MÙA ĐÔNG ĐANG ĐẾN, nó đến bằng những buổi sáng mờ mịt sương khói và hơi ẩm giá lạnh. Các cơn gió lạnh hung tàn của phía Bắc nổi lên. Ner Rill nước chảy lặng như một dòng suối, in xuống đó hình phản chiếu những áng mâu trời bạc nhẹ như lụa, những bụi bờ khô khốc lá và các đàn chim di cư. Thường thì, trong suốt mùa khô và đầu đông, Angeline phải đi kiếm củi để đốt trong mùa đông. Nhưng bây giờ thì không cần thiết nữa.
Cô đã không ra tưới nước cho cây táo nhiều ngày nay. Nó bạc màu đi, thẫn thờ và buồn chán. Cả cô và Howl đều chẳng tìm ra điều gì đáng chú ý cả. Cậu ta vẫn đi mất hút, có khi đến vài ngày. Dưới thành cửa sổ hình vòm của thưa viện, Angeline ôm một cuốn sách trong lòng mình và chăm chú đọc. Cách duy nhất để có cảm giác rằng mình không ở đây, cô đưa tâm trí mình vào những dòng chữ. Chúng cuốn cô đi thật xa, xa khỏi lâu đài Quỷ, xa khỏi nỗi sợ hãi khi nhận ra rốt cuộc mùa đông sắp đến.
Angeline hay ngủ gật ở thư viện. Có thể cô chẳng ngủ nổi một khi đã nằm lên giường, trằn trọc suốt đêm, nhưng giữa sự im lặng vắng vẻ và mùi sách giấy cũ phảng phất, cơn buồn ngủ đến với cô dễ dàng. Cô tựa đầu mình vào cửa sổ, cảm thấy một chỗ dựa vững chãi và an toàn bên vai.
Nhưng cô chẳng thể ngủ dễ dàng đến thế.
Một chiếc ly sứ trên bàn rơi xuống và vỡ toang. Angeline sực tỉnh, giật bắn mình. Âm thanh đó đánh thức cô bằng một cái đập đau điếng. Ban đầu cô nghĩ mình nghe nhầm, khi nửa tỉnh nửa mơ người ta thường tưởng tượng ra những âm thanh, hình ảnh không có thật. Cô cũng ngỡ là thế, cho đến khi tiếng động thứ hai vang lên.
“Angie...”
Tiếng thì thào vọng lại trong không trung. Angeline gấp lại cuốn sách, trái tim cô bị bóp thắt vì hồi hộp. Cô nhìn quanh những giá sách nhưng chẳng nhìn thấy gì cả.
Tiếng cười của trẻ con vang lên mơ hồ tựa như sương. Cô không thể xác định được hướng nó phát ra, như thể làn sương ấy bao trùm khắp bốn phía không gian. Thứ giọng tai quái ấy.
Cô rảo bước quanh những giá sách, rồi sau đó đi đến đoạn hành lang giữa thư viện. Một chiếc cốc màu đỏ vỡ tan tành từng mảnh trên sàn nhà, ở chiếc bàn gần lối ra vào nhất. Angeline không còn lạ lẫm gì với những trò đùa như thế này. Vào những ngày tháng đầu tiên cô ở lâu đài Quỷ khi còn là đứa trẻ, cô đã tái mét và sợ run khi gặp những tình huống như thế lúc ở một mình.
Đặc biệt, vào những đêm mưa, chúng xuất hiện nhiều hơn, lang thang khắp nơi để hù dọa.
Vì một lý do nào đấy, lâu đài Quỷ không cho phép nhiều người rời đi – cả người sống và người chết. Những âm thanh, những cái bóng, giọng cười – màn hù dọa kinh điển. Chúng hiếm khi vì một lý do cụ thể nào đó, chúng chỉ rảnh rỗi và buồn chán, và có khiếu đùa cợt.
Cô định quay lại đọc sách tiếp, thì nghe thấy tiếng bước chân chạy qua hành lang ngoài thư viện. Một tiếng nài xin não nùng vang lên gọi tên cô, không thể nói là không khiến Angeline có chút sợ hãi lúc này. Khó mà đuổi những hồn ma đi được.
“Ngươi muốn gì?” Angeline hỏi thật lớn, cô đi gần đến cửa ra vào.
Một quãng im lặng ngắn ngủi, và âm thanh méo mó dị thường như vang lên từ chốn không thuộc về thực tại làm sống lưng cô lạnh toát:
“Đến đây...”
Angeline ép mình phải lờ nó đi, phải mặc kệ nó, đừng làm theo lời nó nói. Nhưng chân cô vẫn bước tiếp. Giờ cô đang đứng trước cánh cửa lạnh ngắt, do dự trước khi mở nó ra.
