Hành dinh Đề đốc Yến Tử Cơ.
Khi Liễu Khinh Yên đang chỉnh lý lại tình báo, cửa phòng khép hờ bỗng bị người ta nhẹ nhàng đẩy ra, một bóng dáng thon dài tiến vào, chỉ nghe tiếng bước chân, Liễu Khinh Yên đã biết là Vương Phác đến, hơn nữa nhìn khắp toàn bộ đại doanh Đề đốc, cũng chỉ có Vương Phác có thể đi vào biệt viện của nàng.
Liễu Khinh Yên duyên dáng đứng lên, ngoái đầu lại nhìn cười nói:
- Phò mã gia, ngài tới rồi à?
Vương Phác hừ một tiếng, đi đến ngồi đối diện với Liễu Khinh Yên, nói:
- Công tác tình báo của tỷ triển khai thật sự không đắc lực nha.
- Ồ.
Liễu Khinh Yên lườm Vương Phác một cái, sẵng giọng:
- Có phải là đường báo của Kinh sư chuyển tới rồi đúng không?
- Còn gì nữa.
Vương Phác tức giận nói:
- Xem ra tin tức của tỷ vẫn chậm hơn tám trăm dặm khẩn cấp của Kinh sư đấy.
- Ơ, vậy oan uổng tỷ tỷ rồi.
Liễu Khinh Yêu yêu kiều đi đến trước mặt Vương Phác, duỗi ngón tay chỉ vào trán hắn, gắt giọng:
- Ngươi cho là người của Thánh giá là tâm phúc của Sấm tặc và Kiến Nô sao? Cho nên, nhất cử nhất động của Lưu tặc và Kiến Nô tỷ tỷ đều lập tức biết ngay à? Muốn thật sự như thế, thế thì bớt việc rồi, Ngọc nhi động mồm mép là có thể giết Sấm tặc và thủ lĩnh Kiến Nô, triều Đại Minh chẳng phải là thiên hạ thái bình rồi hả?
Vương Phác bật cười, tuy nhiên cẩn thận ngẫm lại cũng thấy có lý.
Liễu Khinh Yên vòng ra sau lưng Vương Phác, ngón tay dài nhỏ cào vào tóc mai của hắn, vừa nhẹ nhàng mát xa da đầu hắn, vừa quyến rũ nói:
- Thánh giáo ở các tỉnh đều có chi nhánh tình báo, bao gồm quan ngoại cũng có người của Thánh giáo, nhưng họ phần lớn chỉ giống dân chúng bình thường, giống như Phiên Giang Long trà trộn vào làm thủ hạ của Cố Tam Ma Tử là số cực kỳ ít, bởi vậy, chi nhánh tình báo các nơi trình tin tức lên có thể nói là đủ loại, không chỗ nào là không có, tỷ tỷ còn phải dành thời gian sưu tập toàn bộ tin tức hữu dụng, sau đó lại tiến hành phân tích mới đưa được tin tức quan trọng cho ngươi, đây cũng không phải là việc dễ dàng.
Vương Phác nói:
- Xem ra cần phải tìm vài tiểu cô nương thông minh lanh lợi để hỗ trợ cho tỷ rồi.
Liễu Khinh Yên cúi đầu xuống, thổi một hơi vào lỗ tai của Vương Phác, cười nói:
- Vì sao không tìm cho tỷ tỷ vài thiếu niên tuấn tú nhã nhặn chứ?
- Khó mà làm được.
Hai tay Vương Phác xoay ngược lại, từ đùi non của Liễu Khinh Yên tìm tòi lên trên, tận đến khi sắp chạm vào nơi tư mật kia, đáng tiếc không đợi hắn đạt được, Liễu Khinh Yên đã hất tay hắn ra. Vương Phác cười nói:
- Thật ra tìm vài thiếu niên tuấn tú hỗ trợ, vậy chẳng phải là bị tỷ mê hoặc đến thần hồn điên đảo đó sao? Sợ là càng giúp càng bận rộn.
- Thật sao? Thật là như vậy sao.
Liễu Khinh Yên cười phóng đãng nói:
- Sao không thấy ngươi thần hôn điên đảo?
- Bớt trêu chọc ta đi.
Vương Phác nuốt nước miếng một cái, buồn bực nói:
- Cẩn thận ta hạ dược trong trà của tỷ đấy, trước tiên hạ tỷ hôn mê, sau đó...hừ hừ....
