Vô Cực

Chương 2: Nhật Trú

/8


Trên những bức tường bốn phía trong cung điện, tại những vị trí cố định, người ta đặt rất nhiều tấm gương đồng cực lớn. Khi mặt trời rọi vào đó, toàn bộ ánh sáng được phản chiếu lên một viên Thâm Hải Minh Châu đặt ở nơi cao nhất của cung điện. Tại đây, phát ra vầng hào quang rực rỡ tựa ban ngày.

Với thiên hạ ngày nay, đại tướng quân quả thực cũng như tên của ngài, là sự quang minh, là ánh sáng của hết thảy mọi người.

* * * * *

Đại tướng quân Quang Minh ngồi trên ghế thống lĩnh của mình, tay phải kê lên tay vịn, chống cằm, mắt nhắm như đã thiếp đi.

Phó tướng Dã Lực của ông đang đọc cuốn thư ở bên dưới. Trong đó liệt kê những vật phẩm Hoàng thượng vừa ban tặng.

“Thưởng ngọc bội Phù Hải Tử, bảy bộ”

“Thưởng chén lưu li Thượng Cổ, bốn bộ”

“Thưởng bốn mươi bốn đồ Hiểu Tôn bằng đồng”.

“Thưởng tên phá thuật Huyền Băng Thượng Cổ một nghìn mũi, tên Hư Ảnh một nghìn mũi, tên Thần Phong một nghìn mũi, tên Hàn Băng một nghìn mũi, tên Hỏa Nhãn một nghìn mũi”.

“Thưởng bình Ánh Quang Thanh Đởm...”.

“Được rồi”. Đại tướng quân Quang Minh hé mắt, phẩy tay với Dã Lực, nói: “Không đọc nữa, đem vào kho”.

Quang Minh nói xong lại nhắm mắt, như thể những thứ ghi trong cuốn thư chỉ như những dầu gạo củi muối bình thường. Nếu là người bình thường, chẳng cần được ban thưởng những thứ đó, chỉ cần nghe đến tên đã đủ khiến hai chân mềm nhũn.

Thế mà, với Quang Minh tướng quân, đó chỉ là những thứ cỏn con.

Thậm chí cả thiên hạ này đối với ông ta cũng không phải là điều gì ghê gớm.

Bởi khắp thiên hạ ngày nay, cả cái thời thịnh trị này, thảy đều nhờ bàn tay đánh dẹp của ngài mà có.

Sáu năm về trước, Quang Minh thừa kế địa vị tướng quân của cha, đánh dẹp bốn phương, bắt Bắc công tước nơi cực bắc Vô Hoan phải cam chịu phục tùng, không dám làm phản, bình định tộc Thần Hỏa của Tiêu Dao Hải sở trường dùng phép thuật ở phương Nam, đánh lui mọi cuộc nổi dậy của Man tộc, thu phục hết pháp sư vùng tây bắc du mục, thần phục dân Miêu Cương, cấm ngặt giáng đầu sư dùng pháp thuật ở Trung Nguyên, đàn áp các trùng sư trên các đảo Nam Hải, ép buộc họ mỗi năm triều cống Cực Ngọc tằm chúa.

Ông ta là một thần tích.

Trong kinh thành, mỗi một người mỗi khi nhắc đến tướng quân Quang Minh không ai không tỏ rõ sự tôn kính tự đáy lòng.

Nhà vua đã cho xây một cung điện to gần bằng một nửa hoàng cung để ban thưởng cho tướng quân, đặt tên là Nhật Trú. Rất hợp với tên của tướng quân.

Trên những bức tường bốn phía trong cung điện, tại những vị trí cố định, người ta đặt rất hiều tấm gương đồng cực lớn. Khi mặt trời rọi vào đó, toàn bộ ánh sángđược phản chiếu lên một viên Thâm Hải Minh Châu đặt ở nơi cao nhất của cung điện. Tại đây, phát ra vầng hào quang rực rỡ tựa ban ngày.

Đối với thiên hạ ngày nay, đại tướng quân quả thực cũng như tên của ngài, là sự quang minh, là ánh sáng của hết thảy mọi người.

Vua đối đãi với Quang Minh gần như muốn gì cho nấy. Tất cả mọi thứ ngài đều có thể ban cho tướng quân, trừ hai điều.

Điều thứ nhất, đương nhiên là ngai vàng của ngài.

Điều thứ hai, vương phi của ngài, Khuynh Thành.

Lòng sủng ái của Vua đối với vương phi Khuynh Thành là điều thiên hạ đều biết, nhưng rất hiếm người nhìn thấy dung nhan của nàng.

Tất nhiên là vậy, dù là một vị vua bình thường với một vương phi bình thường, cũng không thể để cho vương phi thường xuyên tiếp kiến người khác.

Nhưng, điều không bình thường là: Vua không cả cho phép Khuynh Thành nhìn thấy dung mạo của người khác. Mỗi người vào cung đều phải đeo mặt nạ.

Theo ý của Vua, ngài không chấp nhận đôi mắt đẹp vô song của Khuynh Thành nhìn thấy một người đàn ông nào khác ngoài vua, thậm chí nhìn thấy những phụ nữ khác, điều đó cũng khiến ngài nổi giận.

Cho nên, mỗi người bước vào trong cung, đều buộc phải đeo mặt nạ.

Cả đại tướng quân Quang Minh cũng không được khác.

Ai cũng có thể nhận thấy sự sủng ái của vua dành cho vương phi đã đến độ có phần kỳ quặc.

Hôm nay, vừa sáng sớm, đại tướng quân Quang Minh đã đeo mặt nạ tới hoàng cung.

Bởi hôm nay là ngày Bắc công tước Vô Hoan vào cung. Thủ hạ của ông ta đã đến trước bẩm báo, lần vào cung này mục đích là dâng cho vương phi Khuynh Thành một lễ vật.

Thiên hạ cũng biết Bắc công tước đã từng có ý nhòm ngó ngai vàng, nhưng thế gian này đã có thứ tự, chẳng đến lượt ông ta làm vua. Nếu ba năm trước tướng quân Quang Minh không đánh hạ được Cực Lạc cung và ép Vô Hoan phải chấp nhận không tranh giành ngôi vị, thì chắc chắn ba năm qua, kinh thành đã không có một ngày yên tĩnh.