Tiếng gõ cửa ầm ầm làm Angeline giật nảy mình, loạng choạng lùi lại. Nhưng rồi cô trở nên khó chịu. Có thể sau cánh cửa này sẽ là một cảnh tượng chẳng mấy mãn nhãn. Có thể là một cái đầu xấu xí với mái tóc bê bết tro và bùn đất, hai hốc mắt sâu hoắm như miệng vực, một cái miệng đang rỉ máu, hay làn da tái nhợt và nứt nẻ của xác chết.
Cô giật mạnh cánh cửa. Angeline không cho phép mình dễ dàng sợ hãi như thế, đặc biệt với những hồn ma phiền phức ấy.
Chẳng có gì cả.
Hành lang bên ngoài lạnh, trống không, và tối.
Cô bước hẳn ra ngoài, chuẩn bị cho một cú hù dọa đáng sợ. Có lẽ là một cái đầu máu me, một gương mặt dị dạng méo mó và chỉ có nửa thân trên, hay một mái tóc dài xổ ra từ bóng tối, sẵn sàng bóp cổ và lôi cô đập mình xuống sàn nhà.
Nhưng, chẳng có gì cả.
Chẳng có gì, ngoài một hành lang tối thui và lạnh. Ánh sáng hắt thành những khối vuông trên sàn nhà qua các ô cửa sổ, tạo ra những đường ranh giới rõ rệt giữa sáng và tối.
Nhưng đột ngột, ở cuối hành lang thình lình hiện ra một cái bóng.
Một cái bóng đen thui, giống như được sơn đen, cô có thể thấy cái bóng vì luồng sáng nhẹ từ cửa sổ chiếu đằng sau nó. Angeline cắn nhẹ vào môi. Cái bóng đứng yên như thể nó đã ở đó từ lâu lắm rồi, gương mặt nó ẩn trong bóng tối, nó đứng đó như một pho tượng.
Trong khoảnh tối bao trùm quanh cái bóng, Angeline thấy hai tia sáng vàng khè ở gương mặt như thể đấy là mắt nó. Nỗi sợ thôi thúc và đập vào lồng ngực cô những nhịp dồn dã, như cào cấu và thì thầm rằng: chạy, chạy đi, tránh xa khỏi cái thứ này.
Nhưng cô đã làm điều ngược lại.
Điều mà cô đã tự dạy mình và ép mình làm theo trong suốt những năm sống ở vùng Bóng tối.
Nếu thấy sợ hãi,
hãy mở to mắt,
và đừng bỏ chạy,
điều tệ hại nhất có thể xảy ra chỉ là cái chết mà thôi.
Vậy nên, có vẻ thật ngu ngốc khi cô quyết định lại gần cái bóng, nhưng Angeline biết nó không ở đó chỉ cho vui. Hẳn phải có lý do gì đó nó mới xuất hiện.
Angeline lần bước vào trong bóng tối. Càng lúc, cô càng đến gần hơn với cái bóng. Nó vẫn bất động. Và khi mắt cô đã quen với bóng tối, Angeline nhận ra một khuôn mặt. Đó là Abigail, với những tia sáng vàng phản chiếu trong mắt nó.
Nhưng đó không thể là Abigail được. Không thể.
Gương mặt đó là của một kẻ đã chết, nhợt nhạt màu xám xanh, tái tím đi. Abigail thường hay buộc tóc mình thành bím, nhưng cái thứ này thì không, tóc nó xõa ra khắp vai và cổ, trông như một mớ râu ngô bị nhúng xuống bùn ướt. Máu chảy ra từ hai hốc mắt sâu hoắm như đáy vực, và trên làn da là những đường nứt như sứ vỡ.
Nhưng bộ dạng ấy không dọa được Angeline. Cô đã từng nhìn thấy nhiều con ma đáng sợ hơn thế. Lúc này, máu chảy xuống từ mắt con bé nhỏ giọt trên sàn nhà. Điều duy nhất đáng sợ ở đây là việc nó giống Abigail như đúc. Một bản sao hoàn hảo.Cứ như thể cô đang nhìn thấy Abigail – một Abigail đã chết.
Và điều đó thật chẳng dễ chịu.
Angeline ngạc nhiên vì sự bình tĩnh của mình. Cô đưa một tay lên, định chạm vào cái bóng thì nó giật lùi lại và chạy vụt đi. Cô biết nó muốn mình chạy theo, giống như lần trước, vậy nên cô đuổi theo cái bóng. Nó chạy rất nhanh, thoắt ẩn thoắt hiện, hầu như không thể thấy rõ được. Nhưng Angeline biết mình phải chạy theo hướng nào, bởi vì có bước chân của nó đã dẫn đường. Khắp lâu đài yên tĩnh như thế, bỗng vang lên tiếng bước chân chạy, khó mà lờ đi được. Với sự im lặng này, thì dù là một giọt nước nhỏ xuống sàn người ta cũng nghe thấy.
