Lần xuất kích thứ hai của Mông Cổ khoảng chừng bốn ngàn kỵ binh.
Không phải Đa Nhĩ Cổn không muốn phái nhiều kỵ binh Mông Cổ để tấn công hơn mà là một lần phái bốn ngàn kỵ binh là đã cực hạn rồi. Không phải do kỵ binh Mông Cổ quá ít, mà là mục tiêu công kích thật sự quá nhỏ.
Quân Minh triển khai trận hình hình vuông điển hình, chiều rộng đã được tính toán rất kỹ.
Ngoại trừ hậu trận, hai bên cánh trái, cánh phải và chính diện của quân Minh đều đặt một trường thương doanh. Trong mỗi Trường thương doanh đều có một ngàn quân lá chắn, mỗi lá chắn rộng một thước rưỡi. Vì vậy, độ rộng của phương trận chỉ khoảng 1500m.
Trận địa hình vuông của quân Minh chỉ rộng 1500m. Khoảng cách đó chỉ đủ cho khoảng một ngàn kỵ binh khởi xướng tấn công ngay chính diện. Cho dù kỵ binh Mông Cổ có xếp thành trận hình xung phong theo hình chữ "Nhân" để trực tiếp tiến công chính diện quân Minh thì tối đa cũng chỉ được hai ngàn kỵ binh.
Hơn nữa, kỵ binh Mông Cổ không giống với thiết kỵ Bát Kỳ. Kỵ binh Mông Cổ cần phải có không gian biến chuyển rộng lớn, cho nên không thể tấn công chính diện và từ hai phía.
Khả năng bắn cung của kỵ binh Mông Cổ cũng không giống Kiến Nô. Kỵ binh ở phía trước sẽ cản trở rất nhiều kỵ binh ở phía sau, cho nên tối đa cũng chỉ có thể xếp thành hai hàng để tấn công, phái càng nhiều thì kỵ binh hàng phía sau cũng chỉ có thể hít bụi, không thể tạo ra hiệu quả sát thương gì với quân Minh, mà chỉ làm tiêu hao thể lực chiến mã.
Bởi vậy, mỗi lần cử bốn ngàn kỵ binh Mông Cổ tiến hành công kích đã là cực hạn, trừ khi Đa Nhĩ Cổn biến toàn bộ kỵ binh Mông Cổ thành bộ binh sử dụng cung tiễn, để cho họ xuống ngựa tấn công, như vậy thì dù phái mười vạn kỵ binh Mông Cổ xuất trận cũng được. Nhưng kỵ binh Mông Cổ mà xuống ngựa thì còn lại kỵ binh Mông Cổ nữa sao?
Hơn nữa, kỵ binh Mông Cổ cũng không phải là Bát Kỳ Quân Hán, càng không phải là hàng quân Tiền Minh. Đa Nhĩ Cổn phải vô cùng thận trọng trong việc sử dụng kỵ binh Mông Cổ, nếu vì chiến thuật không thích đáng khiến cho kỵ binh Mông Cổ bị tổn thất nghiêm trọng, thảo nguyên Mông Cổ lớn như vậy, còn có trên trăm vạn dân du mục Mông Cổ rất có thể sẽ trong một đêm phản bội Kiến Nô.
Nếu như vậy, ngày tận thế của Kiến Nô đã đến.
Trong tiếng vó ngựa đinh tai nhức óc, bốn ngàn kỵ binh Mông Cổ lao về phía trước nhanh như chớp. Những mục dân Mông Cổ ngẩng đầu, phát ra tiếng kêu gào, chiến bào Mông Cổ phần phật trong gió như những cơn sóng lớn màu đất nâu, nghiền ép hướng về phía trận địa quân Minh…
Những đôi mắt đỏ như máu không hề biết sợ hãi của những người dân du mục Mông Cổ trừng to, cánh đồng lạnh giá dưới chân kỵ binh Mông Cổ như thủy tiều rút lui, càng ngày càng gần quân Minh.
400m!
300m!
200m!
- Nổ súng!
“Rầm rầm rầm!”
Trong trận hình quân Minh vang lên một tiếng hét lớn nghe như tiếng sấm, 1500 hỏa thương thủ đã sớm chuẩn bị sẵn sàng để đón quân địch lập tức bóp cò. Cùng với ánh sáng phát ra, trong từng hàng họng súng đen ngòm đồng loạt phun ra từng đợt ánh sáng màu đỏ chói mắt, ngay lập tức vang lên tiếng súng đinh tai nhức óc.
