Đại quân rời trấn, rần rộ kéo về phía tây. Đi được gần 50 dặm, tính ra chỉ còn cách trại cường đạo vài dặm, Giang Phong ra lệnh dừng quân. Sau đó phái 20 “dũng sĩ” giả trang làm khách thương, đẩy 5 cỗ xe ngựa chở cỏ khô đi dụ địch. Chỉ cần thấy địch nhân xuất hiện là bọn họ phải giả vờ sợ hãi, kéo xe chạy về phía này, dụ địch đuổi theo. Bọn họ tự biết phải làm thế nào cho tốt nhất nên Giang Phong không mấy lo lắng. Giang Phong còn phát cho mỗi người bọn họ 5 bình trung hồng để dùng khi chiến đấu, trung hồng 1 ngân tệ mỗi bình, trong hoàn cảnh hiện giờ, không phải ai cũng có khả năng sử dụng, do đó cả bọn đều mừng rỡ, hăng hái lên đường dụ địch.
Sau khi bọn họ đi rồi, Giang Phong cho binh sĩ đem hết cỏ khô trên những cỗ xe ngựa còn lại rải đầy khắp quãng đường hơn trăm mét, rồi cho 2 viên thống lĩnh mỗi người chỉ huy 10 đội sĩ binh chia nhau ẩn vào mé rừng hai bên đường, chờ hiệu lệnh sẽ xông ra sát địch. Số còn lại theo Giang Phong ẩn vào một chỗ gần đó chờ đợi.
Chưa đầy nửa giờ, đã nghe thấy từ xa có tiếng hò hét quát tháo ầm ĩ. Lát sau, bọn “dũng sĩ” hối hả kéo xe chạy về phía này, phía sau có hàng trăm cường đạo hăng hái đuổi theo, khua đao múa gậy, quát tháo không ngừng. Bọn cường đạo đông gần hai trăm, khí thế hung hãn, trang bị kiếm đao côn gậy linh tinh đủ loại.
Chờ bọn “dũng sĩ” chạy đến giữa chỗ mai phục, Giang Phong quát lớn :
- Bỏ xe. Chạy thẳng.
Cả bọn ngớ người, nhưng lập tức hiểu ra ngay, bỏ mặc mấy cỗ xe đấy, chạy thẳng tới trước.
Bọn cường đạo đuổi tới, vây chặt mấy cỗ xe, định thu thập chiến lợi phẩm, kéo về trại. Thấy thời cơ đến, Giang Phong bắt quyết niệm chú, phóng ra một loạt hỏa tiễn. Cỏ khô gặp lửa lập tức cháy bùng lên. Cả khu vực nháy mắt hóa thành biển lửa. Quá bất ngờ, bọn cường đạo không kịp phản ứng, bị khói hun, bị lửa đốt, kêu la ầm ĩ, cố tìm đường chạy thoát thân. Thấy bọn cường đạo loạn thành một đoàn, sĩ khí mất hết, Giang Phong lại quát :
- Sát.
Hai viên thống lĩnh nghe hiệu lệnh, lập tức suất lãnh sĩ binh xông ra sát địch. Hai mươi gã “dũng sĩ” lúc này cũng đã quay lại gia nhập trận chiến. Mọi người án ngữ các đường thoát, hễ thấy gã cường đạo nào chạy ra là xúm lại vây công. Bọn cường đạo mất hết sĩ khí, vừa bị thương vì lửa đốt, vừa choáng váng vì khói hun, lại bị quan quân vây công nên đều không có lòng chiến đấu, cố sức cướp đường mà chạy. Quan quân sĩ khí tăng cao, thừa cơ truy kích, đuổi giết đến cùng. Khi bọn cường đạo chạy về đến trại thì mười phần không còn lại một.