Cô không rõ mình đang chạy đi đâu, ban đầu thì thế, nhưng Angeline có nhận ra càng lúc mình càng chạy lên cao. Những đoạn hành lang tối và các dãy cầu thang cứ nối tiếp bước chân cô. Ánh sáng màu vàng ố hắt vào từ các ô cửa sổ, nghiêng nghiêng từng ô vuông xuống sàn nhà. Angeline chạy theo các ô vuông đó. Các bức tượng và tranh trở nên rõ nét hơn khi có ánh sáng hắt vào, chúng nhăn nhó bởi những phần tối nơi ánh sáng không hắt đến được. Cô lại chạy. Qua hành lang. Qua các cánh cửa. Qua cầu thang.
Đột nhiên, khi lên đến cầu thang tầng sáu, Angeline đâm sầm vào James. Ông ta xuất hiện thình lình như một bóng ma, thậm chí còn hơn thế. Trán Angeline đau ê ẩm và cô lùi lại. Khi nhìn quanh cô thấy cái bóng đã biến mất. Bấy giờ cô đang đứng ngơ ngác giữa một ngã tư với ba lối rẽ hành lang và một dãy cầu thang lượn xuống dưới, với James.
“Cô đang tìm ai à?” Ông ta hỏi từ tốn và bình thản.
“Không, không...” Angeline vẫn đảo mắt xung quanh, ngược lại hoàn toàn so với lời nói của mình. “Không có gì cả.”
Sau gáy James, tại đoạn hành lang bên trái, Angeline thấy một cái đầu nhỏ thó ló ra. Nó nhìn cô một lúc rồi lại chạy biến.
“Xin lỗi.” Angeline nói, bỏ lại James phía sau và chạy tiếp. Cô thở hổn hển không ra hơi, hai bắp chân nóng cháy lên và cơ căng ra. Nhưng nó càng nhức và nóng, Angeline càng chạy nhanh hơn. Mồ hôi túa mạnh trên trán cô.
Rốt cuộc, cái bóng dẫn cô đến tháp Nam.
Nhẽ ra cánh cửa vào tháp phải đóng, nhưng cô thấy nó đang mở hé như một lời chào: Vào đây đi, vào đây đi, có những bí mật đáng tò mò trong này. Angeline đứng chần chừ trước cái tháp, rõ ràng đây là nơi cái bóng muốn cô đến. Rồi trong đầu cô chợt lóe lên một ý nghĩ, sáng chói như tia lửa của que diêm trong căn hầm tối. Đây, là nơi mà mẹ Howl đã chết.
Đây, là nơi đã cháy rụi hoàn toàn nhiều năm về trước.
Là nơi mà dường như không ai muốn nhắc đến nữa.
Cô lập tức chạy vào trong. Rồi sau đó cô nhận ra sai lầm của mình khi không mang theo một cây đuốc hay nến, vì trong tháp tối om và cô phải men theo các bậc cầu thang đá rất cao. Những đường lượn xoắn ốc uyển chuyển đưa dãy cầu thang lên trên cao. May mắn, có một vài ô cửa mà có lẽ quá nhỏ để gọi là cửa sổ, cho phép ánh sáng ngoài trời in vào trong. Angeline có thể thấy được cấc bậc thang khi mắt đã quen với bóng tối. Ở chỗ có ánh sáng, cô thấy có cả bụi. Nó bẩn thỉu hơn tháp Tây gấp nhiều lần.
Phía Nam lâu đài Quỷ là một khoảng rừng thưa, mỏng, xen lẫn đầm lầy. Angeline không bao giờ đi xuống tận đó. Một phần là vì nó quá xa, phần khác là vì những cái đầm lầy. Có cái sâu đến cổ người, ngập ngụa bùn và những loài thực vật nước. Và ai mà biết được có cái gì ở bên dưới mặt nước đặc quánh, xanh lè ấy.
Vậy nên, chẳng có gì để mà ngắm nghía ở tháp Nam cả.
Chân tay cô rã ra khi cô cuối cùng cũng lên đỉnh tháp Nam. Ở đây, cầu thang dẫn thẳng vào một cánh cửa gỗ, mà chẳng hiểu vì lý do gì khóa đã mở. Nhưng Angeline không thấy chìa khóa đâu cả.
Cô bước đến gần cánh cửa, gỡ ổ khóa ra khỏi dây xích và để xuống sàn nhà, rồi kéo mạnh cánh cửa. Điểm khác nhau giữa một cánh cửa gỗ và một cánh cửa sắt đó là cô vẫn có thể kéo cửa gỗ ra mà không cần đến cái xà beng chết tiệt nào. Dù bản lề của nó đã gỉ sét, tạo ra những âm thanh kêu rít chói tai, cô vẫn có thể mở nó ra được.