- A a…
A a…
- Ông trời ơi, ta không muốn chết…
Trong trận kỵ binh Mông Cổ thoáng chốc người ngã ngựa đổ, cùng theo đó là những tiếng gào thét, tiếng mắng chửi tức giận, tiếng oán trách. Hai trăm kỵ binh ở phía trước đều ngã lộn xuống đất, hàng kỵ binh phía sau không kịp đề phòng, còn chưa kịp làm động tác để tránh ngựa thì gót sắt của chúng đã hung hăng mà giẫm lên thân thể của bạn mình.
“ Đoàng đoàng đoàng…”
Một loạt tiếng súng nữa lại vang lên, từng hàng kỵ binh Mông Cổ ngã xuống. Bốn ngàn kỵ binh tấn công này không khác gì hai ngàn kỵ binh trước. Lực tấn công tuy đã tăng nhiều, nhưng hỏa lực của Hỏa Thương Doanh quân Minh cũng dày đặc hơn. Kỵ binh Mông Cổ vất vả vượt qua hành trình 200m chết chóc, cũng chỉ còn hơn 800 kỵ ít ỏi.
Giống vậy, hơn 800 tàn kỵ này bị ép bất đắc dĩ cũng không tạo cho quân Minh bao nhiêu sát thương.
Khi hơn 800 tàn kỵ này theo hai cánh trái phải của trận hình quân Minh vòng một vòng tròn rồi quay trở về đại trận Kiến Nô, thân hình to lớn của Đa Nhĩ Cổn đang khẽ run lên, đó là kết quả của sự giận dữ cùng với áp lực cùng cực.
Đa Nhĩ Cổn gần như đã bị lửa giận đốt cháy, trước sau đã điều động sáu ngàn kỵ binh Mông Cổ tấn công, cuối cùng chỉ có gần chín trăm kỵ binh sống sót trở về, không ngờ lại hoàn toàn thất bại như thế. Từ khi nào thì dã chiến của quân Minh đã trở nên lợi hại như vậy? Kỵ binh Mông Cổ sắc bén không ngờ lại phải đầu rơi máu chảy trước đám Nam Minh mọi rợ này?
Hán gian Phạm Văn Trình đã nhìn ra được vấn đề, tiến lên khuyên nhủ:
- Chủ tử, cứ tấn công như vậy không được đâu.
Đa Nhĩ Cổn hít một hơi thật sâu, gắng sức bình ổn lửa giận ở trong lòng.
Phạm Văn Trình nói tiếp:
- Tầm bắn của hỏa thương quân Minh rõ ràng là xa hơn so với tầm bắn cung tên của kỵ binh Mông Cổ, hơn nữa uy lực cũng lớn hơn. Ngoài ra, trước trận quân Minh còn có lá chắn vững chắc. Bởi vậy, cung tên của kỵ binh Mông Cổ khó mà tạo thành uy hiếp với quân Minh, càng điều càng nhiều kỵ binh Mông Cổ lên thì cũng chỉ là đi chịu chết mà thôi.
Đa Nhĩ Cổn nghiêm nghị nói:
- Vậy theo ngươi nên làm gì bây giờ?
Phạm Văn Trình nói:
- Quân Minh không có kỵ binh, khuyết thiếu lực lượng đột kích chiến trường, hay là quân ta cũng phái quân cầm lá chắn tạo thành lá chắn, bảo vệ các cung thủ tiến vào tầm bắn. Sau đó lợi dụng cung tên để đối phó với quân Minh ở phía sau lá chắn. Lá chắn của quân Minh chỉ có thể bảo vệ ở phía trước chứ không thể che được ở trên đầu.
- Được.
Đa Nhĩ Cổn hung dữ nói:
- Cứ làm như vậy đi, Bác Nhạc!
Bác Nhạc lập tức tiến lên, đáp:
- Có nô tài!
Đa Nhĩ Cổn nói:
- Cho một vạn thủ hạ hàng quân Tiền Minh của ngươi tiến lên phía trước làm lá chắn, lại điều một vạn cung thủ của Chính Lam Kỳ, Tương Hồng Kỳ lên, sau đó điều hai vạn kỵ binh Mông Cổ, cho bọn họ xuống ngựa làm cung thủ bộ binh, ba vạn cung thủ chia thành ba cánh, tấn công theo ba phía trực diện và hai cánh, bắn chết đám Nam Minh mọi rợ đó!