Bàn tay nhỏ bé của Liễu Khinh Yên bỗng vuốt ve từ ngực bụng của hắn xuống dưới, cuối cùng dừng lại ở nơi yếu hại của hắn, ngón tay nhỏ dài nhẹ nhàng khéo léo vuốt ve vài cái, Vương Phác lập tức có phản ứng mãnh liệt.
Yêu nữ này rốt cuộc có phải là trinh nữ hay không, Vương Phác cũng không biết, nhưng có một điều có thể khẳng định, yêu nữ này nhất định đã từng được huấn luyện đặc biệt về phương diện nam nữ hoan ái, hiểu rõ kỹ thuật, cách thức khơi gợi dục vọng của đàn ông. Nghe truyền thuyết dân gian đồn đại thì Bạch Liên giáo là do Hoan Hỉ Thiền Tông của Phật Giáo biến hóa thành, xem ra không phải là tin đồn vô căn cứ, bằng không sao yêu nữ Liễu Khinh Yên này lại mê hoặc như thế?
Tận đến khi trêu đùa làm dục hỏa của Vương Phác thiêu đốt, Liễu Khinh Yên mới ghé sát vào tai hắn, cười phóng đãng nói:
- Phò mã gia, khi nào thì ngài thành Tào Tháo thì khi đó tỷ tỷ sẽ khiến cho ngài thật sự mất hồn vía, cho ngài nếm thử chút tư vị nam nữ tiêu hồn trên thế gian này, khiến ngài biết thế nào là sống lên chết xuống, ha ha....
- Phù...
Vương Phác thở hổn hển, không dám giằng co với yêu nữ này nữa, vội nói sang chuyện khác:
- Dự tính… khi nào thì Lưu tặc đánh đến Bắc Kinh?
Liễu Khinh Yên quyến rũ nói:
- Theo các loại dấu hiệu mà phán đoán, Tổng binh Đại Đồng Khương Tương đã đầu hàng Lưu tặc, một khi mất đi lá chắn là Đại Đồng, theo tỷ tỷ đoán, chậm nhất là đầu tháng mười, sớm nhất là đầu tháng chín, Bắc lộ đại quân của Lý Tự Thành có thể giết đến thành Bắc Kinh, trung lộ của Lưu Tông Mẫn và nam lộ của Lý Quá cũng có thể vào trung tuần tháng chín đánh tới Bắc Kinh.
Sáng sớm hôm sau, Vương Phác mang theo Vệ Đội đi thẳng đến xưởng Công binh dưới chân núi Tử Kim.
Nửa năm trước, Vương Phác chỉnh hợp xưởng binh khí và cục Hỏa dược, cũng chính thức đổi tên là Xưởng Công binh.
Xưởng Công binh Tử Kim Sơn được xây dựng vào tháng tư, tuy quy mô không lớn nhưng địa vị lại không hề tầm thường, bởi vì nó là Xưởng công binh có năng lực gia công máy móc nhất của triều Đại Minh, nói là gia công máy móc thật ra cũng hơi quá, Xưởng công binh Tử Kim Sơn cũng chỉ có hai bệ máy khoan thủy lực mà thôi.
Hơn nữa độ cao của Tử Kim Sơn so với mặt biển không cao, lượng nước suối trong núi không đủ, hàng năm chỉ có từ tháng tư đến tháng sáu vào mùa nức mới có thể sử dụng hai đài máy khoan thủy lực này, cũng may đây chỉ là tính chất thí nghiệm, Vương Phác cũng không để ý nhiều, một khi thí nghiệm thành công sẽ tìm nơi có tài nguyên nước sung túc dựng lên Xưởng công binh to lớn cũng không muộn.
Trong phân xưởng máy khoán, trục của hai bệ máy khoan thủy lực được cố định cùng với mũi khoan trên trục chính dưới sự kéo hạ của bánh xoắn đang xoay tròn một cách nhanh chóng, bởi vì không có ổ trục, chỉ có thể để cho từng trục và nền cố định tiến hành hoạt động ma sát, phát ra âm thành vô cùng chói tai.
Trục chính và mũi khoan của máy khoan thủy lực là lắp từ dưới lên trên, gắn với bánh xoắn giấu ở dưới mặt đất cùng với dòng chảy nước, trên máy khoan còn dựng một cái giá tam giác, trên giá có trang bị đường ray truyền thẳng đứng, có thể hoạt động kéo trượt, nòng cần khoan đã được cố định tại chỗ trượt.