Cửa nặng nề mở ra. Và Angeline bước vào phòng.
Ban đầu cô thoáng giật mình. Những tấm vải trắng trải kín phòng mà lúc sau cô mới nhận ra chúng để che phủ đồ đạc khỏi bụi. Khác với phòng ở tháp Tây, phòng này chi có hai ô cửa sổ đối diện nhau, phủ rèm tím. Cô chần chừ một lát trước khi đi vào trong, cảm thấy sau gáy ngứa ngáy và lạnh toát.
Angeline đi đến bên hai cánh cửa sổ trước để kéo rèm ra. Ánh sáng nhuộm căn phòng màu vàng ố. Đi đến đâu cũng thấy bụi và mạng nhện, vón lại với nhau và dày từng lớp. Cô không còn thấy cái bóng ở đâu nữa, nên đoán rằng đây chính là nơi mình cần đến. Angeline bèn kéo hết những tấm vải trắng xuống, lục tung đồ đạc bên dưới chúng nhưng bằng một cách cẩn thận.
Có một tủ quần áo gỗ đầy trang phục nữ: các bộ váy, khăn choàng, giày, găng tay, mũ... Bên cạnh còn có một bàn trang điểm bẵng gỗ, bụi dày đến mức Angeline không muốn đụng vào. Nhưng cô phải tìm, cô phải tìm cho ra thứ cần tìm, dù cô vẫn chưa biết đó là gì. Có lẽ là một lá thư, một mẩu giấy, một đồ vật, hay bất cứ cái gì. Trong những ngăn kéo bàn trang điểm, cô chỉ tìm thấy những xấp giấy - những bản nhạc soạn tay. Angeline ngẩn người.
Đây hẳn là đồ đạc của Myris để lại. Và đây là những bản nhạc bà đã soạn. Chúng không dài, thường chỉ có một đoạn ngắn, đôi chỗ trong tờ giấy bị gạch chồng chéo lên nhau. Nét chữ của bà y hệt với trong cuốn sách Bóng tối, nên cô không còn nghi ngờ gì nữa.
Khi những ngón tay của Angeline lần trên các trang giấy mà viền đã tơi tả, cô cảm thấy hơi thở của một cuộc đời khác phả đến. Ngắn ngủi, tội lỗi, đáng thương, những thứ cũng gần gũi với cô. Myris đã từng sống ở đây. Và lòng dạ cô bồn chồn lẫn lo sợ khi nhớ đến việc bà cũng đã chết ở đây.
Chính xác, là chỗ nào của căn phòng nhỉ?
Cô cố né tránh các câu hỏi của chính mình, vì nó chỉ làm cô thêm sợ hãi. Angeline đặt lại các bản nhạc soạn tay vào ngăn kéo. Trong phòng có rất nhiều đồ đạc, nhưng cô cảm thấy đó là hơi ít so với một người từng là vợ của Moldark, Quỷ Vương. Hoặc người ta đã mang vứt hết đi rồi.
Trong góc phòng, Angeline tìm thấy một chiếc nôi cũ bằng gỗ đỏ. Những chấn song giăng mắc mạng nhện nhưng nước sơn vẫn còn nguyên. Cô chạm vào thành nôi, dường như kích cỡ của nó hơi lớn cho một đứa trẻ sơ sinh. Bên trong nôi vẫn còn để nguyên một tấm đệm trắng không có ga, và hai cái gối xếp cạnh nhau. Bụi phủ kín nguyên lớp vải và nhuộm màu trắng thành màu nâu ngà bẩn thỉu. Cô tự hỏi liệu đây có phải là cái nôi của Abigail.
Sự xuất hiện của chiếc nôi cũ gợi lên điều gì đó trong Angeline. Lòng cô dịu xuống như thể trước đó trong cô chỉ có những cơn sóng dữ dội, bây giờ lại là mặt hồ yên ả. Angeline băn khoăn không biết cô có tìm được thứ gì đó ở cái nôi không. Cô kéo hai cái gối lên rồi sau đó là tấm đệm trắng. Dưới những thanh gỗ đóng song song với nhau, cô chợt trông thấy một vật vuông vuông, nhỏ nhắn đặt ở dưới.
Một cuốn sổ da.
Tim Angeline đập mạnh, cô cầm lấy cuốn sổ lên. Cô bắt gặp những dòng chữ nghiêng nghiêng bên trong cuốn sách. Nó đã ở đấy lâu đến mức viền giấy quăn lại và nham nhở vì mọt, các tờ giấy dính sát vào nhau. Một ít mực loang lổ ở vài tờ giấy đầu, lem nhem lên dòng chữ: Myris Cellia Lucifer.