- Vâng!
Bác Nhạc vang dội đáp lời, lĩnh mệnh mà đi.
Không đến thời gian uống một chén trà, một vạn cung thủ Kiến Nô và hai vạn kỵ binh Mông Cổ xuống ngựa đã tập kết xong. Đồng thời, thủ hạ của Bác Nhạc chính là một vạn hàng quân Tiền Minh cũng đã tạo thành trận hình lá chán vững chắc bảo vệ ở phía trước. Bốn vạn quân chia thành ba hình trận, cùng tấn công trực diện, hai cánh của quân Minh.
Đại doanh Trung Ương quân ở trên đài cao, Vương Phác thuận tay cầm ống nhòm theo dõi chiến trường, nhìn thấy hành động của Kiến Nô, khóe miệng Vương Phác không khỏi hiện lên một tia cười dữ tợn. Nếu Đa Nhĩ Cổn và Phạm Văn Trình có thể nhìn thấy khóe miệng và nụ cười độc ác của Vương Phác thì nhất định họ sẽ hối hận với quyết định vừa rồi!
Vương Phác ra lệnh một tiếng, Lã Lục ở phía sau lặng lẽ ra khởi động cờ hiệu.
Mấy trăm chiếc xe quân nhu ở phía sau phương trận của quân Minh lập tức phân ra bốn mươi chiếc xe ngựa được trùm bằng vải dầu, các tướng sĩ Truy trọng doanh lặng lẽ kéo đẩy tới tuyến ngoài cùng trận hình, sau khi kéo vải dầu trùm ở đầu xe ra, hiện lên rõ ràng, là hình dáng dữ tợn của bốn khẩu Phật lang cơ pháo!
Lá chắn cao ngất biến thành bức tường cản trở tầm mắt của Kiến Nô. Các cung thủ Kiến Nô ở phía sau tấm lá chắn không hề biết rằng tử thần đang vẫy tay chào họ ở phía trước.
Không phải Đa Nhĩ Cổn không muốn phái nhiều kỵ binh Mông Cổ để tấn công hơn mà là một lần phái bốn ngàn kỵ binh là đã cực hạn rồi. Không phải do kỵ binh Mông Cổ quá ít, mà là mục tiêu công kích thật sự quá nhỏ.
Quân Minh triển khai trận hình hình vuông điển hình, chiều rộng đã được tính toán rất kỹ.
Ngoại trừ hậu trận, hai bên cánh trái, cánh phải và chính diện của quân Minh đều đặt một trường thương doanh. Trong mỗi Trường thương doanh đều có một ngàn quân lá chắn, mỗi lá chắn rộng một thước rưỡi. Vì vậy, độ rộng của phương trận chỉ khoảng 1500m.
Trận địa hình vuông của quân Minh chỉ rộng 1500m. Khoảng cách đó chỉ đủ cho khoảng một ngàn kỵ binh khởi xướng tấn công ngay chính diện. Cho dù kỵ binh Mông Cổ có xếp thành trận hình xung phong theo hình chữ "Nhân" để trực tiếp tiến công chính diện quân Minh thì tối đa cũng chỉ được hai ngàn kỵ binh.
Hơn nữa, kỵ binh Mông Cổ không giống với thiết kỵ Bát Kỳ. Kỵ binh Mông Cổ cần phải có không gian biến chuyển rộng lớn, cho nên không thể tấn công chính diện và từ hai phía.
Khả năng bắn cung của kỵ binh Mông Cổ cũng không giống Kiến Nô. Kỵ binh ở phía trước sẽ cản trở rất nhiều kỵ binh ở phía sau, cho nên tối đa cũng chỉ có thể xếp thành hai hàng để tấn công, phái càng nhiều thì kỵ binh hàng phía sau cũng chỉ có thể hít bụi, không thể tạo ra hiệu quả sát thương gì với quân Minh, mà chỉ làm tiêu hao thể lực chiến mã.