Giang Phong để lại một đội sĩ binh thu dọn chiến trường, thu thập chiến lợi phẩm. Đại quân nhân lúc bọn cường đạo đang hoảng loạn, chưa kịp bố trí phòng ngự, lập tức tấn công thẳng vào trong trại. Bọn “dũng sĩ” tự lượng sức mình, cứ bốn người hợp thành một tổ cùng vây đánh một gã cường đạo. Sát cường đạo kinh nghiệm rất cao nên ai nấy đều chiến đấu rất hăng hái.
Sau mấy giờ kịch chiến, với lợi thế nhân số đông hơn gấp mấy lần, trang bị tinh lương, sĩ khí cao ngất, quan quân chiếm được trại, bọn cường đạo toàn bộ bị giết, chỉ còn sót lại phụ nữ, trẻ con và những người già yếu không có sức chiến đấu, bị quan quân bắt giữ.
Trong lúc chờ thu dọn chiến trường, thanh điểm chiến quả, Giang Phong bước vào tòa sảnh đường ở giữa trấn. Bên trong hậu viện phía sau sảnh đường có một tấm bia đá lớn, trên khắc 3 chữ : Thanh Thủy Hương. Giang Phong suy nghĩ giây lát, rồi bắt quyết niệm chú, phóng hỏa tiễn vào tấm bia. Được một lúc, chợt nghe hệ thống thanh âm :
- Đinh. Chúc mừng Thiếu Quân “Khống hỏa thuật” thăng cấp.
Giang Phong kinh hỉ, vội dừng tay, mở “Cảnh Hành Thư” ra xem. Ở phần “Khống hỏa pháp quyết” đã có thêm phần pháp quyết mới với “Khống hỏa chú : Liệt hỏa – giáng”. Phía dưới vẫn còn khoảng trống, xem ra vẫn còn khả năng thăng cấp.
Thử nghiệm ngay. Bắt quyết, niệm : “Liệt hỏa – giáng”. Một con hỏa long to bằng cánh tay bằng không xuất hiện, rồi lao vút tới tấm bia. Tiêu hao 10 pháp lực, gấp đôi, nhưng pháp thuật công kích tăng gia 20%. Cũng được.
Lại công kích tiếp. Hồi lâu, tấm bia rạn nứt, rồi vỡ tan ra. Giang Phong chợt nghe hệ thống thanh âm :
- Đinh. Chúc mừng Thiếu Quân công chiếm tam cấp thôn làng “Thanh Thủy Hương”. Xin hỏi chiếm lĩnh hay phá hủy.
- Chiếm lĩnh.
Công chiếm được một thôn làng không dễ, lẽ nào phá hủy. Giang Phong chọn ngay “Chiếm lĩnh”.
- Xin đặt tên mới.
- An Phú.
- Đinh. Vì uy vọng của Thiếu Quân đủ để cai quản tam cấp thôn làng, “An Phú Hương” không bị giáng cấp. Do là người chơi đầu tiên sở hữu thôn làng, tưởng lệ thanh vọng 100, đặc thù kiến trúc 1.
Tuyệt vời a. Trở thành chánh tổng rồi a. Cuối cùng cũng có chức vị rồi, có lãnh địa riêng để cai quản rồi, chứ không như trước đây chỉ có phẩm hàm suông. Xem bảng thuộc tính, chức nghiệp của Giang Phong tự động chuyển thành văn quan. Trong “Vương Mệnh”, chức nghiệp gồm có văn quan, võ tướng và hiệp khách. Pháp sư, vu sư, chiến sĩ và các đặc thù chức nghiệp khác, nếu có phẩm hàm thì trở thành văn quan, võ tướng, còn không thì sẽ là hiệp khách, chưa có chức nghiệp gọi là bình dân. Giang Phong có trí lực 26 trong khi lực lượng chỉ có 2, nên hệ thống tự động phán định là văn quan. Kiểm tra hành trang, vật phẩm tưởng lệ :
“Bản vẽ Thư viện : đặc thù vật phẩm, đặt tại vị trí định sẵn sẽ chuyển thành Thư viện”.
