tranh, viền mép xung quanh nối với bức tranh kín tới mức tôi không thể tìm ra điểm giao cắt, nhưng họ làm thế nào để giữ được độ ẩm cho da cá mà không bị tiêu hủy?
Tôi suy nghĩ nát óc cúng không thể hiểu nối, đây quả thực là một điều huyền bí. Cầm đèn pin trong tay, tôi tiếp tục men theo bức tranh để quan sát động tĩnh.
Bức tường cạnh đó vẽ một loại chim có chiếc mỏ nhỏ và nhọn hoắt màu vàng kim, một chân chim quặp vào một chân khác duỗi ra với bộ móng sắc nhọn, hai cánh sải rộng, còn chiếc đuôi dài chừng hai mét cũng cong lên mềm mại, cảm giác như nó đang chuẩn bị bay lên dũng mãnh, bộ lông nhiều màu sắc bóng mượt như chim anh vũ nhưng lớn gấp hàng trăm nghìn lần.
Trên cạnh tiếp theo là một con thú nửa ngựa nửa hươu, đầu ngẩng cao, bốn vó đang co lên như chuẩn bị phi nước đại. Toàn thân là lớp lông ngắn màu đen tuyền dựng đứng, sờ lên thì có cảm giác những sợi lông cứng đang chọc thẳng vào đầu ngón tay. Hai mắt thú mở trừng trừng, con ngươi bên trong to gần bằng quả bóng bàn, phát ra những tia sáng hừng hực màu đen nháy, hướng thẳng về phía tôi.
Trên ba cạnh còn lại vẫn là ba con vật ấy, hình dạng hoàn toàn giống nhau, hơn nữa, chúng còn nhìn trực diện vào nhau. Tôi như bị hút hồn vào những bức tranh, sự sống động và chân thật của hình ảnh khiến tôi có cảm giác như đang lạc vào một phòng trưng bày hiện vật với hết bất ngờ này tới bất ngờ khác.
Tôi bước tới chiếc cột trụ ở chính giữa, ngồi tựa lưng xuống rồi giơ đèn pin lần lượt soi về sáu cạnh tường. Chùm ánh sáng chiếu ra thẳng tắp như một chiếc gậy dài, cắt qua màn đêm dày đặc. Cứ mỗi lần ánh đèn chiếu tới, các con vật trong tranh như bừng tỉnh qua một đêm dài, chúng đưa mắt nhìn thẳng về phía tôi như những con quái vật sống. Tôi khẽ rùng mình, nuốt nước bọt, đầu óc quay cuồng, không còn làm chủ được ý thức của mình.
Mãi sau đó, tôi mới phát hiện ra một điều vô cùng thú vị.
Đó là, với hình con cá nằm ngang, chiếc đuôi ở bên tay trái bức tường, với hình con cá ở phía đối diện, phần đuôi lại ở phía tay phải. Hình chim và thú ở những cạnh còn lại cũng như thế, tất cả các bộ phận trên cơ thể đều giống hệt nhau, chỉ có điều vị trí phản ngược lại. Nếu như con bên trái là hình thật, thì con đối diện sẽ giống hình phản chiếu qua gương, hình dáng và thần thái giống y hệt nhau nhưng vị trí thì tương phản.
Tôi chăm chú theo dõi từng bức hình, từng nét vẽ nhưng không thể lý giải được ý đồ của chúng là gì. Bỗng nhiên, trong đầu tôi hiện ra hình ảnh Tiểu Đường tự khắc khuôn mặt mình lên gương vào đêm hôm đó…
Một ý nghĩ khiến tôi lặng người, hình ảnh bức tranh da người của cậu tôi, rồi khuôn mặt của Tiểu Đường… Không phải chứ?!!!
Tôi nhớ rất rõ, cậu tôi có một nốt ruồi rất to bên má trái, đúng tại vị trí gò má. Nếu như cậu tôi tìm người để xăm hình lên lưng thì đáng nhẽ nốt ruồi đó khi phản chiếu lại sẽ nằm ở phía má phải, nhưng nốt ruồi trên mảnh da vẫn nằm ở bên trái.
Tôi thở dài một hơi, thấy mọi thứ trở nên rối tung, theo thói quen cũ, tôi lại đưa tay bóp mạnh trán. Người thợ xăm chắc chắn phải nhìn kĩ khuôn mặt của cậu tôi trước khi xăm, vậy nếu theo lí thuyết thì phải xăm nó ở bên phải, sao lại có thể ngược lại như thế? Trừ khi người đó nhìn cậu tôi qua hai lần phản chiếu. Nhưng rõ ràng cậu tôi ngồi ngay đấy, tại sao lại phức tạp như thế?
Nghĩ đến đó, đầu tôi bỗng nhiên khựng lại, hai lần phản chiếu… hai lần phản chiếu… Đây chắc chắn là điểm cốt lõi của vấn đề, nhưng dù có suy nghĩ nát óc, tôi cũng không thể lí giải được nguyên do.