Đây chính là thứ cô cần tìm.
Phần nhật ký những năm cuối của Myris trong lâu đài Quỷ.
Cô đã không ra tưới nước cho cây táo nhiều ngày nay. Nó bạc màu đi, thẫn thờ và buồn chán. Cả cô và Howl đều chẳng tìm ra điều gì đáng chú ý cả. Cậu ta vẫn đi mất hút, có khi đến vài ngày. Dưới thành cửa sổ hình vòm của thưa viện, Angeline ôm một cuốn sách trong lòng mình và chăm chú đọc. Cách duy nhất để có cảm giác rằng mình không ở đây, cô đưa tâm trí mình vào những dòng chữ. Chúng cuốn cô đi thật xa, xa khỏi lâu đài Quỷ, xa khỏi nỗi sợ hãi khi nhận ra rốt cuộc mùa đông sắp đến.
Angeline hay ngủ gật ở thư viện. Có thể cô chẳng ngủ nổi một khi đã nằm lên giường, trằn trọc suốt đêm, nhưng giữa sự im lặng vắng vẻ và mùi sách giấy cũ phảng phất, cơn buồn ngủ đến với cô dễ dàng. Cô tựa đầu mình vào cửa sổ, cảm thấy một chỗ dựa vững chãi và an toàn bên vai.
Nhưng cô chẳng thể ngủ dễ dàng đến thế.
Một chiếc ly sứ trên bàn rơi xuống và vỡ toang. Angeline sực tỉnh, giật bắn mình. Âm thanh đó đánh thức cô bằng một cái đập đau điếng. Ban đầu cô nghĩ mình nghe nhầm, khi nửa tỉnh nửa mơ người ta thường tưởng tượng ra những âm thanh, hình ảnh không có thật. Cô cũng ngỡ là thế, cho đến khi tiếng động thứ hai vang lên.
“Angie...”
Tiếng thì thào vọng lại trong không trung. Angeline gấp lại cuốn sách, trái tim cô bị bóp thắt vì hồi hộp. Cô nhìn quanh những giá sách nhưng chẳng nhìn thấy gì cả.
Tiếng cười của trẻ con vang lên mơ hồ tựa như sương. Cô không thể xác định được hướng nó phát ra, như thể làn sương ấy bao trùm khắp bốn phía không gian. Thứ giọng tai quái ấy.
Cô rảo bước quanh những giá sách, rồi sau đó đi đến đoạn hành lang giữa thư viện. Một chiếc cốc màu đỏ vỡ tan tành từng mảnh trên sàn nhà, ở chiếc bàn gần lối ra vào nhất. Angeline không còn lạ lẫm gì với những trò đùa như thế này. Vào những ngày tháng đầu tiên cô ở lâu đài Quỷ khi còn là đứa trẻ, cô đã tái mét và sợ run khi gặp những tình huống như thế lúc ở một mình.
Đặc biệt, vào những đêm mưa, chúng xuất hiện nhiều hơn, lang thang khắp nơi để hù dọa.
Vì một lý do nào đấy, lâu đài Quỷ không cho phép nhiều người rời đi – cả người sống và người chết. Những âm thanh, những cái bóng, giọng cười – màn hù dọa kinh điển. Chúng hiếm khi vì một lý do cụ thể nào đó, chúng chỉ rảnh rỗi và buồn chán, và có khiếu đùa cợt.
Cô định quay lại đọc sách tiếp, thì nghe thấy tiếng bước chân chạy qua hành lang ngoài thư viện. Một tiếng nài xin não nùng vang lên gọi tên cô, không thể nói là không khiến Angeline có chút sợ hãi lúc này. Khó mà đuổi những hồn ma đi được.
“Ngươi muốn gì?” Angeline hỏi thật lớn, cô đi gần đến cửa ra vào.
Một quãng im lặng ngắn ngủi, và âm thanh méo mó dị thường như vang lên từ chốn không thuộc về thực tại làm sống lưng cô lạnh toát:
“Đến đây...”
Angeline ép mình phải lờ nó đi, phải mặc kệ nó, đừng làm theo lời nó nói. Nhưng chân cô vẫn bước tiếp. Giờ cô đang đứng trước cánh cửa lạnh ngắt, do dự trước khi mở nó ra.
Tiếng gõ cửa ầm ầm làm Angeline giật nảy mình, loạng choạng lùi lại. Nhưng rồi cô trở nên khó chịu. Có thể sau cánh cửa này sẽ là một cảnh tượng chẳng mấy mãn nhãn. Có thể là một cái đầu xấu xí với mái tóc bê bết tro và bùn đất, hai hốc mắt sâu hoắm như miệng vực, một cái miệng đang rỉ máu, hay làn da tái nhợt và nứt nẻ của xác chết.