Thế nhưng ai cũng biết, Cực Lạc cung không còn là phủ công tước bình thường nữa. Đó đã là một tổ chức hùng mạnh ngang ngửa với vương triều. Hơn nữa điều khiến người người kinh hãi là một trăm linh tám sát thủ tinh thông Dịch Động thuật của Cực Lạc cung.

Ánh sáng. Gió giật. Đại lục rung chuyển.

Pháp thuật niệm chú tồn tại từ thủa hồng hoang truyền tới nay, bao gồm Trùng Độc thuật, Chiêu Hô thuật, Thần Ngữ thuật v. v... và Dịch Động thuật.

Nhưng tới ngày nay, tộc người ở cực bắc bỗng nhiên từ bỏ tất cả các nội dung khác, chỉ chuyên sâu Dịch Động thuật mà thôi. Vì thế, họ đã có những đột phá chưa từng có về thuật này. Họ đã phát triển Dịch Động thuật thành một môn riêng, đặc biệt, vượt ra khỏi phạm vi của pháp thuật niệm chú trước đây, hình thành nên một giới chuyên công luyện Dịch Động thuật.

Dịch Động thuật được truyền thụ nghiêm ngặt cho những thế hệ kế tiếp. Trình độ dịch chuyển và thay đổi không gian lẫn thời gian của họ đã đạt đến mức vô tiền khoáng hậu.

Cực Lạc cung của Vô Hoan là nơi thu nạp tất cả những người luyện Dịch Động thuật.

Ba năm qua, dù bề ngoài Vô Hoan vẫn quy phục xưng thần, nhưng bên trong đã ngấm ngầm tích lũy lực lượng, tìm kiếm cơ hội lật đổ vương triều, hoặc chỉ cần giết chết nhà vua. Sau khi vua chết, ông ta chính là người duy nhất còn lại mang dòng máu hoàng tộc. Nghiễm nhiên sẽ được thừa kế ngôi vị.

Bởi thế, mỗi lần Vô Hoan từ cực bắc về kinh thành, vua đều muốn Quang Minh theo sát ông ta không rời nửa bước. Quang Minh là người duy nhất khiến Vô Hoan e dè.

Trong triều, bá quan văn võ đứng sát hai bên, Quang Minh đứng tại vị trí đầu tiên, gần vua nhất. Ông đeo mặt nạ, nhìn qua lỗ mắt trên mặt nạ về phía ngai vàng.

Quốc vương đang ngự trên ngai, một nửa ngai vàng bên cạnh ngài đã bị một bức rèm vàng rủ xuống che khuất. Au cũng biết phía sau đó chính là vương phi tương truyền có nhan sắc như tiên trên trời. Vương phi Khuynh Thành. Quốc vương thậm chí không nỡ rời xa vương phi dù chỉ một giây. Vì thế ngay cả khi lâm triều, vua cũng muốn nàng ở bên cạnh. Nhưng ngài không muốn người khác nhìn thấy dung mạo của Khuynh Thành, nên dùng rèm vàng che lại.

Trong khi mọi người đang căng thẳng chờ Vô Hoan vào cung, một trận gió xoáy bỗng cuộn lên. Thế rồi, chẳng ai biết tự bao giờ, Vô Hoan đã đứng sừng sững chính giữa điện triều.

Trường bào máu trắng tuyết, trắng tới mức gần như tuyệt đối. Như có vô vàn ánh sáng dập dìu phát ra từ tấm trường bào của ông ta. Trắng muốt.

Mái tóc dài màu đen, bay tung dập dờn theo ngọn gió xoay vần xung quanh. Đôi lông mày đen, đôi mắt như sao sớm, nụ cười ngọt ngào đầy tà khí. Nụ cười nở trên khuôn mặt dường như tuyệt mỹ hoàn hảo không tì vết của ông ta toát lên một sức quyến rũ thần bí. Nghe nói không một người phụ nữ nào cưỡng lại được sự hấp dẫn của Vô Hoan.

Khói thơm nồng đượm khắp đại điện.

Mùi thơm rất rõ, nhưng cũng rất nhẹ nhàng. Hương thơm tỏa ra trên mình Vô Hoan. Mùi thơm tương tự hương Đinh Lam.

Ngay Quang Minh tướng quân cũng không thể phủ nhận, Vô Hoan là người đàn ông cực kỳ hoàn hảo. Nếu không vì âm mưu thoán nghịch, ông ta thực sự hoàn mỹ như một vị thần.

Hơn nữa, chỉ riêng mình ông ta là người ra vào cung điện không phải đeo mặt nạ.

Lý do duy nhất, đó là ông ta không muốn vậy.

Chỉ có một lí do đó mà thôi. Vì chưa bao giờ có ai dám bức bách ông ta.

Vô Hoan khẽ gật đầu về phía nhà vua đang ở trên ngai, coi như đã thi lễ xong. Dù ông ta quá đỗi nghênh ngang, nhưng quần thần không ai dám nói gì.

Cả vua cũng không coi đó là chuyện lớn. Nhà vua đứng dậy, hỏi Vô Hoan: “Khanh đến lần này có chuyện gì, Bắc công tước?”

Vô Hoan cười, vẫn là nụ cười đẹp đẽ đầy tà khí, tựa hồ một ngọn gió xuân thổi qua khắp gian đại điện. Vô Hoan đáp: “Mang cho đức vua một món quà, có thể dùng để tặng vương phi Khuynh Thành”.

Vừa nghe đến Khuynh Thành, mặt vua đã hơi biến sắc. Ngài không muốn bất kỳ người đàn ông nào nhắc đến cái tên đó. Nhất là loại người như Vô Hoan. Nhà vua cũng không muốn hắn ta ở quá lâu trên điện. Cái dung nhanh không đeo mặt nạ kia, gần như có thể thu hút ánh mắt của mọi phụ nữ. Ngay cả những kẻ nam giới mang danh đại thần trong điện cũng nhìn dán mắt vào Vô Hoan. Vì vậy, nhà vua biết, Khuynh Thành đang ngồi sau bức rèm vàng kia cũng đã nhìn thấy dung nhan đẹp đẽ tới mức khó tin của hắn.