Đầu tôi như một đống bùng nhùng, với vô vàn những câu hỏi chưa tìm được lời giải đáp. Mặt trong của ngôi tháp cổ là một hình sáu cạnh điển hình, cạnh đối cạnh, ba con thú lạ trên tường cũng đối ứng với nhau, tất cả các nét đều giống nhau như tạc, nhưng vị trí lại tương phản nhau, thêm nữa, hình như tất cả chúng đều gắn liền với chiếc gương…
Tôi nghĩ ngay tới mười chín bức vẽ tháp cổ của Từ Vạn Lý và ngọn tháp ở hiện thực. Trong các bức tranh, các ngọn tháp cổ đều có mười chín tầng, nhưng ngọn tháp thực tế chỉ có mười ba tầng, mười chín trừ mười ba, đúng bằng sáu; hơn nữa, bên trong ngọn tháp có sáu cạnh, dưới lòng đất lại cất dấu một cỗ máy bí mật gồm sáu đường luân hồi; cả hình mặt trời trên trụ tháp, tấm Long Bản trên tay Bồ Tát cũng là sáu. Tất cả sự vật sự việc đều ẩn chứa con số sáu bí ẩn.
Tôi càng nghĩ càng thấy rối bời, đầu óc căng ra như muốn nổ tung, cứ như đang có một chiếc búa sắt nện lên những nơ-ron thần kinh của tôi. Số sáu chết tiệt, rốt cuộc nó có nghĩa là gì?
Từng tế bào thần kinh trong đầu vận hành như một cỗ máy chạy hết công suất mà vẫn không sao hiểu nổi. Nhận ra mình càng nghĩ thì càng hao phí thần trí, tôi gạt bỏ ý nghĩ đó qua một bên, từ từ đứng dậy, bước tới vị trí phía dưới cánh cửa Nhân Đạo.
Tôi ngẩng đầu nhìn lên, miệng hố vẫn đóng im lìm, nó quá cao so với vị trí của tôi hiện tại, thở dài tuyệt vọng, tôi nghĩ tới Tiểu Đường và Lão Mục, không biết họ ở trên đó như thế nào rồi.
Bỗng nhiên, tôi sực nhớ ra mình vẫn cầm theo bộ đàm, như được tiếp thêm sức mạnh, tôi cuống quít lôi nó ra khỏi ba-lô, điều chỉnh tầng sóng rồi hét to vào phần thu âm. Nhưng dù tôi gào thét đến khản cổ, đáp lại vẫn chỉ là những tiếng rè rè xẹt xẹt, bốn phía xung quanh vọng tới những tiếng vang chói lói.
Tôi lắc đầu ngao ngán, tia hi vọng chưa kịp sáng đã bị dập tắt. Tôi nhớ lúc trước Lão Mục có nói rằng, đây là bộ đàm chuyên dụng trong nội bộ Cục An ninh Quốc gia, áp dụng nguyên lí thu phát bằng bước sóng nên độ phân bổ tín hiệu vô cùng mạnh trong phạm vi rộng lớn, đặc biệt phù hợp với việc liên lạc trong không gian sóng bị hạn chế như lòng động, lòng đất. Vậy tại sao lúc này lại không có tác dụng, phải chăng vật liệu kiến trúc ở đay còn có tác dụng chắn sóng.
Tôi điều chỉnh lại góc độ và tần số cho bộ đàm rồi thử lại lần nữa, mặc cho tôi ra sức gào thét, nó cũng không có chút phản ứng. Tôi thở dài thất vọng, đành nhét bộ đàm vào trong túi, chán nản quanh quẩn xung quanh xem xét.
Dưới chân sáu bức tường lại là sáu hình thái cực, tôi có cảm giác như công trình dưới lòng đất không bao giờ kết thúc. Không bỏ cuộc, tôi quay đầu bước tới cột trụ, lôi mũi dao ra, thử cào lớp dầu sơn trên bề mặt nhưng vẫn không thấy lỗ mắt nào.
Tôi lại không biết xăm thân khắc hình, làm sao đủ khả năng để mở hình thái cực, mà kể cả có mở ra được thì tôi cũng không biết nó thuộc nhóm nào, lỡ đi lạc vào đường Ác Quỷ hay Địa Ngục thì… Chỉ cần nghe tên thôi cũng đã biết nó không tốt đẹp gì, có trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra. Giờ chỉ còn cách chờ Lão Mục và Tiểu Đường tới ứng cứu thôi.
Tôi ngồi ôm gối thu lu một góc, mắt không ngừng nhìn sáu bức bích họa trên tường, trong đầu tưởng tượng đến những khó khăn ở cửa ải tiếp theo, liệu nơi đó có giống như tâng tháp này không?
Trong đầu tôi bỗng vụt ra ý nghĩ, ở phía dưới có phải vẫn còn bốn tầng tháp nữa? Có như vậy mới đủ sáu tầng, vừa khớp với số tầng trong bức tranh của Từ Vạn Lý, và cũng khớp với con số sáu bí ẩn.
Ngồi suy luận một lúc, tôi cảm thấy giả thuyết đó rất hợp lí, nhưng thực hư thế nào, phải chờ Tiểu Đường tới kiểm chứng mới biết được.
Thời gian tích tắc trôi qua, tôi ngồi yên một chỗ chờ đợi mà không biết chính xác là bao lâu, vì tôi thực sự không còn khái niệm thời gian từ khi xuống dưới này. Một mình ngồi trong khoảng không vắng lặng và tối om, lại thêm cảm giác sợ hãi thít chặt tâm can, rất dễ khiến cho người ta cảm thấy cô độc như bị cả thế giới bỏ rơi, tâm trạng rơi vào tột cùng nỗi tuyệt vọng.