Hai thợ thủ công vai tròn eo thô giữ chặt hai bên tay của tòa trượt, dùng sức nặng toàn thân ấn xuống, mũi khoan phi tốc xoay tròn từng điểm xoáy tiến vào trong nòng súng tại chỗ trượt, mũi khoan cùng vách nòng súng ma sát với nhau tạo nên âm thanh chói tai, còn có mùi cháy sém gay mũi tràn ngập trong không khí.
Một người thợ thủ công đang không ngừng tưới nước vào mũi khoan và nòng súng, để tránh cho mũi khoan và nòng súng bị đốt trọi.
Hai bệ máy khoan thủy lực này là Tống Ứng Tinh dựa theo thiết kế của Vương Phác đã tự mình giám sát chế tạo, đến hiện tại đã được dùng thử hơn hai tháng, tốc độ gia công quả nhiên là nhanh hơn so với nhân công nhiều lần, nhân công khoan phải mất một tháng mới có thể khoan được một vào một nòng súng, tốc độ gia công đề cao gấp ba mươi lần!
Hơn nữa máy khoan thủy lực xuyên ra nòng súng rõ ràng ngang bằng so với nhân công khoan ra.
Tuy nhiên, lần này Vương Phác tới xưởng công binh Tử Kim sơn cũng không phải vì máy khoan thủy lực mà tới, mà là vì nghiên cứu phát triển thành công của Tống Ứng Tinh về nòng súng sau.
Cái gọi là nòng súng sau tức là đối ngược với nòng súng trước.
Hỏa dược và chì đạn của nòng súng trước được bắn ra từ lối vào nòng súng nhét vào nòng súng, lại dùng que cời áp đến phần đáy, đó là một kỹ thuật rất tốn thời gian, trước khi chưa phát minh đạn xác giấy, mỗi lão binh thuần thục nhất trong mỗi phút đồng hồ cũng chỉ có thể khai mở hai phát, sau khi phát minh ra đạn xác giấy, tốc độ mới được đề cao ở mức lớn nhất.
Đạn xác giấy của nòng súng sau đã không còn nhét vào từ nòng súng trước, mà là nhét vào từ nòng súng sau, điểm tốt là nhét vào nhanh hơn, hơn nữa cũng không cần dùng que cời ép đạn dược vào trong nòng súng, cứ như vậy, binh lính có thể quỳ rạp trên mặt đất lắp đạn, liên tục bắn, điều này đã đề cao năng lực sinh tồn của hỏa thương binh trong đối xạ súng kíp.
Đối lập với nòng súng sau, nòng súng trước có ưu thế áp đảo.
Công nguyên năm 1545, năm Gia Tĩnh thứ 17, quân Minh tại Thu Phục trong trận chiến Song Tự bị người Bồ Đào Nha xâm chiếm, bắt được một số người Nhật Bản giỏi chế tạo Hỏa thằng thương (Súng mồi lửa), do đám người Mã Hiến, Lý Hòe học tập phương pháp chế tạo súng kíp, cũng trên cơ sở này mà gia tăng nghiên cứu cải tiến, vào năm Gia Tĩnh thứ 37 đã tạo ra được Hỏa thằng thương so với Tây phiên còn ưu việt hơn, được xưng là Điểu chủy súng, tức là điểu thương hoặc điểu súng.
Nòng của điểu súng dùng thép tôi tạo ra, nặng chừng 12 cân, có đầu ruồi súng, có cửa nhắm, lắp đặt trên đế gỗ, đường kính của súng dài từ 9-13mm, chiều dài nòng súng dài từ 90-150cm, tầm bắn lớn nhất đạt trên 300m, tầm sát thương trên 100m, tầm sát thương này không phải là khoác lác, độc giả từng sử dụng hỏa súng dân gian (cũng là súng không có giảm thanh) thì sẽ biết.
Có độc giả rất không hiểu nhưng lại nói như rất hiểu, rằng tầm bắn của hỏa thằng thương chỉ 45m vân vân, trên thực tế công nghệ tạo súng của đời Minh là khá hoàn mỹ, Mãn Thanh sau đó còn xa mới bằng được. Sau khi Mãn Thanh nhập chủ Trung Nguyên, công nghệ tạo súng, đúc pháo, tạo thuyền của đời Minh đã hoàn toàn bị gián đoạn, khoa học kỹ thuật thụt lùi ước chừng ba trăm năm.