Có lẽ thấy Giang Phong trí lực cao mà lực lượng quá thấp, điển hình mọt sách nên đã tưởng lệ Thư viện.
Không có thời gian xem xét kỹ hơn, Giang Phong ra ngoài nghe báo cáo chiến quả. Sau khi kiểm điểm, quan quân trận vong 14 người, còn lại ít nhiều đều thụ thương. Riêng bọn “dũng sĩ” nhờ có thể dùng hồng dược bổ sung sinh mạng nên đều bình an vô sự, không ai chiến tử. Đa số bọn họ đều thăng ba, bốn cấp, thậm chí có người thăng liền một mạch sáu cấp, lên đến cấp 18. Chỉ vài giờ chiến đấu mà thăng cấp xem ra còn nhanh hơn ròng rã sát quái mấy ngày liền. Bọn cường đạo đẳng cấp chủ yếu trong khoảng 20 đến 30, sinh mạng lên đến hàng vạn. Chỉ cần sát tử được một tên là có thể thăng một cấp. Do đó cả bọn ai nấy đều hớn hở, chờ đợi luận công ban thưởng. Giang Phong cho bọn họ về trấn trước, lát nữa khi quan quân hồi trấn sẽ cho gọi đến nhận thưởng.
Lúc này, trên diễn đàn đang nổi phong ba, toàn “Vương Mệnh” chấn động. Hầu như mọi người đều đã biết việc quan quân ở Lục Hoa Trấn xuất chinh, có tuyển 20 người chơi theo quân, và đang trông chờ kết quả. Một người nào đó vô tình tra duyệt các bài hành bảng, đột nhiên thấy “Đẳng cấp bài hành bảng” biến động. Trừ vị trí đầu tiên, chín vị trí còn lại đều do những người được tuyển theo quân chiếm giữ hết.
Đẳng cấp bài hành bảng :
Thứ nhất : Thiếu Quân, văn quan, đẳng cấp 27.
Thứ hai : Tuấn Lang, bình dân, đẳng cấp 18.
Thứ ba : Phiêu Khách, bình dân, đẳng cấp 17.
Thứ tư : Chí Hiếu, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ năm : Vô Song, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ sáu : Thanh Trần, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ bảy : Tùng Dương, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ tám : Vũ Khắc Điệp, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ chín : Thanh Lý, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ mười : Thanh Vương, bình dân, đẳng cấp 15.
Tin tức lan nhanh, mọi người lần lượt tra duyệt “Đẳng cấp bài hành bảng”. Đối với Thiếu Quân, mọi người vô hình chung đều tự động bỏ qua, dù đẳng cấp quá cao và chức nghiệp văn quan có khiến mọi người ngạc nhiên, nhưng sau quá nhiều lần ngạc nhiên, mọi người đã xem là đương nhiên và không để ý đến nữa. Riêng chín người còn lại, chỉ mới vài giờ tham gia “đại hình nhiệm vụ” mà đã có được thành tích đột xuất như vậy, mọi người đã hoàn toàn tin tưởng vào thông cáo của “Kinh Vương Tập đoàn” : liên tục sát quái không phải là cách thức thăng cấp tốt nhất. Chỉ mấy giờ làm nhiệm vụ mà bằng người khác luyện cấp mấy ngày. Hâm mộ, đố kỵ. Mọi người đều hướng về Lục Hoa Trấn, khiến Lục Hoa Trấn bỗng nhiên trở thành trung tâm của “Vương Mệnh”.