Đang lúc tủi thân và yếu lòng nhất, bỗng nhiên có tiếng chuyển động của kim loại dội tới, tôi sướng như điên, nỗi tuyệt vọng vừa còn day dứt bỗng chốc biến mất, tôi vội vàng đứng bật dậy, hướng chiếc đèn pin lên trên, mắt sáng lên đầy hi vọng, miệng không dấu nổi nụ cười. Vậy là Tiểu Đường và Lão Mục đã khởi động được cỗ máy đó.
Nhưng mọi việc lại không diễn ra như tôi hi vọng, đợi mãi cho đến khi tiếng động kia dừng lại hẳn, tôi vẫn không thấy miệng hố mở nắp ra, liền lôi máy bộ đàm ra gào tới mức khản cả tiếng, nhưng vẫn không có tiếng đáp lại. Tôi bắt đầu sốt ruột, tim đập thình thịch vì kích động, biết không còn hy vọng gì, tôi liền tắt đèn pin, để mình chìm trong khoảng không dày đặc, tâm trạng trở nên hoang mang và lo sợ đến tột cùng, quả thực không thể dùng lời để diễn tả nỗi sợ hãi đó…
Do vừa bị thương lại thêm tác động tâm lí, tôi thực sự thấm mệt liền thả người nằm xuống mặt sàn, tìm tư thế thoải mái nhất, từ từ khép mắt lại nghỉ ngơi lấy sức.
Người mệt tới mức vừa nhắm mắt lại tôi đã lập tức chìm vào giấc ngủ mơ màng, bên tai vẫn còn văng vẳng tiếng rì rào, giống như tiếng sóng biển không ngừng vỗ bờ…
Tôi bỗng giật mình choàng tỉnh, xung quanh vẫn là khoảng không tối đen như mực, nhưng rõ ràng tôi vừa cảm nhận thấy mặt đất đang xoay chuyển một cách chầm chậm và cân bằng. Đồng thời, từ bốn phương tám hướng, những tiếng ken két, rin rít vang tới, giống như tiếng của hàng nghìn con chuột đang đồng thanh nghiến răng.
Tôi định thần lại, lập tức quay đầu ra phía sau, bật chiếc đèn pin lên, điều chỉnh tới nấc sáng nhất, rồi quét một vòng trên các bức tường. Các con vật lại một lần nữa trừng trừng nhìn tôi, tư thế của chúng như đang chuẩn bị nhảy ra khỏi bức tường lao tới chỗ tôi cắn xé.
Tôi lạnh toát sống lưng, vội vàng nhắm mắt lại, nằm sụp xuống mặt sàn chờ đợi, thầm cầu nguyện mọi sự bình an, nếu không khi có chuyện xảy ra, một mình tôi không thể chống đỡ nổi. Khoảng hai mươi giây sau, chuyển động từ từ ngừng lại, sau đó là những tiếng nổ rền vang liên tiếp, giống như tiếng sấm trước mỗi cơn mưa rào, nghe thật đinh tai nhức óc.
Tôi lắng nghe động tĩnh, mắt đảo quanh quan sát, phát hiện ra tấm kim loại hình thái cực đã mở từ lúc nào không hay. Tôi bất ngờ tới mức không dám tin vào mắt mình, không hiểu chuyện gì đang diễn ra, không có Tiểu Đường ở đây mở khóa, tại sao tấm kim loại đó lại tự động mở ra? Không chần chừ, tôi vội vàng chạy tới, ngó xuống phía dưới xem sao.
Phía dưới tấm kim loại là một khoảng không rộng lớn bao phủ bởi một màu đen ngòm, ánh đèn pin như bị nuốt chửng bởi bóng tối dày đặc, tôi hoàn toàn không nhìn thấy bất cứ thứ gì và cũng không biết căn hầm sâu bao nhiêu? Thực sự tôi rất muốn nhảy xuống đó xem sao, nhưng không có sợi dây thừng ở đây, nên cũng không dám thử, chỉ biết cam chịu nhìn xuống dưới.
Tôi đứng dậy chạy sang vị trí bên cạnh xem sao, đèn pin vừa soi xuống dưới thì bất ngờ phát hiện ra phía dưới có những chùm ánh sáng màu trắng chồng chéo lên nhau, cách khoảng hơn chục mét; ngoài ra còn vọng lên tiếng rì rầm nói chuyện, âm thanh khá nhỏ nên tôi không nghe rõ họ đang nói cái gì.
Dưới đó có người!
Hố này phức tạp hơn tôi nghĩ, nó sâu và thẳng đuột xuống dưới như một ống khói khổng lồ, dù bên trên đã có hai người khống chế sợi dây nhưng tôi vẫn phải dùng hai chân đạp mạnh vào hai bên vách tường, vừa để thăm dò vừa để tránh bị va đập. Điều đặc biệt là bề mặt các vách tường đều phủ kín những bức họa, tôi đưa tay ra sờ, ngoài bề mặt nhẵn thín thì những nét vẽ đều hằn sâu vào trong, tôi ngờ vực không biết đó có phải là khắc hình hay không.