Cũng như khi Vô Hoan vào điện, chẳng ai trong triều nhìn thấy chiếc hộp lớn trong tay ông ta xuất hiện từ khi nào.

Vô Hoan đưa tay phẩy nhẹ phía trên chiếc hộp, nó tựa như bị một bàn tay vô hình mở ra.

Vô Hoan khẽ cử động ngón tay, từ trong hộp chầm chậm nhô lên một tấm áo được dệt hoàn toàn từ lông vũ. Vô số những chiếc lông trắng tinh, tỏa ra ánh sáng trắng dịu dàng, tương tự như thứ ánh sáng hắt ra trên mình Vô Hoan. Vô Hoan đẩy tay về phía trước, tấm áo lơ lửng trong không trung, trôi dần về phía nhà vua, tựa như có một bàn tay vô hình đang nâng nó.

Tuy nhiên, không ai cảm thấy kỳ lạ về điều đó, bởi đối với người tinh thông Dịch Động thuật như Vô Hoan, dịch chuyển một chiếc áo như vậy cũng dễ như chuyện ăn cơm uống nước.

Nhưng nhà vua lập tức thay đổi thái độ. Vô Hoan vẫn làm như không thấy.

Ông ta mở miệng giọng nói trầm trầm nhưng dịu dàng: “Đức vua, đây là Thiên Vũ Y tôi mang từ xứ cực bắc tới đây, hi vọng vương phi sẽ thích nó”.

“Thiên Vũ Y...”.

“Cái tên này không hay lắm...”.

“Ông ta cố ý gọi như vậy thì phải...”.

“Hừm, xấc xược quá đi...”.

“Chỉ có ông ta mới dám dâng vua những thứ như vậy...”.

Vô số lời bàn tán xì xầm nổi lên trong điện. Âm thanh vọng từ bên này sang bên kia, giữa những bức tường. Nhà vua quay mình rời khỏi ngai vàng, buông lại một câu: “Tấm lòng của khanh trẫm ghi nhận, không có việc gì thì khanh lui ra được rồi. Những người khác cũng có thể lui ra”.

Quần thần tề tựu tiến ra phía cửa, chỉ có Vô Hoan đứng nguyên tại chỗ, miệng vẫn cười.

Vẫn nụ cười ngọt ngào, nhưng chứa đựng tà khí.

* * * * *

Cũng như tất cả mọi người đều biết đến Cực Lạc cung, ai ai cũng biết cái tên Thiên Vũ lầu.

Cũng như Cực Lạc cung, sự tồn tại của Thiên Vũ lầu là gai trong lòng nhà vua.

Năm 790 lịch Thiên Cực. Triều đình hưng thịnh. Quang âm thấm thoắt.

Những pháp sư bấy vốn kế tục pháp thuật từ thời thượng cổ truyền lại, nhưng càng về sau càng ít đi. Sau cùng, pháp thuật trở thành thuật luyện riêng của dòng dõi hoàng tộc. Tất cả những người biết chút pháp thuật đều được các hoàng thân quốc thích mời về làm thượng khách trong phủ, truyền thụ pháp thuật cho con cháu của họ.

Trong các pháp sư, những người có trình độ cao thâm nhất đều thuộc về Thiên Vũ lầu.

Người của Thiên Vũ lầu đều là nữ.

Thế nhưng so với hai lực lượng nổi danh ngang ngửa với kinh thành là Nhật Trú thành và Cực Lạc cung, Thiên Vũ lầu tồn tại như một thứ ảo ảnh nơi chân trời góc bể.

Không ai biết đích xác vị trí của Thiên Vũ lầu.

Không ai biết thủ lĩnh của Thiên Vũ lầu là ai.

Không ai biết Thiên Vũ lầu có tất cả bao nhiêu vị pháp sư. Có người nói trăm, người lại nói nghìn.

Mỗi năm, mỗi tháng, thậm chí mỗi ngày, đều có quan tướng của triều đình bị giết chết. Tất cả đều chết vì pháp thuật.

Ngay cả hoàng cung được canh phòng nghiêm mật nhất cũng thường xuyên bị Thiên Vũ lầu tập kích.

Những phép thuật bí ẩn bất ngờ khiến cho không khí trong hoàng cung như đang bị treo trên cao, chao đảo bởi gió xoáy và sắp sửa rơi xuống.

Nếu không có Quang Minh tướng quân bày bố khắp hoàng cung tuyến Bạch quang kết giới có khả năng phát giác mọi sự chuyển động của những năng lượng phép thuật để hễ có động, ngài có thể nhanh chóng có mặt tận nơi, thì chắc rằng nhà vua đã bị giết chết hàng trăm hàng ngàn lần rồi.

Thiên Vũ lầu là hòn đá nặng nhất trong lòng Quang Minh tướng quân, cũng là cái gai trong lòng nhà vua.

Cực Lạc cung có thể bình định được, người Man có thể bị đẩy lùi, Giáng Đầu Sư có thể bị thống trị, nhưng Thiên Vũ lầu vẫn tồn tại như mộ truyền thuyết.

Giống như một câu đố, như một vết tích.

Như vòng sáng lơ lửng trên đầu.

Như một mẩu xương cá, mắc ngang họng.

Thế nhưng, Thiên Vũ lầu không chỉ uy hiếp kinh thành, nó cũng uy hiếp cả Cực Lạc cung.

Cả hai thế lực đều có chung mục đích: lật đổ ngai vàng.

Vì thế, có Thiên Vũ lầu tất không thể có Cực Lạc cung.

Cho nên.

Thiên Vũ lầu, Cực Lạc cung, Nhật Trú thành. Mối quan hệ ấy kỳ quặc giữa ba bên.

Hai bên muốn lấy mạng nhà vua, một bên muốn bảo vệ vương triều bình an thịnh vượng. Nhưng tất cả đều đối địch lẫn nhau.

Sự kỳ quặc đó đã âm thầm tồn tại rất nhiều năm. Cho đến khi quan binh sai dán cáo thị lên cổng Trầm Nguyệt hiên.

Mọi việc như sóng trên mặt nước, bắt đầu khe khẽ gợn lên và lan ra.