Cũng từ lúc này đã xuất hiện một hiện tượng khá lý thú, có không ít người chơi khi không có việc cần thiết phải đi xa đều tụ tập xung quanh Nha Phủ, hy vọng có thể nhận được đặc thù nhiệm vụ, thậm chí khi sát quái luyện cấp cũng chỉ chọn những khu vực gần trấn, dù ở nơi đó sát quái nhận được kinh nghiệm không cao
Ghi chú:
Thái Cực Đồ là 1 vòng tròn, bên trong là 2 nửa đối xứng ôm lấy nhau, được gọi là 2 con cá (ngư). Ở đầu mỗi con cá có 1 vòng tròn màu sắc đối lập (ngư nhãn). Cả người Hoa và người Việt đều nhận rằng Thái Cực Đồ là do dân tộc mình sáng tạo ra. Cả 2 dân tộc đều công nhận Thái Cực, Ngũ Hành, Bát Quái xuất xứ từ Phục Hy thị. Và cả 2 dân tộc đều công nhận Phục Hy là Tổ Tiên của mình.
Người Hoa nhận mình là con cháu Viêm Hoàng (Viêm Đế - Thần Nông, và Hoàng Đế), nên nhận luôn Phục Hy (triều trước Thần Nông) là tổ.
Người Việt chỉ nhận mình là con cháu Thần Nông (ko nhận Hoàng Đế). Do đó cũng nhận Phục Hy là tổ.
Nói về hình dạng Thái Cực Đồ, lấy biểu tượng là hình con cá ôm lấy nhau, đại diện cho nền văn minh nông nghiệp. Các nhà nghiên cứu người Việt vẫn lấy đó để nói rằng Thái Cực xuất từ người Việt (Thời thái cổ, người Việt ở phía Nam, theo văn minh nông nghiệp, người Hoa ở phía Bắc, chủ yếu là săn bắn).
Vấn đề này vẫn đang còn tranh cãi nên tui sẽ ko bàn vào.
Còn Ngũ Hành, gồm Kim, Mộc, Thủy. Hỏa, Thổ, tương sinh tương khắc. Ở đây giữa người Hoa và người Việt có khác biệt rất rõ.
Hiện tại trong người Việt ta có 2 quan niệm : dân gian và Dịch học.
Quan niệm dân gian : tui đã thử hỏi những người xung quanh, tất cả đều cho rằng màu vàng tượng trưng cho Kim, màu trắng tượng trưng cho Thủy, và màu đen tượng trưng cho Thổ. Quan niệm này được một số nhà nghiên cứu nhận định được lưu lại từ nền văn hóa Việt cổ, bởi thời Thái Cổ (Kinh Vương, Hùng Vương), dân Việt sống trong thời đại đồ đồng, lúc đó vàng đã được dùng làm trang sức, còn sắt chưa xuất hiện, nên Kim - vàng. Còn thủy - trắng, bởi nước phải màu trắng (ko bàn đến nước những con kênh như Nhiêu Lộc - Thị Nghè), đất - đen (đất vùng đồng bằng làm nông nghiệp).
Dịch học được người Trung Quốc biên soạn sau này, lúc này đồ sắt đã chiếm chủ đạo, vả lại người Hoa phát nguyên từ cao nguyên Hoàng Thổ, và cũng chỉ người Hoa mới có khái niệm "bạch sơn hắc thủy". Do đó Dịch học lấy Kim - trắng, Thủy - đen, Thổ - vàng.
Trong "Vương Mệnh" tác cho Kim - vàng, Mộc - xanh, Thủy - trắng, Hỏa - đỏ, Thổ - đen. Mọi người đừng lầm nó với Ngũ Hành trong Dịch học
Sau khi bọn họ đi rồi, Giang Phong cho binh sĩ đem hết cỏ khô trên những cỗ xe ngựa còn lại rải đầy khắp quãng đường hơn trăm mét, rồi cho 2 viên thống lĩnh mỗi người chỉ huy 10 đội sĩ binh chia nhau ẩn vào mé rừng hai bên đường, chờ hiệu lệnh sẽ xông ra sát địch. Số còn lại theo Giang Phong ẩn vào một chỗ gần đó chờ đợi.