Nhưng điều kiến tôi khó hiểu hết sức là những nhân vật xuất hiện trong bức họa đều khỏa thân, trẻ con có, người già có, còn có cả người ốm đâu bệnh tật; mặc dù các nét vẽ khá đơn giản nhưng lại hết sức sinh động, sắc mặt của các nhân vật có vui có buồn, đến cả dáng hình và tư thế cũng không giống nhau. Những bức vẽ này giống như đang miêu tả lại quy luật của cuộc sống, quy luật tồn tại của con người, từ nhỏ đến lớn, từ trẻ đến già, từ sinh ra đến khi chết đi.
Đặc biệt là những đôi mắt, không biết các nghệ nhân xưa đã dùng kỹ thuật gì mà ánh mắt luôn nhìn đối diện về phía người xem, cho dù có ở góc nào đi chăng nữa. Có cảm giác như con ngươi của các nhân vật hơi lồi ra, chứng tỏ các nghệ nhân đã phải rất tỉ mỉ mài giũa, thổi hồn vào trong đó. Tất cả những ánh mắt đó đều giống hệt nhau, càng nhìn càng khiến người xem có cảm giác gì đó rất khó tả, giống như đang bị hàng nghìn hàng vạn ánh mắt theo dõi.
Không hiểu sao nhìn những ánh mắt đó, tôi cảm thấy lòng mình như thắt lại, con người trong cuộc sống bộn bề lo âu và vật lộn để mưu sinh, dù sống trong huy hoàng hay bi kịch thì cuối cùng cũng đều biến thành tàn tro. Tôi lại nghĩ đến bí mật về mảnh da người, tại sao cứ phải đi tìm sự thật? Mà tìm ra sự thật rồi thì để làm gì?
Một cảm giác thất vọng não nề cứ quanh quẩn trong trí óc tôi, nước mắt bắt đầu dâng lên, đầu óc mông lung đến tột cùng. Bỗng nhiên, tôi như sực tỉnh, có điều gì đó rất khác thường trong những bức bích họa này, nhìn lại thật kĩ, tôi nhận ra tất cả nhân vật trong bức tranh đều là phụ nữ.
Tôi hít một hơi thật sâu, lắc mạnh đầu lấy lại tinh thần, kì lạ thật! Nhưng khi nghĩ đến việc ngọn tháp cổ này được xây dựng từ thời nhà Liêu, dùng để cất giữ những di vật của hoàng hậu đương vị; những bức bích họa vẽ Quan Âm Bồ Tát cũng là giới nữ, tôi lại nghĩ có khi đây chính là tính đặc thù của ngọn tháp này cũng nên.
Tôi đang mơ màng trong dòng suy nghĩ thì bỗng nhiên, cả người tụt xuống một khoảng không gian rất rộng, hai chân chới với không điểm tựa. Tôi co rúm người, vội lia đèn pin ra khắp hướng, khung cảnh trước mặt khiến tôi ngỡ ngàng tột độ.
Phía dưới này là một tầng tháp khác, tôi chỉ có thể nhận ra được một phần vì không gian rất rộng, nhưng điều khiến tôi thực sự bất ngờ là kết cấu của tầng này giống hệt với kết cấu ở những tầng tháp trên.
Trong lúc vẫn còn đang nửa tỉnh nửa mê vì khung cảnh trước mắt thì tôi bỗng giật mình bởi một tiếng động rất lớn vọng xuống từ phía trên đỉnh, giống như tiếng động lúc tầng tháp xoay chuyển. Tôi vội vàng ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy ánh đèn pin mờ mờ của Tiểu Đường và Lão Mục, miệng hố hình chữ S đang dần dần khép lại, luồng ánh sáng từ trên rọi xuống cũng từ từ nhỏ dần. Tôi nghe thấy tiếng của hai người họ hét lớn:
- Xoay rồi, xoay rồi!
Sau đó tiếng la hét của hai người cùng với ánh đèn pin biến mất.
Sợi dây thừng vẫn bị kẹp chặt bởi hai miếng kim loại ở miệng hố, tôi cảm nhận rõ tiếng lựt xựt đứt của sợi dây thừng vì bị kẹp quá chặt, sức nặng của tôi sẽ khiến sợi dây đứt nhanh hơn. Ngó xuống phía dưới thăm dò, vị trí hiện tại của tôi còn cách mặt đất chừng sáu bảy mét.
Sáu bảy mét tương đương với độ cao của ba tầng nhà, bị rơi xuống, không chết cũng sẽ thành tàn tật. Tôi không biết phải làm sao, cũng không dám hét lên vì nghĩ cũng vô ích, chỉ biết giữ chặt sợi dây theo quán tính, nhìn trân trối xuống dưới chân, cố gắng làm sao không bị xoay tròn, tránh cho sợi dây phải chịu thêm áp lực.
Miệng hố Nhân Đạo giờ đã là một bức tường đen ngòm, yên ắng không một tiếng động. Sau khi lấy lại thăng bằng, tôi dùng đèn pin soi lên bức tường trước mặt với những bức họa mờ mờ, cố gắng nhìn thật kĩ, nhưng vì các nét vẽ quá nhỏ và rối, nên tôi gần như không nhận ra nội dung bức tranh là gì.