Bởi vậy, mỗi lần cử bốn ngàn kỵ binh Mông Cổ tiến hành công kích đã là cực hạn, trừ khi Đa Nhĩ Cổn biến toàn bộ kỵ binh Mông Cổ thành bộ binh sử dụng cung tiễn, để cho họ xuống ngựa tấn công, như vậy thì dù phái mười vạn kỵ binh Mông Cổ xuất trận cũng được. Nhưng kỵ binh Mông Cổ mà xuống ngựa thì còn lại kỵ binh Mông Cổ nữa sao?
Hơn nữa, kỵ binh Mông Cổ cũng không phải là Bát Kỳ Quân Hán, càng không phải là hàng quân Tiền Minh. Đa Nhĩ Cổn phải vô cùng thận trọng trong việc sử dụng kỵ binh Mông Cổ, nếu vì chiến thuật không thích đáng khiến cho kỵ binh Mông Cổ bị tổn thất nghiêm trọng, thảo nguyên Mông Cổ lớn như vậy, còn có trên trăm vạn dân du mục Mông Cổ rất có thể sẽ trong một đêm phản bội Kiến Nô.
Nếu như vậy, ngày tận thế của Kiến Nô đã đến.
Trong tiếng vó ngựa đinh tai nhức óc, bốn ngàn kỵ binh Mông Cổ lao về phía trước nhanh như chớp. Những mục dân Mông Cổ ngẩng đầu, phát ra tiếng kêu gào, chiến bào Mông Cổ phần phật trong gió như những cơn sóng lớn màu đất nâu, nghiền ép hướng về phía trận địa quân Minh…
Những đôi mắt đỏ như máu không hề biết sợ hãi của những người dân du mục Mông Cổ trừng to, cánh đồng lạnh giá dưới chân kỵ binh Mông Cổ như thủy tiều rút lui, càng ngày càng gần quân Minh.
400m!
300m!
200m!
- Nổ súng!
“Rầm rầm rầm!”
Trong trận hình quân Minh vang lên một tiếng hét lớn nghe như tiếng sấm, 1500 hỏa thương thủ đã sớm chuẩn bị sẵn sàng để đón quân địch lập tức bóp cò. Cùng với ánh sáng phát ra, trong từng hàng họng súng đen ngòm đồng loạt phun ra từng đợt ánh sáng màu đỏ chói mắt, ngay lập tức vang lên tiếng súng đinh tai nhức óc.
- A a…
A a…
- Ông trời ơi, ta không muốn chết…
Trong trận kỵ binh Mông Cổ thoáng chốc người ngã ngựa đổ, cùng theo đó là những tiếng gào thét, tiếng mắng chửi tức giận, tiếng oán trách. Hai trăm kỵ binh ở phía trước đều ngã lộn xuống đất, hàng kỵ binh phía sau không kịp đề phòng, còn chưa kịp làm động tác để tránh ngựa thì gót sắt của chúng đã hung hăng mà giẫm lên thân thể của bạn mình.
“ Đoàng đoàng đoàng…”
Một loạt tiếng súng nữa lại vang lên, từng hàng kỵ binh Mông Cổ ngã xuống. Bốn ngàn kỵ binh tấn công này không khác gì hai ngàn kỵ binh trước. Lực tấn công tuy đã tăng nhiều, nhưng hỏa lực của Hỏa Thương Doanh quân Minh cũng dày đặc hơn. Kỵ binh Mông Cổ vất vả vượt qua hành trình 200m chết chóc, cũng chỉ còn hơn 800 kỵ ít ỏi.
Giống vậy, hơn 800 tàn kỵ này bị ép bất đắc dĩ cũng không tạo cho quân Minh bao nhiêu sát thương.
Khi hơn 800 tàn kỵ này theo hai cánh trái phải của trận hình quân Minh vòng một vòng tròn rồi quay trở về đại trận Kiến Nô, thân hình to lớn của Đa Nhĩ Cổn đang khẽ run lên, đó là kết quả của sự giận dữ cùng với áp lực cùng cực.
Đa Nhĩ Cổn gần như đã bị lửa giận đốt cháy, trước sau đã điều động sáu ngàn kỵ binh Mông Cổ tấn công, cuối cùng chỉ có gần chín trăm kỵ binh sống sót trở về, không ngờ lại hoàn toàn thất bại như thế. Từ khi nào thì dã chiến của quân Minh đã trở nên lợi hại như vậy? Kỵ binh Mông Cổ sắc bén không ngờ lại phải đầu rơi máu chảy trước đám Nam Minh mọi rợ này?