Về phần điểu súng, hỏa súng bắn tiếp cận được biên quân Đại Minh sử dụng uy lực nhỏ, dễ dàng bị nổ, trong thực chiến hoàn toàn không áp chế được cung tiễn của Kiến Nô, đó hoàn toàn là bởi vì quan trường hủ bại tạo thành, quan viên công bộ vì trung gian kiếm lợi nhuận riêng, đã làm hàng nhái, làm thành nòng điểu súng mỏng vô cùng, không thể bị nổ sòng sao được?
Nhưng điều này không liên quan gì đến công nghệ chế tạo súng của đời Minh.
Tống Ứng Tinh nghiên cứu phát triển nòng súng sau đường kính chỉ nhỏ 10mm, so với nòng súng trước mà hỏa thương đội sử dụng thì nhỏ hơn 2mm, chiều dài nòng súng vẫn dài 120cm, nhìn nó dài hơn và nhẹ hơn, trang bị nòng cốt chính là một bánh xoắn, khá giống với dạng súng săn thời hiện tại là có thể gập lại, lấy đạn xác giấy ra đặt vào nòng sau, sau đó hợp súng lại, cài vào, có thể bắn.
Nòng súng sau này đường kính mặc dù nhỏ, nhưng số lượng trang bị đạn xác giấy lại không hề giảm bớt, cho nên so với đạn xác giấy của nòng súng trước dài nhỏ hơn, đại cũng từ chì đạn hình tròn đổi thành đạn hình trụ nhọn ở đỉnh.
Vương Phác bảo Lã Lục thử bắn hơn mười súng, phát hiện tốc độ bắn của nòng súng sau quả nhiên là đề cao lên, gần như là gấp hai nòng súng trước. Tầm bắn và độ chính xác cũng đề cao hơn nòng súng trước, tầm bắn đạt đến 300m, với những lão binh giống như Lã Lục, có thể ngoài 200m bắn chính xác mục tiêu lớn nhỏ.
Khi Liễu Khinh Yên đang chỉnh lý lại tình báo, cửa phòng khép hờ bỗng bị người ta nhẹ nhàng đẩy ra, một bóng dáng thon dài tiến vào, chỉ nghe tiếng bước chân, Liễu Khinh Yên đã biết là Vương Phác đến, hơn nữa nhìn khắp toàn bộ đại doanh Đề đốc, cũng chỉ có Vương Phác có thể đi vào biệt viện của nàng.
Liễu Khinh Yên duyên dáng đứng lên, ngoái đầu lại nhìn cười nói:
- Phò mã gia, ngài tới rồi à?
Vương Phác hừ một tiếng, đi đến ngồi đối diện với Liễu Khinh Yên, nói:
- Công tác tình báo của tỷ triển khai thật sự không đắc lực nha.
- Ồ.
Liễu Khinh Yên lườm Vương Phác một cái, sẵng giọng:
- Có phải là đường báo của Kinh sư chuyển tới rồi đúng không?
- Còn gì nữa.
Vương Phác tức giận nói:
- Xem ra tin tức của tỷ vẫn chậm hơn tám trăm dặm khẩn cấp của Kinh sư đấy.
- Ơ, vậy oan uổng tỷ tỷ rồi.
Liễu Khinh Yêu yêu kiều đi đến trước mặt Vương Phác, duỗi ngón tay chỉ vào trán hắn, gắt giọng:
- Ngươi cho là người của Thánh giá là tâm phúc của Sấm tặc và Kiến Nô sao? Cho nên, nhất cử nhất động của Lưu tặc và Kiến Nô tỷ tỷ đều lập tức biết ngay à? Muốn thật sự như thế, thế thì bớt việc rồi, Ngọc nhi động mồm mép là có thể giết Sấm tặc và thủ lĩnh Kiến Nô, triều Đại Minh chẳng phải là thiên hạ thái bình rồi hả?
Vương Phác bật cười, tuy nhiên cẩn thận ngẫm lại cũng thấy có lý.