Bỗng nhiên, một tiếng “rắc” vang lên, thấy sợi dây đã sắp đứt rời, tôi vội vàng ngó nghiêng xung quanh, chuẩn bị tinh thần rơi cho cú rơi sắp tới. Chỉ một lúc sau, sợi dây do bị kéo quá căng nên đã đứt phựt, tôi hoàn toàn rơi tự do xuống phía dưới.
Tôi cố duỗi thẳng hai chân, vươn người đạp mạnh vào bức tường gần nhất để toàn thân nằm ngang ra nhằm giảm bớt lực rơi. Nhưng không như dự định, bức tường mà tôi đạp vào lại mềm như một tảng cao su khổng lồ, khiến cả hai chân tôi thụt sâu vào tới tận đầu gối. Cả người tôi như khựng lại, đầu chúc xuống dưới đất.
Sự cố xảy ra hoàn toàn nằm ngoài dự tính của tôi, để tìm cách thoát ra khỏi bức tường cao su này, hai chân tôi co thật mạnh cố rút ra, cả người cuộn tròn lấy sức vùng vẫy, hai bàn tay nắm thật chặt.
Cũng may kỹ năng thực chiến của tôi khá tốt nên chẳng mấy chốc đã thoát khỏi bức tường đó, sau khi tiếp đất, tôi lộn người vài vòng theo quán tính.
Giống như một trái bóng, tôi cứ lăn tròn không biết bao nhiêu vòng, cho tới khi lưng bị một vật cứng chặn lại. Tôi cảm thấy tay chân đau nhừ, lục phủ ngũ tạng lộn tung lên, cổ họng đắng chát.
Tôi cắn chặt răng, hai mắt nhắm nghiền, cố nằm yên một chỗ để tay chân và đầu óc bình thường trở lại, đồng thời cố điều chỉnh nhịp thở sao cho toàn thân được điều hòa, các cơ bắp được giãn ra.
Không gian xung quanh vẫn lặng yên như tờ, chỉ có tiếng ù ù trong đầu tôi vẫn đang loạn nhịp, đầu óc như muốn nổ tung. Phải mất một lúc lâu sau, tôi mới lấy lại tinh thần và nhịp thở, toàn thân mồ hôi vã ra như tắm, thấm ướt cả chiếc áo len đang mặc bên trong.
Sau khi bình tĩnh lại, tôi mở mắt, chống lại hai tay trên đất, cố gắng đứng dậy, cảm giác chân tay đang mềm nhũn ra, mắt nhìn sang bên cạnh, vật cứng chặn tôi lại chính là cây cột tháp.
Tôi ngồi dựa lưng lên đó, thở hắt ra, đưa mắt nhìn xung quanh. Chiếc đèn pin đã bị lăn ra một góc rất xa, luồng sáng chiếu thẳng vào một góc tường màu xanh.
Tôi liền đưa tay dụi mắt cho tỉnh táo hơn, định thần lại thì thấy một mảng xanh trong suốt như tảng pha lê màu ngọc bích khảm vào tường, lẽ nào đây là một bức bích họa khác? Đợi cho đến khi sức lực đã hồi phục trở lại, tôi bám vào thân cột đứng lên, lê từng bước tiến tới chỗ chiếc đèn pin. Khẽ cúi xuống nhặt chiếc đèn pin lên, tôi vừa mát-xa nhẹ vùng gáy vừa ngắm nhìn bức bích họa.
Mặc dù bức họa đã tồn tại từ rất lâu, màu sắc bên trên đã phần nào phai nhạt nhưng tôi vẫn nhận ra cục diện của bức tranh. Cả bức tường bao trùm bởi màu xanh làm, dưới ánh đèn pin, bề mặt bức tranh nổi lên như sóng cuộn, như đại dương rộng lớn mênh mông.
Phía trên đỉnh góc phải là hai dấu chân tôi bị thụt vào khi nãy, xung quanh mép nhăn nhúm như bề mặt xi-măng vừa láng bị ai đó vô tình giẫm lên. Ở giữa bức tranh là hình một loại cá có hình dạng vô cùng kì quặc, trông khá giống cá heo nhưng hai bên thân lại phình ra, đầu ngưới lên trên, hai bên mép mọc ra hai sợi râu dài màu bạc, chiếc đuôi như hai lưỡi kéo đang uốn cong lên, toàn thân bao phủ bởi lớp vẩy hình tròn bóng loáng màu trắng bạc. Toàn thân con cá toát ra một thứ ánh sáng mờ ảo như mê hoặc người nhìn.
Càng nhìn tôi càng thấy con cá này không giống với bất kì loại cá nào mình từng biết. Nhưng hình vẽ lại chân thật và sống động tới mức tôi cứ ngỡ con cá đang thỏa sức vẫy vùng giữa đại dương và cố nhảy lên không trung đùa giỡn với những con sóng.
Từ trước đến nay tôi chưa từng nghe nói cá là vật tổ của Phật giáo, nên cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Tôi đưa tay chạm nhẹ lên bức hình, cảm giác mát lạnh, trơn nhẵn và hơi dinh dính. Tôi cũng không biết phải miêu tả cảm giác đó như thế nào, chỉ biết rằng các sợi dây thần kinh trên dầu ngón tay mách bảo rằng tôi đang sờ vào một con cá thật.