Cô giật mạnh cánh cửa. Angeline không cho phép mình dễ dàng sợ hãi như thế, đặc biệt với những hồn ma phiền phức ấy.
Chẳng có gì cả.
Hành lang bên ngoài lạnh, trống không, và tối.
Cô bước hẳn ra ngoài, chuẩn bị cho một cú hù dọa đáng sợ. Có lẽ là một cái đầu máu me, một gương mặt dị dạng méo mó và chỉ có nửa thân trên, hay một mái tóc dài xổ ra từ bóng tối, sẵn sàng bóp cổ và lôi cô đập mình xuống sàn nhà.
Nhưng, chẳng có gì cả.
Chẳng có gì, ngoài một hành lang tối thui và lạnh. Ánh sáng hắt thành những khối vuông trên sàn nhà qua các ô cửa sổ, tạo ra những đường ranh giới rõ rệt giữa sáng và tối.
Nhưng đột ngột, ở cuối hành lang thình lình hiện ra một cái bóng.
Một cái bóng đen thui, giống như được sơn đen, cô có thể thấy cái bóng vì luồng sáng nhẹ từ cửa sổ chiếu đằng sau nó. Angeline cắn nhẹ vào môi. Cái bóng đứng yên như thể nó đã ở đó từ lâu lắm rồi, gương mặt nó ẩn trong bóng tối, nó đứng đó như một pho tượng.
Trong khoảnh tối bao trùm quanh cái bóng, Angeline thấy hai tia sáng vàng khè ở gương mặt như thể đấy là mắt nó. Nỗi sợ thôi thúc và đập vào lồng ngực cô những nhịp dồn dã, như cào cấu và thì thầm rằng: chạy, chạy đi, tránh xa khỏi cái thứ này.
Nhưng cô đã làm điều ngược lại.
Điều mà cô đã tự dạy mình và ép mình làm theo trong suốt những năm sống ở vùng Bóng tối.
Nếu thấy sợ hãi,
hãy mở to mắt,
và đừng bỏ chạy,
điều tệ hại nhất có thể xảy ra chỉ là cái chết mà thôi.
Vậy nên, có vẻ thật ngu ngốc khi cô quyết định lại gần cái bóng, nhưng Angeline biết nó không ở đó chỉ cho vui. Hẳn phải có lý do gì đó nó mới xuất hiện.
Angeline lần bước vào trong bóng tối. Càng lúc, cô càng đến gần hơn với cái bóng. Nó vẫn bất động. Và khi mắt cô đã quen với bóng tối, Angeline nhận ra một khuôn mặt. Đó là Abigail, với những tia sáng vàng phản chiếu trong mắt nó.
Nhưng đó không thể là Abigail được. Không thể.
Gương mặt đó là của một kẻ đã chết, nhợt nhạt màu xám xanh, tái tím đi. Abigail thường hay buộc tóc mình thành bím, nhưng cái thứ này thì không, tóc nó xõa ra khắp vai và cổ, trông như một mớ râu ngô bị nhúng xuống bùn ướt. Máu chảy ra từ hai hốc mắt sâu hoắm như đáy vực, và trên làn da là những đường nứt như sứ vỡ.
Nhưng bộ dạng ấy không dọa được Angeline. Cô đã từng nhìn thấy nhiều con ma đáng sợ hơn thế. Lúc này, máu chảy xuống từ mắt con bé nhỏ giọt trên sàn nhà. Điều duy nhất đáng sợ ở đây là việc nó giống Abigail như đúc. Một bản sao hoàn hảo.Cứ như thể cô đang nhìn thấy Abigail – một Abigail đã chết.
Và điều đó thật chẳng dễ chịu.
Angeline ngạc nhiên vì sự bình tĩnh của mình. Cô đưa một tay lên, định chạm vào cái bóng thì nó giật lùi lại và chạy vụt đi. Cô biết nó muốn mình chạy theo, giống như lần trước, vậy nên cô đuổi theo cái bóng. Nó chạy rất nhanh, thoắt ẩn thoắt hiện, hầu như không thể thấy rõ được. Nhưng Angeline biết mình phải chạy theo hướng nào, bởi vì có bước chân của nó đã dẫn đường. Khắp lâu đài yên tĩnh như thế, bỗng vang lên tiếng bước chân chạy, khó mà lờ đi được. Với sự im lặng này, thì dù là một giọt nước nhỏ xuống sàn người ta cũng nghe thấy.