Liễu Khinh Yên vòng ra sau lưng Vương Phác, ngón tay dài nhỏ cào vào tóc mai của hắn, vừa nhẹ nhàng mát xa da đầu hắn, vừa quyến rũ nói:
- Thánh giáo ở các tỉnh đều có chi nhánh tình báo, bao gồm quan ngoại cũng có người của Thánh giáo, nhưng họ phần lớn chỉ giống dân chúng bình thường, giống như Phiên Giang Long trà trộn vào làm thủ hạ của Cố Tam Ma Tử là số cực kỳ ít, bởi vậy, chi nhánh tình báo các nơi trình tin tức lên có thể nói là đủ loại, không chỗ nào là không có, tỷ tỷ còn phải dành thời gian sưu tập toàn bộ tin tức hữu dụng, sau đó lại tiến hành phân tích mới đưa được tin tức quan trọng cho ngươi, đây cũng không phải là việc dễ dàng.
Vương Phác nói:
- Xem ra cần phải tìm vài tiểu cô nương thông minh lanh lợi để hỗ trợ cho tỷ rồi.
Liễu Khinh Yên cúi đầu xuống, thổi một hơi vào lỗ tai của Vương Phác, cười nói:
- Vì sao không tìm cho tỷ tỷ vài thiếu niên tuấn tú nhã nhặn chứ?
- Khó mà làm được.
Hai tay Vương Phác xoay ngược lại, từ đùi non của Liễu Khinh Yên tìm tòi lên trên, tận đến khi sắp chạm vào nơi tư mật kia, đáng tiếc không đợi hắn đạt được, Liễu Khinh Yên đã hất tay hắn ra. Vương Phác cười nói:
- Thật ra tìm vài thiếu niên tuấn tú hỗ trợ, vậy chẳng phải là bị tỷ mê hoặc đến thần hồn điên đảo đó sao? Sợ là càng giúp càng bận rộn.
- Thật sao? Thật là như vậy sao.
Liễu Khinh Yên cười phóng đãng nói:
- Sao không thấy ngươi thần hôn điên đảo?
- Bớt trêu chọc ta đi.
Vương Phác nuốt nước miếng một cái, buồn bực nói:
- Cẩn thận ta hạ dược trong trà của tỷ đấy, trước tiên hạ tỷ hôn mê, sau đó...hừ hừ....
Bàn tay nhỏ bé của Liễu Khinh Yên bỗng vuốt ve từ ngực bụng của hắn xuống dưới, cuối cùng dừng lại ở nơi yếu hại của hắn, ngón tay nhỏ dài nhẹ nhàng khéo léo vuốt ve vài cái, Vương Phác lập tức có phản ứng mãnh liệt.
Yêu nữ này rốt cuộc có phải là trinh nữ hay không, Vương Phác cũng không biết, nhưng có một điều có thể khẳng định, yêu nữ này nhất định đã từng được huấn luyện đặc biệt về phương diện nam nữ hoan ái, hiểu rõ kỹ thuật, cách thức khơi gợi dục vọng của đàn ông. Nghe truyền thuyết dân gian đồn đại thì Bạch Liên giáo là do Hoan Hỉ Thiền Tông của Phật Giáo biến hóa thành, xem ra không phải là tin đồn vô căn cứ, bằng không sao yêu nữ Liễu Khinh Yên này lại mê hoặc như thế?
Tận đến khi trêu đùa làm dục hỏa của Vương Phác thiêu đốt, Liễu Khinh Yên mới ghé sát vào tai hắn, cười phóng đãng nói:
- Phò mã gia, khi nào thì ngài thành Tào Tháo thì khi đó tỷ tỷ sẽ khiến cho ngài thật sự mất hồn vía, cho ngài nếm thử chút tư vị nam nữ tiêu hồn trên thế gian này, khiến ngài biết thế nào là sống lên chết xuống, ha ha....
- Phù...
Vương Phác thở hổn hển, không dám giằng co với yêu nữ này nữa, vội nói sang chuyện khác:
- Dự tính… khi nào thì Lưu tặc đánh đến Bắc Kinh?
Liễu Khinh Yên quyến rũ nói:
- Theo các loại dấu hiệu mà phán đoán, Tổng binh Đại Đồng Khương Tương đã đầu hàng Lưu tặc, một khi mất đi lá chắn là Đại Đồng, theo tỷ tỷ đoán, chậm nhất là đầu tháng mười, sớm nhất là đầu tháng chín, Bắc lộ đại quân của Lý Tự Thành có thể giết đến thành Bắc Kinh, trung lộ của Lưu Tông Mẫn và nam lộ của Lý Quá cũng có thể vào trung tuần tháng chín đánh tới Bắc Kinh.