Tôi bỗng thấy lạnh cả sống lưng, lập tức co người nhảy lùi ra sau, đôi mắt hãi hùng vẫn không rời khỏi con cá. Mẹ kiếp! Rõ ràng đó là một bức tranh. Tôi rùng mình lắc mạnh đầu, trong lòng tự trấn an bản thân chỉ là thần hồn nát thần tính, rồi nhớ lại bức tranh của cậu tôi, ở giữa bức tranh cũng đính một mảng da người thật, liệu bức tranh này có như vậy không?
Tôi hít một hơi thật sâu, lấy hết lòng can đảm tiến lại gần bức tranh, đưa tay kiểm nghiệm một lần nữa. Quả đúng như thế, lớp da cá chính xác được khảm lên bề mặt bức tranh, viền mép xung quanh nối với bức tranh kín tới mức tôi không thể tìm ra điểm giao cắt, nhưng họ làm thế nào để giữ được độ ẩm cho da cá mà không bị tiêu hủy?
Tôi suy nghĩ nát óc cúng không thể hiểu nối, đây quả thực là một điều huyền bí. Cầm đèn pin trong tay, tôi tiếp tục men theo bức tranh để quan sát động tĩnh.
Bức tường cạnh đó vẽ một loại chim có chiếc mỏ nhỏ và nhọn hoắt màu vàng kim, một chân chim quặp vào một chân khác duỗi ra với bộ móng sắc nhọn, hai cánh sải rộng, còn chiếc đuôi dài chừng hai mét cũng cong lên mềm mại, cảm giác như nó đang chuẩn bị bay lên dũng mãnh, bộ lông nhiều màu sắc bóng mượt như chim anh vũ nhưng lớn gấp hàng trăm nghìn lần.
Trên cạnh tiếp theo là một con thú nửa ngựa nửa hươu, đầu ngẩng cao, bốn vó đang co lên như chuẩn bị phi nước đại. Toàn thân là lớp lông ngắn màu đen tuyền dựng đứng, sờ lên thì có cảm giác những sợi lông cứng đang chọc thẳng vào đầu ngón tay. Hai mắt thú mở trừng trừng, con ngươi bên trong to gần bằng quả bóng bàn, phát ra những tia sáng hừng hực màu đen nháy, hướng thẳng về phía tôi.
Trên ba cạnh còn lại vẫn là ba con vật ấy, hình dạng hoàn toàn giống nhau, hơn nữa, chúng còn nhìn trực diện vào nhau. Tôi như bị hút hồn vào những bức tranh, sự sống động và chân thật của hình ảnh khiến tôi có cảm giác như đang lạc vào một phòng trưng bày hiện vật với hết bất ngờ này tới bất ngờ khác.
Tôi bước tới chiếc cột trụ ở chính giữa, ngồi tựa lưng xuống rồi giơ đèn pin lần lượt soi về sáu cạnh tường. Chùm ánh sáng chiếu ra thẳng tắp như một chiếc gậy dài, cắt qua màn đêm dày đặc. Cứ mỗi lần ánh đèn chiếu tới, các con vật trong tranh như bừng tỉnh qua một đêm dài, chúng đưa mắt nhìn thẳng về phía tôi như những con quái vật sống. Tôi khẽ rùng mình, nuốt nước bọt, đầu óc quay cuồng, không còn làm chủ được ý thức của mình.
Mãi sau đó, tôi mới phát hiện ra một điều vô cùng thú vị.
Đó là, với hình con cá nằm ngang, chiếc đuôi ở bên tay trái bức tường, với hình con cá ở phía đối diện, phần đuôi lại ở phía tay phải. Hình chim và thú ở những cạnh còn lại cũng như thế, tất cả các bộ phận trên cơ thể đều giống hệt nhau, chỉ có điều vị trí phản ngược lại. Nếu như con bên trái là hình thật, thì con đối diện sẽ giống hình phản chiếu qua gương, hình dáng và thần thái giống y hệt nhau nhưng vị trí thì tương phản.
Tôi chăm chú theo dõi từng bức hình, từng nét vẽ nhưng không thể lý giải được ý đồ của chúng là gì. Bỗng nhiên, trong đầu tôi hiện ra hình ảnh Tiểu Đường tự khắc khuôn mặt mình lên gương vào đêm hôm đó…
Một ý nghĩ khiến tôi lặng người, hình ảnh bức tranh da người của cậu tôi, rồi khuôn mặt của Tiểu Đường… Không phải chứ?!!!
Tôi nhớ rất rõ, cậu tôi có một nốt ruồi rất to bên má trái, đúng tại vị trí gò má. Nếu như cậu tôi tìm người để xăm hình lên lưng thì đáng nhẽ nốt ruồi đó khi phản chiếu lại sẽ nằm ở phía má phải, nhưng nốt ruồi trên mảnh da vẫn nằm ở bên trái.
Tôi thở dài một hơi, thấy mọi thứ trở nên rối tung, theo thói quen cũ, tôi lại đưa tay bóp mạnh trán. Người thợ xăm chắc chắn phải nhìn kĩ khuôn mặt của cậu tôi trước khi xăm, vậy nếu theo lí thuyết thì phải xăm nó ở bên phải, sao lại có thể ngược lại như thế? Trừ khi người đó nhìn cậu tôi qua hai lần phản chiếu. Nhưng rõ ràng cậu tôi ngồi ngay đấy, tại sao lại phức tạp như thế?