Nội dung trên tờ cáo thị nhanh chóng được lan truyền khắp nơi như có phép màu. Tin tức đó giống như âm ba, vượt núi xuyên biển, không ngừng lan rộng và bao trùm lên khắp mọi miền.

Thế nên, khi bà chủ quán nhìn thấy giáng đầu sư đến từ Nam Cương và trùng độc sư đến từ những quần đảo xa, bà ta cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên.

Đủ mọi loại người, ôm những mục đích khác nhau, đang tụ tập về Trầm Nguyệt hiên.

Vầng thái dương đã hoàn toàn chìm xuống dưới chân trời.

Đèn đuốc thắp sáng dọc dãy phố. Từ những trà đình tửu quán tỏa ra những hương vị ngọt ngào.

Bà chủ Trầm Nguyệt hiên nhìn cuốn sổ trong tay, ngón tay lướt qua từng cái tên khách trọ trong quán. Trong số không chỉ ghi chép lại tên tuổi của từng vị khách, phía sau còn có những ghi chú về từng người. Đó là gốc gác của những vị khách kỳ bí: tất cả đều được nhà quán ghi chép hết sức rõ ràng. Bà chủ quán cười tươi, xem ra rất hài lòng với khả năng làm việc của tiểu nhị.

Trong cuốn sổ viết:

Tật Phong viện, Thất Mục Sát, pháp sư du mục Tây Bắc.

Mực Trúc viện, Lam Cơ Đông, giáng đầu sư Nam Cương.

Trầm Thủy viện, Huyền Tiểu Nhu, thế gia đất Trung Nguyên, tài dụng độc.

Phù Vân viện, Nộ Mãng, người Man, nhàn du đất Trung Nguyên.

Phi Điểu viện, Khổng Tước, không rõ.

Tang Hải viện, Lưu Quang, trùng sư quần đảo Tinh La.

Tử Tinh viện, Ly Hỏa, Bách Thông môn Tiêu Dao Hải.

Nhưng Ly Hỏa và hai cô bé đi theo còn ở cùng Khổng Tước ở Phi Điểu viện. Hiện tại họ đều đang ngồi ăn ở đại sảnh.

Bà chủ liếc nhìn họ rồi lại cười. Chẳng ai hiểu bà ta cười điều gì. Hoặc có thể nói chẳng có nguyên nhân gì cả.

Đáng lý mấy chữ “không rõ” trong sổ phải khiến bà ta không bằng lòng mới đúng. Đằng này chẳng hiểu sao, bà ta không hề hạch sách tiểu nhị lý do không điều tra được lai lịch Khổng Tước. Hoặc có thể tự bà ta đã biết điều đó.

Tiểu nhị của Trầm Nguyệt hiên vừa mới treo xong hai ngọn đèn lưu ly cực kỳ lộng lẫy lên xà ngang cổng lớn, bỗng nghe thấy những tiếng láo nháo vọng tới.

Nhìn ra đầu đường, chỉ thấy mọi người đều vội vã dạt sang hai bên như tránh đường cho một quái vật. Nhìn thêm một lúc mới thấy bảy người áo trắng đang chậm rãi tiến bước.

Từ xa tận phía đầu đường, họ bước đi cực kỳ thong thả. Không hiểu sao, bảy kẻ bộ hành xa xa đầu đường kia thoáng một cái đã chỉ còn cách tiểu nhị chục bước. Tiểu nhị vội vàng dụi mắt kinh ngạc.

Chỉ thêm một cái dụi mắt nữa, đã thấy bảy người áo trắng đứng trước mặt.

Hai chân tiểu nhị mềm nhũn, ngã lăn từ trên ghế xuống đất.

Bà chủ trong sảnh đang gẩy bàn tính, bị tiếng kêu của tiểu nhị hốt hoảng chạy vào làm gián đoạn. Hai mắt anh ta trắng dã, trán vã mồ hôi to bằng hạt đậu. Chạy vào được tới nơi đã làm đổ một cái bàn và cả loạt mấy chiếc ghế.

Chủ quán nhíu mày mắng khẽ: “Mày gặp ma hay sao đấy!”

Tiểu nhị hoảng loạn gật đầu, lắp bắp: “Cực... cực...”.

Lời còn chưa nói hết, đã có người bước qua cổng vào đại sảnh đỡ giúp anh ta.

Một giọng nói khoan hậu đầy ma lực: “Cực Lạc cung!”

Bảy chàng thanh niên áo trắng ở trong sảnh, kẻ đứng người ngồi. Có người mỉm cười, người lại mặt mũi lạnh lùng, người thì lật đi lật lại bàn tay mình... Kế đến bình trà như được người vô hình bưng lên rót đầy vào chiếc cốc trước mặt.

Người cuối cùng bước vào trẻ tuổi hơn cả. Anh ta giơ ngón tay ngoắc nhẹ phía sau lưng. Cánh cổng đóng sầm lại.

Thoáng chốc, cả gian đại sảnh rạng rỡ hẳn lên. Vô số tia sáng mềm mại, dường như tỏa ra từ bảy người áo trắng chầm chậm lan khắp không gian. Ánh sáng chiếu ra từ hai chiếc đèn lồng lộng lẫy bỗng lu mờ hẳn. Cả gian sảnh giống như một bức họa tuyệt đẹp, ánh sáng trắng dịu dàng, bảy người đứng quanh gian nhà tạo thành một bố cục hài hòa, màu sắc rạng rỡ.

Người vừa mới ban nãy nở nụ cười tiến tới trước mặt bà chủ. Gã chừng ba mươi tuổi, dù đã hơi lớn tuổi nhưng vẫn anh tuấn, hiên ngang, chiếc trường bào trắng tuyền làm bật lên khí chất tuấn tú của người đó.

Gã chắp tay trước mặt bà chủ, nói: “Tại hạ Tô Tuần Hải, chẳng hay quý phủ có gian chính đường của biệt viện nào còn để trống chăng? Tại hạ muốn đặt gian đó, bất kỳ biệt viện nào cũng được”.

Bà chủ cười liếc ông ta một cái. Nam tử đẹp trai ai chẳng muốn nhìn. Nhưng lời của bà ta lại chẳng khiến người nghe vui vẻ như nụ cười của bà: “Nhưng bất kỳ gian nào cũng đã có người thuê rồi”. Nói rồi vẩy tay, thái độ ra vẻ đáng tiếc.