Hán gian Phạm Văn Trình đã nhìn ra được vấn đề, tiến lên khuyên nhủ:
- Chủ tử, cứ tấn công như vậy không được đâu.
Đa Nhĩ Cổn hít một hơi thật sâu, gắng sức bình ổn lửa giận ở trong lòng.
Phạm Văn Trình nói tiếp:
- Tầm bắn của hỏa thương quân Minh rõ ràng là xa hơn so với tầm bắn cung tên của kỵ binh Mông Cổ, hơn nữa uy lực cũng lớn hơn. Ngoài ra, trước trận quân Minh còn có lá chắn vững chắc. Bởi vậy, cung tên của kỵ binh Mông Cổ khó mà tạo thành uy hiếp với quân Minh, càng điều càng nhiều kỵ binh Mông Cổ lên thì cũng chỉ là đi chịu chết mà thôi.
Đa Nhĩ Cổn nghiêm nghị nói:
- Vậy theo ngươi nên làm gì bây giờ?
Phạm Văn Trình nói:
- Quân Minh không có kỵ binh, khuyết thiếu lực lượng đột kích chiến trường, hay là quân ta cũng phái quân cầm lá chắn tạo thành lá chắn, bảo vệ các cung thủ tiến vào tầm bắn. Sau đó lợi dụng cung tên để đối phó với quân Minh ở phía sau lá chắn. Lá chắn của quân Minh chỉ có thể bảo vệ ở phía trước chứ không thể che được ở trên đầu.
- Được.
Đa Nhĩ Cổn hung dữ nói:
- Cứ làm như vậy đi, Bác Nhạc!
Bác Nhạc lập tức tiến lên, đáp:
- Có nô tài!
Đa Nhĩ Cổn nói:
- Cho một vạn thủ hạ hàng quân Tiền Minh của ngươi tiến lên phía trước làm lá chắn, lại điều một vạn cung thủ của Chính Lam Kỳ, Tương Hồng Kỳ lên, sau đó điều hai vạn kỵ binh Mông Cổ, cho bọn họ xuống ngựa làm cung thủ bộ binh, ba vạn cung thủ chia thành ba cánh, tấn công theo ba phía trực diện và hai cánh, bắn chết đám Nam Minh mọi rợ đó!
- Vâng!
Bác Nhạc vang dội đáp lời, lĩnh mệnh mà đi.
Không đến thời gian uống một chén trà, một vạn cung thủ Kiến Nô và hai vạn kỵ binh Mông Cổ xuống ngựa đã tập kết xong. Đồng thời, thủ hạ của Bác Nhạc chính là một vạn hàng quân Tiền Minh cũng đã tạo thành trận hình lá chán vững chắc bảo vệ ở phía trước. Bốn vạn quân chia thành ba hình trận, cùng tấn công trực diện, hai cánh của quân Minh.
Đại doanh Trung Ương quân ở trên đài cao, Vương Phác thuận tay cầm ống nhòm theo dõi chiến trường, nhìn thấy hành động của Kiến Nô, khóe miệng Vương Phác không khỏi hiện lên một tia cười dữ tợn. Nếu Đa Nhĩ Cổn và Phạm Văn Trình có thể nhìn thấy khóe miệng và nụ cười độc ác của Vương Phác thì nhất định họ sẽ hối hận với quyết định vừa rồi!
Vương Phác ra lệnh một tiếng, Lã Lục ở phía sau lặng lẽ ra khởi động cờ hiệu.
Mấy trăm chiếc xe quân nhu ở phía sau phương trận của quân Minh lập tức phân ra bốn mươi chiếc xe ngựa được trùm bằng vải dầu, các tướng sĩ Truy trọng doanh lặng lẽ kéo đẩy tới tuyến ngoài cùng trận hình, sau khi kéo vải dầu trùm ở đầu xe ra, hiện lên rõ ràng, là hình dáng dữ tợn của bốn khẩu Phật lang cơ pháo!
Lá chắn cao ngất biến thành bức tường cản trở tầm mắt của Kiến Nô. Các cung thủ Kiến Nô ở phía sau tấm lá chắn không hề biết rằng tử thần đang vẫy tay chào họ ở phía trước.
/468
|