Nghĩ đến đó, đầu tôi bỗng nhiên khựng lại, hai lần phản chiếu… hai lần phản chiếu… Đây chắc chắn là điểm cốt lõi của vấn đề, nhưng dù có suy nghĩ nát óc, tôi cũng không thể lí giải được nguyên do.
Đầu tôi như một đống bùng nhùng, với vô vàn những câu hỏi chưa tìm được lời giải đáp. Mặt trong của ngôi tháp cổ là một hình sáu cạnh điển hình, cạnh đối cạnh, ba con thú lạ trên tường cũng đối ứng với nhau, tất cả các nét đều giống nhau như tạc, nhưng vị trí lại tương phản nhau, thêm nữa, hình như tất cả chúng đều gắn liền với chiếc gương…
Tôi nghĩ ngay tới mười chín bức vẽ tháp cổ của Từ Vạn Lý và ngọn tháp ở hiện thực. Trong các bức tranh, các ngọn tháp cổ đều có mười chín tầng, nhưng ngọn tháp thực tế chỉ có mười ba tầng, mười chín trừ mười ba, đúng bằng sáu; hơn nữa, bên trong ngọn tháp có sáu cạnh, dưới lòng đất lại cất dấu một cỗ máy bí mật gồm sáu đường luân hồi; cả hình mặt trời trên trụ tháp, tấm Long Bản trên tay Bồ Tát cũng là sáu. Tất cả sự vật sự việc đều ẩn chứa con số sáu bí ẩn.
Tôi càng nghĩ càng thấy rối bời, đầu óc căng ra như muốn nổ tung, cứ như đang có một chiếc búa sắt nện lên những nơ-ron thần kinh của tôi. Số sáu chết tiệt, rốt cuộc nó có nghĩa là gì?
Từng tế bào thần kinh trong đầu vận hành như một cỗ máy chạy hết công suất mà vẫn không sao hiểu nổi. Nhận ra mình càng nghĩ thì càng hao phí thần trí, tôi gạt bỏ ý nghĩ đó qua một bên, từ từ đứng dậy, bước tới vị trí phía dưới cánh cửa Nhân Đạo.
Tôi ngẩng đầu nhìn lên, miệng hố vẫn đóng im lìm, nó quá cao so với vị trí của tôi hiện tại, thở dài tuyệt vọng, tôi nghĩ tới Tiểu Đường và Lão Mục, không biết họ ở trên đó như thế nào rồi.
Bỗng nhiên, tôi sực nhớ ra mình vẫn cầm theo bộ đàm, như được tiếp thêm sức mạnh, tôi cuống quít lôi nó ra khỏi ba-lô, điều chỉnh tầng sóng rồi hét to vào phần thu âm. Nhưng dù tôi gào thét đến khản cổ, đáp lại vẫn chỉ là những tiếng rè rè xẹt xẹt, bốn phía xung quanh vọng tới những tiếng vang chói lói.
Tôi lắc đầu ngao ngán, tia hi vọng chưa kịp sáng đã bị dập tắt. Tôi nhớ lúc trước Lão Mục có nói rằng, đây là bộ đàm chuyên dụng trong nội bộ Cục An ninh Quốc gia, áp dụng nguyên lí thu phát bằng bước sóng nên độ phân bổ tín hiệu vô cùng mạnh trong phạm vi rộng lớn, đặc biệt phù hợp với việc liên lạc trong không gian sóng bị hạn chế như lòng động, lòng đất. Vậy tại sao lúc này lại không có tác dụng, phải chăng vật liệu kiến trúc ở đay còn có tác dụng chắn sóng.
Tôi điều chỉnh lại góc độ và tần số cho bộ đàm rồi thử lại lần nữa, mặc cho tôi ra sức gào thét, nó cũng không có chút phản ứng. Tôi thở dài thất vọng, đành nhét bộ đàm vào trong túi, chán nản quanh quẩn xung quanh xem xét.
Dưới chân sáu bức tường lại là sáu hình thái cực, tôi có cảm giác như công trình dưới lòng đất không bao giờ kết thúc. Không bỏ cuộc, tôi quay đầu bước tới cột trụ, lôi mũi dao ra, thử cào lớp dầu sơn trên bề mặt nhưng vẫn không thấy lỗ mắt nào.
Tôi lại không biết xăm thân khắc hình, làm sao đủ khả năng để mở hình thái cực, mà kể cả có mở ra được thì tôi cũng không biết nó thuộc nhóm nào, lỡ đi lạc vào đường Ác Quỷ hay Địa Ngục thì… Chỉ cần nghe tên thôi cũng đã biết nó không tốt đẹp gì, có trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra. Giờ chỉ còn cách chờ Lão Mục và Tiểu Đường tới ứng cứu thôi.
Tôi ngồi ôm gối thu lu một góc, mắt không ngừng nhìn sáu bức bích họa trên tường, trong đầu tưởng tượng đến những khó khăn ở cửa ải tiếp theo, liệu nơi đó có giống như tâng tháp này không?
Trong đầu tôi bỗng vụt ra ý nghĩ, ở phía dưới có phải vẫn còn bốn tầng tháp nữa? Có như vậy mới đủ sáu tầng, vừa khớp với số tầng trong bức tranh của Từ Vạn Lý, và cũng khớp với con số sáu bí ẩn.