Tô Tuần Hải vẫn rất lễ độ, hỏi tiếp: “Chẳng hay những người đã thuê là những ai, biết đâu lại có người tại hạ quen biết, có thể nhường lại chăng?”

Chủ quán cười, nhìn hai người đang thưởng thức những món ăn tuyệt vời của Trầm Nguyệt hiên trong đại sảnh: Khổng Tước và Ly Hỏa, rồi nói với Tô Tuần Hải: “Hai vị kia đó. Một vị là cô nương Khổng Tước ở Phi Điểu viện, một người là Ly Hỏa tiên sinh ở Tử Tinh viện. Không biết các hạ có quen chăng?”

Không khí bỗng trở nên rất căng thẳng.

Không ai biết tại sao bà chủ thường ngày vẫn tròn trịa khéo léo nay bỗng nhiên gần như công khai khêu lên mối mâu thuẫn.

Tuy vậy, mỗi người vẫn giữ thái độ như trước. Bảy nam tử vẫn kẻ ngồi người đứng, mỉm cười hoặc lạnh băng.

Ly Hỏa vẫn đang húp món canh “tử trúc áp xuân”.

Khổng Tước đang uống trà.

Chẳng có bất cứ sự khác thường nào, nhưng ai cũng cảm nhận được những thay đổi tinh tế đang dịch chuyển trong không khí. Dường như có một sợi dây, căng dần, căng dần trong tim mỗi người.

Tô Tuần Hải lui ra bên cạnh bàn, khoan thai ngồi xuống. Nâng chén trà hấp một ngụm. Ôn tồn nói với ấm trà: “Nếu là tiên sinh Ly Hỏa của Tiêu Dao Hả thì không cần bàn nữa nhỉ. Tiên sinh nhất định đồng ý nhường chỗ cho bọn vãn bối rồi”.

Mặc dù giọng điệu cực kỳ lễ độ, nhưng thái độ cực kỳ ngông nghênh, thậm chí khi nói còn không thèm nhìn ông già lấy nửa con mắt.

Ly Hỏa ăn canh, miệng mấp máy, nhưng trước sau vẫn không nói gì. Chỉ có sắc mặt hơi đỏ lên. Nghe thấy những lời như vậy, có ai bỏ qua cho được.

Nhưng Ly Hỏa vốn là hạng có công lực cao thâm, ông ta vẫn điềm tĩnh húp canh, bàn tay đang ăn cũng hết sức thư thái.

Cô bé lớn hơn ngồi cạnh ông lại không kìm lòng được. Vừa dợm người thì cô em đã đứng dậy nhìn cô chị lắc đầu: “Để em”.

Cô bé vẫn tỏ ra e thẹn hơi cúi đầu, chậm rãi bước mấy bước về phía Tô Tuần Hải rồi dừng lại, cất tiếng: “Tô tiên sinh, thật xin lỗi. Chủ nhân chúng tôi đã thuê Tử Tinh viện, rất lấy làm tiếc...”.

Lời cô bé mới được một nửa đã bị cắt ngang.

Cắt ngang lời cô chính là kẻ cuối cùng bước vào và đóng cửa gian sảnh ban nãy. Một thiếu niên trạc mười bảy tuổi.

Mặt lạnh như băng, hắn ta chỉ quát một tiếng: “Cút!”

Quát rồi khẽ động ngón tay, một chén trà bay vút tới. Hắn nhấp một ngụm rồi bổ sung thêm: “Mi không có tư cách ở đây, gọi chủ nhân mi nói chuyện”.

Mặt cô bé lập tức đỏ bừng. Mặc dù đang cúi đầu, nhưng ai nấy vẫn có thể thấy cô đang thở mạnh, cố kiềm chế cơn giận. Cô chị đứng dậy khỏi bàn, chĩa thẳng ngón trỏ và ngón út, cườm tay áp sát miệng.

“Ta khuyên mi”, thiếu niên mở miệng, nhưng chẳng thèm liếc tới cô bé, “tốt nhất hãy dừng Cự trận phong bế, nếu không ta e mi chẳng đọc nổi thần chú ra mồm”.

Cô bé áo hồng giận đỏ mặt, nghiến răng nói: “Chớ coi thường người khác”. Nhưng cô bé áo trắng đã kéo vai em, tiếp đó giơ tay lên niệm: “Cự trận phong bế!”

Trong nháy mắt, không gian màu hồng trong suốt được triển khai. Lần này, khối không gian bao trùm lên toàn bộ Trầm Nguyệt hiên. Âm thanh sắc nhọn của tiếng đàn bỗng vang lên từ bầu trời đen tối. Người trên cả con phố đều kinh hãi đờ người nhìn khối không gian màu hồng nuốt chửng cả Trầm Nguyệt hiên. Người không biết pháp thuật ngỡ đang gặp ma, người biết pháp thuật lại càng kinh hãi. Không gian khổng lồ như vậy xuất hiện chỉ trong nháy mắt, phải là một người công lực bậc nào mới thực hiện nổi!

Lần này, bà chủ cũng phải dừng công việc trong tay quay ra nhìn cô bé. Tạo ra một khối không gian lớn đến vậy trong nháy mắt, đối với bất kỳ một pháp sư trưởng thành nào cũng hết sức khó khăn, đằng này cô bé chỉ mới tám, chín tuổi.

Khi khối không gian đã triển khai hết cỡ, cô bé áo trắng nhanh chóng dịch bàn tay khỏi miệng, niệm chú: “Lưu tinh xạ! Phá!”

Vô số khối sáng lớn như nắm tay, kéo thành vệt dài bay vù vù về phía thiếu niên. Không khí bị rạch ra từng đường trong suốt. Tốc độ cực nhanh, ánh sáng mạnh khiến mọi người cảm thấy mắt nhức nhối.

Tiếng gió rít mạnh qua tai, bụi đất trên sàn bị cuốn tung lên. Thế nhưng, thiếu niên kia giơ ngón tay lên trỏ về phía những vệt sáng đang lao tới như sao băng hô nhẹ: “Dừng!”

Lập tức, tất cả khối sáng vừa mới đây còn bay ào ào đã đứng im trong không khí, cả những vệt sáng kéo dài cũng đứng nguyên, tựa hồ bị đóng băng.