Chưa đầy nửa giờ, đã nghe thấy từ xa có tiếng hò hét quát tháo ầm ĩ. Lát sau, bọn “dũng sĩ” hối hả kéo xe chạy về phía này, phía sau có hàng trăm cường đạo hăng hái đuổi theo, khua đao múa gậy, quát tháo không ngừng. Bọn cường đạo đông gần hai trăm, khí thế hung hãn, trang bị kiếm đao côn gậy linh tinh đủ loại.
Chờ bọn “dũng sĩ” chạy đến giữa chỗ mai phục, Giang Phong quát lớn :
- Bỏ xe. Chạy thẳng.
Cả bọn ngớ người, nhưng lập tức hiểu ra ngay, bỏ mặc mấy cỗ xe đấy, chạy thẳng tới trước.
Bọn cường đạo đuổi tới, vây chặt mấy cỗ xe, định thu thập chiến lợi phẩm, kéo về trại. Thấy thời cơ đến, Giang Phong bắt quyết niệm chú, phóng ra một loạt hỏa tiễn. Cỏ khô gặp lửa lập tức cháy bùng lên. Cả khu vực nháy mắt hóa thành biển lửa. Quá bất ngờ, bọn cường đạo không kịp phản ứng, bị khói hun, bị lửa đốt, kêu la ầm ĩ, cố tìm đường chạy thoát thân. Thấy bọn cường đạo loạn thành một đoàn, sĩ khí mất hết, Giang Phong lại quát :
- Sát.
Hai viên thống lĩnh nghe hiệu lệnh, lập tức suất lãnh sĩ binh xông ra sát địch. Hai mươi gã “dũng sĩ” lúc này cũng đã quay lại gia nhập trận chiến. Mọi người án ngữ các đường thoát, hễ thấy gã cường đạo nào chạy ra là xúm lại vây công. Bọn cường đạo mất hết sĩ khí, vừa bị thương vì lửa đốt, vừa choáng váng vì khói hun, lại bị quan quân vây công nên đều không có lòng chiến đấu, cố sức cướp đường mà chạy. Quan quân sĩ khí tăng cao, thừa cơ truy kích, đuổi giết đến cùng. Khi bọn cường đạo chạy về đến trại thì mười phần không còn lại một.
Giang Phong để lại một đội sĩ binh thu dọn chiến trường, thu thập chiến lợi phẩm. Đại quân nhân lúc bọn cường đạo đang hoảng loạn, chưa kịp bố trí phòng ngự, lập tức tấn công thẳng vào trong trại. Bọn “dũng sĩ” tự lượng sức mình, cứ bốn người hợp thành một tổ cùng vây đánh một gã cường đạo. Sát cường đạo kinh nghiệm rất cao nên ai nấy đều chiến đấu rất hăng hái.
Sau mấy giờ kịch chiến, với lợi thế nhân số đông hơn gấp mấy lần, trang bị tinh lương, sĩ khí cao ngất, quan quân chiếm được trại, bọn cường đạo toàn bộ bị giết, chỉ còn sót lại phụ nữ, trẻ con và những người già yếu không có sức chiến đấu, bị quan quân bắt giữ.
Trong lúc chờ thu dọn chiến trường, thanh điểm chiến quả, Giang Phong bước vào tòa sảnh đường ở giữa trấn. Bên trong hậu viện phía sau sảnh đường có một tấm bia đá lớn, trên khắc 3 chữ : Thanh Thủy Hương. Giang Phong suy nghĩ giây lát, rồi bắt quyết niệm chú, phóng hỏa tiễn vào tấm bia. Được một lúc, chợt nghe hệ thống thanh âm :
- Đinh. Chúc mừng Thiếu Quân “Khống hỏa thuật” thăng cấp.
Giang Phong kinh hỉ, vội dừng tay, mở “Cảnh Hành Thư” ra xem. Ở phần “Khống hỏa pháp quyết” đã có thêm phần pháp quyết mới với “Khống hỏa chú : Liệt hỏa – giáng”. Phía dưới vẫn còn khoảng trống, xem ra vẫn còn khả năng thăng cấp.