Sáng sớm hôm sau, Vương Phác mang theo Vệ Đội đi thẳng đến xưởng Công binh dưới chân núi Tử Kim.
Nửa năm trước, Vương Phác chỉnh hợp xưởng binh khí và cục Hỏa dược, cũng chính thức đổi tên là Xưởng Công binh.
Xưởng Công binh Tử Kim Sơn được xây dựng vào tháng tư, tuy quy mô không lớn nhưng địa vị lại không hề tầm thường, bởi vì nó là Xưởng công binh có năng lực gia công máy móc nhất của triều Đại Minh, nói là gia công máy móc thật ra cũng hơi quá, Xưởng công binh Tử Kim Sơn cũng chỉ có hai bệ máy khoan thủy lực mà thôi.
Hơn nữa độ cao của Tử Kim Sơn so với mặt biển không cao, lượng nước suối trong núi không đủ, hàng năm chỉ có từ tháng tư đến tháng sáu vào mùa nức mới có thể sử dụng hai đài máy khoan thủy lực này, cũng may đây chỉ là tính chất thí nghiệm, Vương Phác cũng không để ý nhiều, một khi thí nghiệm thành công sẽ tìm nơi có tài nguyên nước sung túc dựng lên Xưởng công binh to lớn cũng không muộn.
Trong phân xưởng máy khoán, trục của hai bệ máy khoan thủy lực được cố định cùng với mũi khoan trên trục chính dưới sự kéo hạ của bánh xoắn đang xoay tròn một cách nhanh chóng, bởi vì không có ổ trục, chỉ có thể để cho từng trục và nền cố định tiến hành hoạt động ma sát, phát ra âm thành vô cùng chói tai.
Trục chính và mũi khoan của máy khoan thủy lực là lắp từ dưới lên trên, gắn với bánh xoắn giấu ở dưới mặt đất cùng với dòng chảy nước, trên máy khoan còn dựng một cái giá tam giác, trên giá có trang bị đường ray truyền thẳng đứng, có thể hoạt động kéo trượt, nòng cần khoan đã được cố định tại chỗ trượt.
Hai thợ thủ công vai tròn eo thô giữ chặt hai bên tay của tòa trượt, dùng sức nặng toàn thân ấn xuống, mũi khoan phi tốc xoay tròn từng điểm xoáy tiến vào trong nòng súng tại chỗ trượt, mũi khoan cùng vách nòng súng ma sát với nhau tạo nên âm thanh chói tai, còn có mùi cháy sém gay mũi tràn ngập trong không khí.
Một người thợ thủ công đang không ngừng tưới nước vào mũi khoan và nòng súng, để tránh cho mũi khoan và nòng súng bị đốt trọi.
Hai bệ máy khoan thủy lực này là Tống Ứng Tinh dựa theo thiết kế của Vương Phác đã tự mình giám sát chế tạo, đến hiện tại đã được dùng thử hơn hai tháng, tốc độ gia công quả nhiên là nhanh hơn so với nhân công nhiều lần, nhân công khoan phải mất một tháng mới có thể khoan được một vào một nòng súng, tốc độ gia công đề cao gấp ba mươi lần!
Hơn nữa máy khoan thủy lực xuyên ra nòng súng rõ ràng ngang bằng so với nhân công khoan ra.
Tuy nhiên, lần này Vương Phác tới xưởng công binh Tử Kim sơn cũng không phải vì máy khoan thủy lực mà tới, mà là vì nghiên cứu phát triển thành công của Tống Ứng Tinh về nòng súng sau.
Cái gọi là nòng súng sau tức là đối ngược với nòng súng trước.
Hỏa dược và chì đạn của nòng súng trước được bắn ra từ lối vào nòng súng nhét vào nòng súng, lại dùng que cời áp đến phần đáy, đó là một kỹ thuật rất tốn thời gian, trước khi chưa phát minh đạn xác giấy, mỗi lão binh thuần thục nhất trong mỗi phút đồng hồ cũng chỉ có thể khai mở hai phát, sau khi phát minh ra đạn xác giấy, tốc độ mới được đề cao ở mức lớn nhất.