Ngón tay của thiếu niên trỏ xuống dưới, tất cả lưu tinh rơi xuống sàn tan nát.

Những vệt sáng quả thực đã bị đông kết thành vật thể.

Thiếu niên lại vẽ một chữ thập bằng ngón tay trong không khí, chỉ nghe tiếng rạn nứt, cả khối vuông trong suốt màu hồng đang bao trùm Trầm Nguyệt hiên phút chốc sụp đổ tan tành.

Cô bé áo trắng ngã ngồi trên đất, tay bịt chặt lấy miệng, từ trong kẽ tay trào ra những dòng máu tươi.

Cô bé áo hồng ôm lấy chị, nước mắt rơi lã chã, ngước nhìn ông già.

Hai nắm tay lão tiên sinh siết chặt, móng tay quặp sâu vào lòng bàn tay, rách cả lớp da.

Nhưng cuối cùng, ông già chỉ nói một câu: “Chúng ta đi”.

Tô Tuần Hải vung tay, chỉ thấy tất cả bàn ghế vừa nghiêng ngả vì trận đấu lúc nãy đã lập tức ngay hàng thẳng lối.

Tô Tuần Hải chậm rãi tiến đến bên cạnh Khổng Tước vẫn đang uống trà từ nãy, cúi đầu vái chào.

“Nghe nói trong Thiên Vũ lầu, tất cả các pháp sư đều là tuyệt thế giai nhân. Hơn nữa mỗi người đều mang tên một loài chim. Vì vậy, nếu không đoán sai, cô nương đây chắc là... người của Thiên Vũ lầu?”

Khổng Tước không đếm xỉa đến hắn, đứng dậy nói với bà chủ: “Tôi ăn xong rồi, xin ghi tiền vào sổ. Tôi về phòng đây. Chỗ này ồn áo chán chết đi được”.

Dứt lời liền bước đi, tựa hồ trước mặt không hề có Tô Tuần Hải.

Thiếu niên lúc nãy không nén nổi bực tức. Hắn ta đứng dậy. Không rõ làm thế nào, chiếc bàn từ phía đó bỗng xuất hiện ngáng trước mặt Khổng Tước.

“Đừng tưởng Cực Lạc cung chúng ta sợ Thiên Vũ lầu các ngươi. Tuần Hải sư huynh đang hỏi ngươi đó, nghe thấy không?”

Khổng Tước nhìn hắn ta một cái, bỗng nở nụ cười. Nụ cười đẹp đến khó tả, rực rỡ như khổng tước múa xoè.

Kế đó, nàng đi thẳng tới trước mặt thiếu niên, xuyên qua người hắn ta như một làn khói, bước thẳng về phía hậu viện.

Ánh trăng chiếu vào tà áo thướt tha lướt trùm trên mặt đất của nàng. Tà áo dưới ánh sáng lạnh của trăng tỏa ra ánh sáng lấp lánh đẹp đẽ.

Sau lưng nàng, gã thiếu niên mặt mũi đau đớn co rúm người, từ từ ngã xuống.

Khi thiếu niên kia sắp chạm đất, Tô Tuần Hải đưa tay đỡ lại, gọi hai người áo trắng khác đưa hắn lui ra.

Tuần Hải lại thi lễ về phía Khổng Tước: “Sư đệ đã thất lễ, mong cô nương bỏ quá cho. Hiện đã có chính đường của Ly Hỏa tiên sinh, chúng tôi vào ở đó. Nếu cô nương có điều gì không vừa lòng, hoặc chúng tôi còn chỗ nào đắc tội, xin cô nương cứ tìm Tô Tuần Hải tôi là được”.

Khổng Tước không hề đáp lại, tiếp tục bước đi. Nhưng ai cũng nghe rõ ràng nàng cười nhạt, khẽ nói một câu: “Muốn chết!”

Tô Tuần Hải trở lại trước quầy, nói với bà chủ: “Phiền bà, sắp xếp cho Tử Tinh viện. Chúng tôi vào ở đó”.

Chủ quán cười mà rằng: “Thật tiếc, Tử Tinh viện đang sửa lại, tạm thời đóng cửa”.

Tô Tuần Hải sững người, không ngờ bà chủ nói vậy. Hắn bật cười, hỏi tiếp: “Xin hỏi, phải đóng cửa tới hôm nào?”

“Mồng mười tháng Năm!” Tô Tuần Hải càng cười lớn, sắc mặt bỗng lạnh lùng: “Trước khi ta nổi giận, tốt nhất ngươi hãy dọn dẹp Tử Tinh viện cho cẩn thận. Nếu không đêm nay Trầm Nguyệt hiên sẽ cháy thành cho bụi”.

Chủ quán cũng tắt nụ cười. Khuôn mặt lạnh lùng như đã đóng băng. Chưa có ai nhìn thấy bà chủ suốt ngày niềm nở có thái độ thế này bao giờ. Bà ta nói: “Đừng quên ngươi chỉ là một Dịch Động thuật pháp sư. Nói đến đốt với lửa, người chẳng bằng con chó!”

Tối hôm đó, nếu có người vẫn ở trên phố, chắc chắn lại bị giật mình lần nữa. Không lâu sau khi khối không gian màu hồng sụp xuống, một khối không gian màu xanh thẫm lớn hơn nhiều lần lại xuất hiện, bao trùm cả Trầm Nguyệt hiên.

Không ai biết chủ nhân của Cự trận phong bế kia, vì kẻ ra tay quá nhanh. Chỉ có chủ quán nhìn rõ khối không gian đã triển khai từ dưới chân Tô Tuần Hải như thế nào.

Nhưng bà ta không chút hốt hoảng, ngược lại rất điềm tĩnh. Bà ta buông bàn tính trong tay xuống, khẽ vén mấy sợi tóc buông xuống ra sau vành tai.

Chủ quán thấy Tô Tuần Hải trước mặt hóa thành bốn người.

Biết ngay đó là Dịch Động thuật, Tuần Hải đang dịch chuyển cực nhanh giữa bốn vị trí. Tốc độ dịch chuyển quá nhanh nên chỉ nhìn được gã dừng lại trong tích tắc ở bốn vị trí. Cảm giác như có đến bốn Tô Tuần Hải.