Thử nghiệm ngay. Bắt quyết, niệm : “Liệt hỏa – giáng”. Một con hỏa long to bằng cánh tay bằng không xuất hiện, rồi lao vút tới tấm bia. Tiêu hao 10 pháp lực, gấp đôi, nhưng pháp thuật công kích tăng gia 20%. Cũng được.
Lại công kích tiếp. Hồi lâu, tấm bia rạn nứt, rồi vỡ tan ra. Giang Phong chợt nghe hệ thống thanh âm :
- Đinh. Chúc mừng Thiếu Quân công chiếm tam cấp thôn làng “Thanh Thủy Hương”. Xin hỏi chiếm lĩnh hay phá hủy.
- Chiếm lĩnh.
Công chiếm được một thôn làng không dễ, lẽ nào phá hủy. Giang Phong chọn ngay “Chiếm lĩnh”.
- Xin đặt tên mới.
- An Phú.
- Đinh. Vì uy vọng của Thiếu Quân đủ để cai quản tam cấp thôn làng, “An Phú Hương” không bị giáng cấp. Do là người chơi đầu tiên sở hữu thôn làng, tưởng lệ thanh vọng 100, đặc thù kiến trúc 1.
Tuyệt vời a. Trở thành chánh tổng rồi a. Cuối cùng cũng có chức vị rồi, có lãnh địa riêng để cai quản rồi, chứ không như trước đây chỉ có phẩm hàm suông. Xem bảng thuộc tính, chức nghiệp của Giang Phong tự động chuyển thành văn quan. Trong “Vương Mệnh”, chức nghiệp gồm có văn quan, võ tướng và hiệp khách. Pháp sư, vu sư, chiến sĩ và các đặc thù chức nghiệp khác, nếu có phẩm hàm thì trở thành văn quan, võ tướng, còn không thì sẽ là hiệp khách, chưa có chức nghiệp gọi là bình dân. Giang Phong có trí lực 26 trong khi lực lượng chỉ có 2, nên hệ thống tự động phán định là văn quan. Kiểm tra hành trang, vật phẩm tưởng lệ :
“Bản vẽ Thư viện : đặc thù vật phẩm, đặt tại vị trí định sẵn sẽ chuyển thành Thư viện”.
Có lẽ thấy Giang Phong trí lực cao mà lực lượng quá thấp, điển hình mọt sách nên đã tưởng lệ Thư viện.
Không có thời gian xem xét kỹ hơn, Giang Phong ra ngoài nghe báo cáo chiến quả. Sau khi kiểm điểm, quan quân trận vong 14 người, còn lại ít nhiều đều thụ thương. Riêng bọn “dũng sĩ” nhờ có thể dùng hồng dược bổ sung sinh mạng nên đều bình an vô sự, không ai chiến tử. Đa số bọn họ đều thăng ba, bốn cấp, thậm chí có người thăng liền một mạch sáu cấp, lên đến cấp 18. Chỉ vài giờ chiến đấu mà thăng cấp xem ra còn nhanh hơn ròng rã sát quái mấy ngày liền. Bọn cường đạo đẳng cấp chủ yếu trong khoảng 20 đến 30, sinh mạng lên đến hàng vạn. Chỉ cần sát tử được một tên là có thể thăng một cấp. Do đó cả bọn ai nấy đều hớn hở, chờ đợi luận công ban thưởng. Giang Phong cho bọn họ về trấn trước, lát nữa khi quan quân hồi trấn sẽ cho gọi đến nhận thưởng.
Lúc này, trên diễn đàn đang nổi phong ba, toàn “Vương Mệnh” chấn động. Hầu như mọi người đều đã biết việc quan quân ở Lục Hoa Trấn xuất chinh, có tuyển 20 người chơi theo quân, và đang trông chờ kết quả. Một người nào đó vô tình tra duyệt các bài hành bảng, đột nhiên thấy “Đẳng cấp bài hành bảng” biến động. Trừ vị trí đầu tiên, chín vị trí còn lại đều do những người được tuyển theo quân chiếm giữ hết.