Ngồi suy luận một lúc, tôi cảm thấy giả thuyết đó rất hợp lí, nhưng thực hư thế nào, phải chờ Tiểu Đường tới kiểm chứng mới biết được.
Thời gian tích tắc trôi qua, tôi ngồi yên một chỗ chờ đợi mà không biết chính xác là bao lâu, vì tôi thực sự không còn khái niệm thời gian từ khi xuống dưới này. Một mình ngồi trong khoảng không vắng lặng và tối om, lại thêm cảm giác sợ hãi thít chặt tâm can, rất dễ khiến cho người ta cảm thấy cô độc như bị cả thế giới bỏ rơi, tâm trạng rơi vào tột cùng nỗi tuyệt vọng.
Đang lúc tủi thân và yếu lòng nhất, bỗng nhiên có tiếng chuyển động của kim loại dội tới, tôi sướng như điên, nỗi tuyệt vọng vừa còn day dứt bỗng chốc biến mất, tôi vội vàng đứng bật dậy, hướng chiếc đèn pin lên trên, mắt sáng lên đầy hi vọng, miệng không dấu nổi nụ cười. Vậy là Tiểu Đường và Lão Mục đã khởi động được cỗ máy đó.
Nhưng mọi việc lại không diễn ra như tôi hi vọng, đợi mãi cho đến khi tiếng động kia dừng lại hẳn, tôi vẫn không thấy miệng hố mở nắp ra, liền lôi máy bộ đàm ra gào tới mức khản cả tiếng, nhưng vẫn không có tiếng đáp lại. Tôi bắt đầu sốt ruột, tim đập thình thịch vì kích động, biết không còn hy vọng gì, tôi liền tắt đèn pin, để mình chìm trong khoảng không dày đặc, tâm trạng trở nên hoang mang và lo sợ đến tột cùng, quả thực không thể dùng lời để diễn tả nỗi sợ hãi đó…
Do vừa bị thương lại thêm tác động tâm lí, tôi thực sự thấm mệt liền thả người nằm xuống mặt sàn, tìm tư thế thoải mái nhất, từ từ khép mắt lại nghỉ ngơi lấy sức.
Người mệt tới mức vừa nhắm mắt lại tôi đã lập tức chìm vào giấc ngủ mơ màng, bên tai vẫn còn văng vẳng tiếng rì rào, giống như tiếng sóng biển không ngừng vỗ bờ…
Tôi bỗng giật mình choàng tỉnh, xung quanh vẫn là khoảng không tối đen như mực, nhưng rõ ràng tôi vừa cảm nhận thấy mặt đất đang xoay chuyển một cách chầm chậm và cân bằng. Đồng thời, từ bốn phương tám hướng, những tiếng ken két, rin rít vang tới, giống như tiếng của hàng nghìn con chuột đang đồng thanh nghiến răng.
Tôi định thần lại, lập tức quay đầu ra phía sau, bật chiếc đèn pin lên, điều chỉnh tới nấc sáng nhất, rồi quét một vòng trên các bức tường. Các con vật lại một lần nữa trừng trừng nhìn tôi, tư thế của chúng như đang chuẩn bị nhảy ra khỏi bức tường lao tới chỗ tôi cắn xé.
Tôi lạnh toát sống lưng, vội vàng nhắm mắt lại, nằm sụp xuống mặt sàn chờ đợi, thầm cầu nguyện mọi sự bình an, nếu không khi có chuyện xảy ra, một mình tôi không thể chống đỡ nổi. Khoảng hai mươi giây sau, chuyển động từ từ ngừng lại, sau đó là những tiếng nổ rền vang liên tiếp, giống như tiếng sấm trước mỗi cơn mưa rào, nghe thật đinh tai nhức óc.
Tôi lắng nghe động tĩnh, mắt đảo quanh quan sát, phát hiện ra tấm kim loại hình thái cực đã mở từ lúc nào không hay. Tôi bất ngờ tới mức không dám tin vào mắt mình, không hiểu chuyện gì đang diễn ra, không có Tiểu Đường ở đây mở khóa, tại sao tấm kim loại đó lại tự động mở ra? Không chần chừ, tôi vội vàng chạy tới, ngó xuống phía dưới xem sao.
Phía dưới tấm kim loại là một khoảng không rộng lớn bao phủ bởi một màu đen ngòm, ánh đèn pin như bị nuốt chửng bởi bóng tối dày đặc, tôi hoàn toàn không nhìn thấy bất cứ thứ gì và cũng không biết căn hầm sâu bao nhiêu? Thực sự tôi rất muốn nhảy xuống đó xem sao, nhưng không có sợi dây thừng ở đây, nên cũng không dám thử, chỉ biết cam chịu nhìn xuống dưới.
Tôi đứng dậy chạy sang vị trí bên cạnh xem sao, đèn pin vừa soi xuống dưới thì bất ngờ phát hiện ra phía dưới có những chùm ánh sáng màu trắng chồng chéo lên nhau, cách khoảng hơn chục mét; ngoài ra còn vọng lên tiếng rì rầm nói chuyện, âm thanh khá nhỏ nên tôi không nghe rõ họ đang nói cái gì.
Dưới đó có người!
/16
|