Mặc dù chủ quán không chuyên luyên Dịch Động thuật của Cực Lạc cung, nhưng bà ta tỏ ra đã hiểu rõ như lòng bàn tay.

Bà giơ tay áp lên miệng. Kế đó, dịu dàng chậm rãi như đang tỏ tình, khe khẽ nói: “Phong tuần! Phá!”

Hằng hà sa số ong vàng to lớn bỗng hiện rợp trời, thi nhau bâu tới bốn bóng hình giống hệt nhau của Tô Tuần Hải. Mặc dù tốc độ dịch chuyển của Tuần Hải cực nhanh, ong vàng không phân biệt được đâu là Tuần Hải thật. Nhưng chúng bám chặt ở cả bốn “Tô Tuần Hải”, vì thế Tuần Hải đành phải dịch chuyển liên tục, không dám dừng lại.

Bà chủ lại đổi thế tay, niệm: “Phong nhuệ thích! Phá!”

Không gian dày đặc toàn ong vàng.

Các nam tử áo trắng khác đã bị ong vàng vây chặt vòng trong vòng ngoài. Cho dù bọn họ muốn chặn đứng bầy ong như chặn lưu tinh quang, nhưng đọc bao nhiêu lần: “Dừng”, hay bao nhiêu lần “Hàn băng đông kết” để đông cứng bao nhiêu con ong, thì không khí vẫn không ngừng hiện ra vô số ong vàng truy đuổi.

Những con ong bị đông cứng rơi liên tục xuống mặt đất, chất chồng ngày một cao như hoa tuyết. Từng lớp, từng lớp một dâng lên, khắp mặt đất toàn xác ong.

Khắp gian đại sảnh là những bóng áo trắng phóng như bay, miễn cưỡng trốn tránh bầy ong công kích. Dịch Động thuật khiến hình bóng họ tựa mây bay gió thổi, vô số những luồng sáng trắng chập chờn trái phải lên xuống.

Tô Tuần Hải giận run người, nhưng vẫn không dám dừng nửa bước.

Bà chủ kéo ghế ngồi xuống, cười dịu dàng nhìn khung cảnh trước mắt. Lát sau, bà ta lại đổi thế tay: “Thiên ỷ thực nhật! Phá!”

Toàn bộ xác ong rơi trên đất bỗng nhiên biến ra muôn vàn kiến đen to lớn, bò lên khắp bốn bức tường, lên cả bàn ghế, khắp những chỗ đặt chân của đám áo trắng.

Người của Cực Lạc cung không thể không treo mình lơ lửng trên không trung, nhưng cũng không tìm được chỗ đặt chân xuống.

Một tiếng kêu thảm thiết vang lên, lần lượt một, hai, ba người bật ra tiếng kêu rên.

Bởi trên áo quần của họ cũng không ngừng hiện ra vô số kiến đen, đốt tới tấp lên da thịt.

Toàn bộ nam tử áo trắng đều ngã xuống bất động. Trên mình vần vụ những lớp kiến độc. Chúng ăn rỗng cả hốc mắt, hốc mũi, lỗ tai, liên tục chui ra chui vào.

Chỉ còn Tô Tuần Hải vẫn rên được mấy tiếng.

Bà chủ dịu dàng ngồi xuống bên cạnh hắn.

Tuần Hải thở gấp, giơ tay túm lấy y phục bà ta. “Ngươi, ngươi là ai? Ta biết chủ quán, ngươi không phải... bà ta không thể có pháp thuật cao đến thế. Tại sao ngươi đối đầu với người của Cực Lạc cung? Ngươi... là... ai?”

Chủ quán cười, nói: “Ta cũng quen biết bà chủ, bà ta đúng là không biết pháp thuật. Nhưng ta gặp bà ấy là chuyện đã mười năm trước. Mười năm chưa gặp lại, vẫn rất nhớ bà ta đấy”.

“Vậy mười năm nay... ngươi đã điều khiển Trầm Nguyệt hiên này?” Tô Tuần Hải dường như nhớ ra điều gì, lắc đầu kinh hãi: “Nhưng... không đúng. Nếu ngươi không phải bà ta... ngươi làm sao có được dung mạo bà ta?”

Chủ quán cười hết sức dịu dàng, dịu dàng như gió xuân mơn man, nói: “Ngươi đã hỏi tới mấu chốt vấn đề rồi đó. Vì đó là sở trường vẽ lông mày”.

“Vẽ lông mày, Họa Mi? Ngươi mới là người của Thiên Vũ lầu”. Mặt Tô Tuần Hải rúm ró cả lại, không còn nhận ra dung mạo tuấn tú ban đầu, chỉ còn sự khủng khiếp tột độ. “Trầm Nguyệt hiên do Thiên Vũ lầu mở chăng?”

“Ngươi cũng thông minh đấy, Trầm Nguyệt hiên là lầu thứ bảy của Thiên Vũ lầu”. Chủ quán vẽ vào không khí một hình chữ thập. “Đáng tiếc ngươi không còn tiếp tục thông minh được nữa”.

Bà ta đứng dậy, lạnh lùng nhìn Tô Tuần Hải mắt vẫn trơ trơ.

Hai tay bà ta đặt chéo trước ngực, bỗng vươn ra hai bên như đôi cánh diều hâu.

Những âm thanh ù ù vang lên như tiếng vỗ cánh.

Vô số chim chóc phía hậu viện vội vã bay vào.

Cả lũ lượn vòng vun vút trong đại sảnh. Cánh ken dày che hết ánh sáng.

Thoắt một cái, tất cả ào ào bay vụt ra ngoài. Không gian trở nên im ắng. Im ắng đến mức nghe thấy tiếng vo vo trong tai mình.

Bảy xác chết trên mặt đất không thấy đâu nữa.

Lũ chim đã mang họ đi.

Thậm chí mang hết cả bụi bặm.

Một nghìn cánh chim bay qua bầu trời đỏ máu của kinh thành, đôi cánh cắt từng lớp mây đen dày nặng.

Bà chủ quán nhìn suốt con phố dài không một người, đôi mắt ẩn hiện sáng lấp lánh.

Đã tới mồng Sáu tháng Năm.