Cô không rõ mình đang chạy đi đâu, ban đầu thì thế, nhưng Angeline có nhận ra càng lúc mình càng chạy lên cao. Những đoạn hành lang tối và các dãy cầu thang cứ nối tiếp bước chân cô. Ánh sáng màu vàng ố hắt vào từ các ô cửa sổ, nghiêng nghiêng từng ô vuông xuống sàn nhà. Angeline chạy theo các ô vuông đó. Các bức tượng và tranh trở nên rõ nét hơn khi có ánh sáng hắt vào, chúng nhăn nhó bởi những phần tối nơi ánh sáng không hắt đến được. Cô lại chạy. Qua hành lang. Qua các cánh cửa. Qua cầu thang.
Đột nhiên, khi lên đến cầu thang tầng sáu, Angeline đâm sầm vào James. Ông ta xuất hiện thình lình như một bóng ma, thậm chí còn hơn thế. Trán Angeline đau ê ẩm và cô lùi lại. Khi nhìn quanh cô thấy cái bóng đã biến mất. Bấy giờ cô đang đứng ngơ ngác giữa một ngã tư với ba lối rẽ hành lang và một dãy cầu thang lượn xuống dưới, với James.
“Cô đang tìm ai à?” Ông ta hỏi từ tốn và bình thản.
“Không, không...” Angeline vẫn đảo mắt xung quanh, ngược lại hoàn toàn so với lời nói của mình. “Không có gì cả.”
Sau gáy James, tại đoạn hành lang bên trái, Angeline thấy một cái đầu nhỏ thó ló ra. Nó nhìn cô một lúc rồi lại chạy biến.
“Xin lỗi.” Angeline nói, bỏ lại James phía sau và chạy tiếp. Cô thở hổn hển không ra hơi, hai bắp chân nóng cháy lên và cơ căng ra. Nhưng nó càng nhức và nóng, Angeline càng chạy nhanh hơn. Mồ hôi túa mạnh trên trán cô.
Rốt cuộc, cái bóng dẫn cô đến tháp Nam.
Nhẽ ra cánh cửa vào tháp phải đóng, nhưng cô thấy nó đang mở hé như một lời chào: Vào đây đi, vào đây đi, có những bí mật đáng tò mò trong này. Angeline đứng chần chừ trước cái tháp, rõ ràng đây là nơi cái bóng muốn cô đến. Rồi trong đầu cô chợt lóe lên một ý nghĩ, sáng chói như tia lửa của que diêm trong căn hầm tối. Đây, là nơi mà mẹ Howl đã chết.
Đây, là nơi đã cháy rụi hoàn toàn nhiều năm về trước.
Là nơi mà dường như không ai muốn nhắc đến nữa.
Cô lập tức chạy vào trong. Rồi sau đó cô nhận ra sai lầm của mình khi không mang theo một cây đuốc hay nến, vì trong tháp tối om và cô phải men theo các bậc cầu thang đá rất cao. Những đường lượn xoắn ốc uyển chuyển đưa dãy cầu thang lên trên cao. May mắn, có một vài ô cửa mà có lẽ quá nhỏ để gọi là cửa sổ, cho phép ánh sáng ngoài trời in vào trong. Angeline có thể thấy được cấc bậc thang khi mắt đã quen với bóng tối. Ở chỗ có ánh sáng, cô thấy có cả bụi. Nó bẩn thỉu hơn tháp Tây gấp nhiều lần.
Phía Nam lâu đài Quỷ là một khoảng rừng thưa, mỏng, xen lẫn đầm lầy. Angeline không bao giờ đi xuống tận đó. Một phần là vì nó quá xa, phần khác là vì những cái đầm lầy. Có cái sâu đến cổ người, ngập ngụa bùn và những loài thực vật nước. Và ai mà biết được có cái gì ở bên dưới mặt nước đặc quánh, xanh lè ấy.
Vậy nên, chẳng có gì để mà ngắm nghía ở tháp Nam cả.
Chân tay cô rã ra khi cô cuối cùng cũng lên đỉnh tháp Nam. Ở đây, cầu thang dẫn thẳng vào một cánh cửa gỗ, mà chẳng hiểu vì lý do gì khóa đã mở. Nhưng Angeline không thấy chìa khóa đâu cả.
Cô bước đến gần cánh cửa, gỡ ổ khóa ra khỏi dây xích và để xuống sàn nhà, rồi kéo mạnh cánh cửa. Điểm khác nhau giữa một cánh cửa gỗ và một cánh cửa sắt đó là cô vẫn có thể kéo cửa gỗ ra mà không cần đến cái xà beng chết tiệt nào. Dù bản lề của nó đã gỉ sét, tạo ra những âm thanh kêu rít chói tai, cô vẫn có thể mở nó ra được.
Cửa nặng nề mở ra. Và Angeline bước vào phòng.