Đạn xác giấy của nòng súng sau đã không còn nhét vào từ nòng súng trước, mà là nhét vào từ nòng súng sau, điểm tốt là nhét vào nhanh hơn, hơn nữa cũng không cần dùng que cời ép đạn dược vào trong nòng súng, cứ như vậy, binh lính có thể quỳ rạp trên mặt đất lắp đạn, liên tục bắn, điều này đã đề cao năng lực sinh tồn của hỏa thương binh trong đối xạ súng kíp.
Đối lập với nòng súng sau, nòng súng trước có ưu thế áp đảo.
Công nguyên năm 1545, năm Gia Tĩnh thứ 17, quân Minh tại Thu Phục trong trận chiến Song Tự bị người Bồ Đào Nha xâm chiếm, bắt được một số người Nhật Bản giỏi chế tạo Hỏa thằng thương (Súng mồi lửa), do đám người Mã Hiến, Lý Hòe học tập phương pháp chế tạo súng kíp, cũng trên cơ sở này mà gia tăng nghiên cứu cải tiến, vào năm Gia Tĩnh thứ 37 đã tạo ra được Hỏa thằng thương so với Tây phiên còn ưu việt hơn, được xưng là Điểu chủy súng, tức là điểu thương hoặc điểu súng.
Nòng của điểu súng dùng thép tôi tạo ra, nặng chừng 12 cân, có đầu ruồi súng, có cửa nhắm, lắp đặt trên đế gỗ, đường kính của súng dài từ 9-13mm, chiều dài nòng súng dài từ 90-150cm, tầm bắn lớn nhất đạt trên 300m, tầm sát thương trên 100m, tầm sát thương này không phải là khoác lác, độc giả từng sử dụng hỏa súng dân gian (cũng là súng không có giảm thanh) thì sẽ biết.
Có độc giả rất không hiểu nhưng lại nói như rất hiểu, rằng tầm bắn của hỏa thằng thương chỉ 45m vân vân, trên thực tế công nghệ tạo súng của đời Minh là khá hoàn mỹ, Mãn Thanh sau đó còn xa mới bằng được. Sau khi Mãn Thanh nhập chủ Trung Nguyên, công nghệ tạo súng, đúc pháo, tạo thuyền của đời Minh đã hoàn toàn bị gián đoạn, khoa học kỹ thuật thụt lùi ước chừng ba trăm năm.
Về phần điểu súng, hỏa súng bắn tiếp cận được biên quân Đại Minh sử dụng uy lực nhỏ, dễ dàng bị nổ, trong thực chiến hoàn toàn không áp chế được cung tiễn của Kiến Nô, đó hoàn toàn là bởi vì quan trường hủ bại tạo thành, quan viên công bộ vì trung gian kiếm lợi nhuận riêng, đã làm hàng nhái, làm thành nòng điểu súng mỏng vô cùng, không thể bị nổ sòng sao được?
Nhưng điều này không liên quan gì đến công nghệ chế tạo súng của đời Minh.
Tống Ứng Tinh nghiên cứu phát triển nòng súng sau đường kính chỉ nhỏ 10mm, so với nòng súng trước mà hỏa thương đội sử dụng thì nhỏ hơn 2mm, chiều dài nòng súng vẫn dài 120cm, nhìn nó dài hơn và nhẹ hơn, trang bị nòng cốt chính là một bánh xoắn, khá giống với dạng súng săn thời hiện tại là có thể gập lại, lấy đạn xác giấy ra đặt vào nòng sau, sau đó hợp súng lại, cài vào, có thể bắn.
Nòng súng sau này đường kính mặc dù nhỏ, nhưng số lượng trang bị đạn xác giấy lại không hề giảm bớt, cho nên so với đạn xác giấy của nòng súng trước dài nhỏ hơn, đại cũng từ chì đạn hình tròn đổi thành đạn hình trụ nhọn ở đỉnh.
Vương Phác bảo Lã Lục thử bắn hơn mười súng, phát hiện tốc độ bắn của nòng súng sau quả nhiên là đề cao lên, gần như là gấp hai nòng súng trước. Tầm bắn và độ chính xác cũng đề cao hơn nòng súng trước, tầm bắn đạt đến 300m, với những lão binh giống như Lã Lục, có thể ngoài 200m bắn chính xác mục tiêu lớn nhỏ.
/468
|