Còn ba ngày nữa.

Bà ta giơ tay lên trời. Một con chim câu màu đen từ trong bóng đêm dày đặc xuất hiện đậu lên bàn tay bà chủ. Bà ta đưa con chim lại gần mặt, thì thầm mấy câu với nó. Kế đến, cánh tay vung lên, chim câu biến mất rất nhanh vào bóng đêm thăm thẳm.

* * * * *

Mấy ngày liền mưa xối xả.

Nước mưa dày đặc khiến ánh mặt trời trở nên mơ hồ, tầm nhìn mờ mịt. Bóng tối nặng nề lộ ra dưới lớp cánh của đàn chim lớn.

Vô vàn giọt nước mưa vội vã lộp độp đập khắp mặt đất. Những loài côn trùng và thú nhỏ cuống quýt chui sâu ẩn nấp, hang hốc là những chốn an toàn, ấm áp và tối tăm dưới tiếng mưa ầm ầm. Nước mưa chảy xối xả thành dòng, dọc theo mặt đất từ chỗ cao xuống chỗ thấp.

Những giọt nước bắn lên cao hàng thước, lơ lửng trong không khí, khiến khắp mặt đất của kinh thành như bị bao phủ một lớp hơi mờ mịt.

Không gian vàng vọt bao trùm khắp nơi. Thậm chí mặt đất dưới chân cũng nhìn không rõ nữa. Trên bề mặt trôi nổi một lớp như sương mù.

Chỉ thấy hình bóng của một người đang ngồi trên ngai, đặt trên bệ cao. Một quầng sáng dịu ngưng đọng trên bệ, tựa hổ phách.

Tất cả người của Thiên Vũ lầu đều biết đó là thủ lĩnh Phong Chi Bạch Dực của họ.

Ai nấy đều yên lặng, vì họ biết nếu bà ta không hỏi, không ai được phép nói nhiều. Ngược lại, hễ bà ta hỏi, bất luận thế nào cũng phải có câu trả lời thỏa đáng, nếu không tất phải chết.

Thiên Vũ lầu sở dĩ dám khinh mạn quần hùng, xưng danh bao năm trong chốn kinh thành chính bởi có vị thủ lĩnh này. Không ai biết bà ta là ai. Không ai biết đệ nhất lầu của Thiên Vũ lầu này đặt ở nơi nào.

Tất cả mọi người, sau khi nhận được chim câu đen truyền lệnh, đều chỉ trong tích tắc, hoặc bị không gian dịch chuyển đưa tới căn phòng này.

Đúng hơn là tới không gian này. Bởi họ thậm chí không nhận ra đó có phải là một căn phòng hay không.

Còn bây giờ, tất cả đều đang im lặng, đợi chờ mệnh lệnh của Bạch Dực. Một cánh chim câu bay ra từ màn sương dày, vỗ cánh tới trước Bạch Dực.

Bạch Dực cho chim câu đậu trên vai, nghiêng tai lắng nghe chăm chú. Sau đó, bà ta mỉm cười một tiếng, vung tay lên. Chim câu biến mất vào trong sương khói mờ mịt.

“Nhiệm vụ của Họa Mi đã hoàn thành rất tốt, rất thuận lợi”. Âm thanh của bà ta vô cùng quyến rũ. “Tiếp tục hành động theo đúng kế hoạch. Chỉ có điều...”.

Bà ta bỗng ngừng lại, rồi cất tiếng gọi: “Anh Vũ!”

“Dạ!” Một tiếng phụ nữ bình thường, không lộ đặc điểm gì từ phía dưới vọng lên.

“Hôm nay ngươi trở về sẽ nhận được mệnh lệnh của ta, bắt đầu từ sáng mai, người chuẩn bị để thực hiện lệnh đó. Đợi tín hiệu của ta rồi bắt đầu hành động”.

“Tuân lệnh!”

Trong Thiên Vũ lầu, vĩnh viễn sẽ là như vậy. Mỗi người chỉ biết có nhiệm vụ của mình là gì. Nhiệm vụ của người khác họ đều không rõ. Chỉ có một mình Phong Chi Bạch Dực mới năm được toàn bộ kế hoạch.

Vì thế, bất luận nhận được nhiệm vụ kỳ quái thế nào, người Thiên Vũ lầu cũng đều tận lực hoàn thành, bởi những nhiệm vụ tưởng chừng chẳng mấy quan trong này có khi lại là điểm quyết định thành công của kế hoạch.

Cho nên, khi Anh Vũ trở về nơi của mình, lắng nghe mệnh lệnh của chim câu đen bay từ hậu viện tới xong, cô ta không hề cảm thấy nhiệm vụ của mình kỳ quặchay hoang đường. Cô ta chỉ biết rằng, các nhiệm vụ Bạch Dực yêu cầu nhất định luôn có cái lý của bà ta.

Mồng Sáu Tháng Năm. Chỉ cách ngày Quang Minh tướng quân đến Trầm Nguyệt hiên ba ngày.

Ba ngày, có thể làm rất nhiều việc.

Bà chủ quán đứng trước cổng Trầm Nguyệt hiên, hướng lên bầu trời đêm chờ đợi. Một lúc sau, màn đêm bỗng thủng ra một lỗ sáng, một cánh chim câu đen từ trên trời lao xuống như tên bắn.

Họa Mi còn chưa kịp định thần, cánh chim đã biến mất, chỉ để lại một tiếng kêu sắc nhọn tản mạn trong đêm đen.

Trên tay xuất hiện một tấm bùa chú, bên trên viết rõ: “Trước mồng Chín tháng Năm, cùng với Khổng Tước, giết chết tất cả những kẻ đến tranh vị trí thủ lĩnh cấm vệ quân ở Trầm Nguyệt hiên”.

/8

THICHDOCTRUYEN

Đa số thông tin và hình ảnh trên website đều được sưu tầm từ các nguồn trên Internet. Website hay upload-er không sở hữu hay chịu trách nhiệm bất kỳ thông tin nào trên đây. Nếu làm ảnh hưởng đến cá nhân hay tổ chức nào, khi được yêu cầu, chúng tôi sẽ xem xét và gỡ bỏ ngay lập tức.

LIÊN HỆ ADMIN

[email protected]

DMCA.com Protection Status