Ban đầu cô thoáng giật mình. Những tấm vải trắng trải kín phòng mà lúc sau cô mới nhận ra chúng để che phủ đồ đạc khỏi bụi. Khác với phòng ở tháp Tây, phòng này chi có hai ô cửa sổ đối diện nhau, phủ rèm tím. Cô chần chừ một lát trước khi đi vào trong, cảm thấy sau gáy ngứa ngáy và lạnh toát.
Angeline đi đến bên hai cánh cửa sổ trước để kéo rèm ra. Ánh sáng nhuộm căn phòng màu vàng ố. Đi đến đâu cũng thấy bụi và mạng nhện, vón lại với nhau và dày từng lớp. Cô không còn thấy cái bóng ở đâu nữa, nên đoán rằng đây chính là nơi mình cần đến. Angeline bèn kéo hết những tấm vải trắng xuống, lục tung đồ đạc bên dưới chúng nhưng bằng một cách cẩn thận.
Có một tủ quần áo gỗ đầy trang phục nữ: các bộ váy, khăn choàng, giày, găng tay, mũ... Bên cạnh còn có một bàn trang điểm bẵng gỗ, bụi dày đến mức Angeline không muốn đụng vào. Nhưng cô phải tìm, cô phải tìm cho ra thứ cần tìm, dù cô vẫn chưa biết đó là gì. Có lẽ là một lá thư, một mẩu giấy, một đồ vật, hay bất cứ cái gì. Trong những ngăn kéo bàn trang điểm, cô chỉ tìm thấy những xấp giấy - những bản nhạc soạn tay. Angeline ngẩn người.
Đây hẳn là đồ đạc của Myris để lại. Và đây là những bản nhạc bà đã soạn. Chúng không dài, thường chỉ có một đoạn ngắn, đôi chỗ trong tờ giấy bị gạch chồng chéo lên nhau. Nét chữ của bà y hệt với trong cuốn sách Bóng tối, nên cô không còn nghi ngờ gì nữa.
Khi những ngón tay của Angeline lần trên các trang giấy mà viền đã tơi tả, cô cảm thấy hơi thở của một cuộc đời khác phả đến. Ngắn ngủi, tội lỗi, đáng thương, những thứ cũng gần gũi với cô. Myris đã từng sống ở đây. Và lòng dạ cô bồn chồn lẫn lo sợ khi nhớ đến việc bà cũng đã chết ở đây.
Chính xác, là chỗ nào của căn phòng nhỉ?
Cô cố né tránh các câu hỏi của chính mình, vì nó chỉ làm cô thêm sợ hãi. Angeline đặt lại các bản nhạc soạn tay vào ngăn kéo. Trong phòng có rất nhiều đồ đạc, nhưng cô cảm thấy đó là hơi ít so với một người từng là vợ của Moldark, Quỷ Vương. Hoặc người ta đã mang vứt hết đi rồi.
Trong góc phòng, Angeline tìm thấy một chiếc nôi cũ bằng gỗ đỏ. Những chấn song giăng mắc mạng nhện nhưng nước sơn vẫn còn nguyên. Cô chạm vào thành nôi, dường như kích cỡ của nó hơi lớn cho một đứa trẻ sơ sinh. Bên trong nôi vẫn còn để nguyên một tấm đệm trắng không có ga, và hai cái gối xếp cạnh nhau. Bụi phủ kín nguyên lớp vải và nhuộm màu trắng thành màu nâu ngà bẩn thỉu. Cô tự hỏi liệu đây có phải là cái nôi của Abigail.
Sự xuất hiện của chiếc nôi cũ gợi lên điều gì đó trong Angeline. Lòng cô dịu xuống như thể trước đó trong cô chỉ có những cơn sóng dữ dội, bây giờ lại là mặt hồ yên ả. Angeline băn khoăn không biết cô có tìm được thứ gì đó ở cái nôi không. Cô kéo hai cái gối lên rồi sau đó là tấm đệm trắng. Dưới những thanh gỗ đóng song song với nhau, cô chợt trông thấy một vật vuông vuông, nhỏ nhắn đặt ở dưới.
Một cuốn sổ da.
Tim Angeline đập mạnh, cô cầm lấy cuốn sổ lên. Cô bắt gặp những dòng chữ nghiêng nghiêng bên trong cuốn sách. Nó đã ở đấy lâu đến mức viền giấy quăn lại và nham nhở vì mọt, các tờ giấy dính sát vào nhau. Một ít mực loang lổ ở vài tờ giấy đầu, lem nhem lên dòng chữ: Myris Cellia Lucifer.
Đây chính là thứ cô cần tìm.
Phần nhật ký những năm cuối của Myris trong lâu đài Quỷ.
/75
|