Đẳng cấp bài hành bảng :
Thứ nhất : Thiếu Quân, văn quan, đẳng cấp 27.
Thứ hai : Tuấn Lang, bình dân, đẳng cấp 18.
Thứ ba : Phiêu Khách, bình dân, đẳng cấp 17.
Thứ tư : Chí Hiếu, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ năm : Vô Song, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ sáu : Thanh Trần, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ bảy : Tùng Dương, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ tám : Vũ Khắc Điệp, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ chín : Thanh Lý, bình dân, đẳng cấp 16.
Thứ mười : Thanh Vương, bình dân, đẳng cấp 15.
Tin tức lan nhanh, mọi người lần lượt tra duyệt “Đẳng cấp bài hành bảng”. Đối với Thiếu Quân, mọi người vô hình chung đều tự động bỏ qua, dù đẳng cấp quá cao và chức nghiệp văn quan có khiến mọi người ngạc nhiên, nhưng sau quá nhiều lần ngạc nhiên, mọi người đã xem là đương nhiên và không để ý đến nữa. Riêng chín người còn lại, chỉ mới vài giờ tham gia “đại hình nhiệm vụ” mà đã có được thành tích đột xuất như vậy, mọi người đã hoàn toàn tin tưởng vào thông cáo của “Kinh Vương Tập đoàn” : liên tục sát quái không phải là cách thức thăng cấp tốt nhất. Chỉ mấy giờ làm nhiệm vụ mà bằng người khác luyện cấp mấy ngày. Hâm mộ, đố kỵ. Mọi người đều hướng về Lục Hoa Trấn, khiến Lục Hoa Trấn bỗng nhiên trở thành trung tâm của “Vương Mệnh”.
Cũng từ lúc này đã xuất hiện một hiện tượng khá lý thú, có không ít người chơi khi không có việc cần thiết phải đi xa đều tụ tập xung quanh Nha Phủ, hy vọng có thể nhận được đặc thù nhiệm vụ, thậm chí khi sát quái luyện cấp cũng chỉ chọn những khu vực gần trấn, dù ở nơi đó sát quái nhận được kinh nghiệm không cao
Ghi chú:
Thái Cực Đồ là 1 vòng tròn, bên trong là 2 nửa đối xứng ôm lấy nhau, được gọi là 2 con cá (ngư). Ở đầu mỗi con cá có 1 vòng tròn màu sắc đối lập (ngư nhãn). Cả người Hoa và người Việt đều nhận rằng Thái Cực Đồ là do dân tộc mình sáng tạo ra. Cả 2 dân tộc đều công nhận Thái Cực, Ngũ Hành, Bát Quái xuất xứ từ Phục Hy thị. Và cả 2 dân tộc đều công nhận Phục Hy là Tổ Tiên của mình.
Người Hoa nhận mình là con cháu Viêm Hoàng (Viêm Đế - Thần Nông, và Hoàng Đế), nên nhận luôn Phục Hy (triều trước Thần Nông) là tổ.
Người Việt chỉ nhận mình là con cháu Thần Nông (ko nhận Hoàng Đế). Do đó cũng nhận Phục Hy là tổ.
Nói về hình dạng Thái Cực Đồ, lấy biểu tượng là hình con cá ôm lấy nhau, đại diện cho nền văn minh nông nghiệp. Các nhà nghiên cứu người Việt vẫn lấy đó để nói rằng Thái Cực xuất từ người Việt (Thời thái cổ, người Việt ở phía Nam, theo văn minh nông nghiệp, người Hoa ở phía Bắc, chủ yếu là săn bắn).
Vấn đề này vẫn đang còn tranh cãi nên tui sẽ ko bàn vào.
Còn Ngũ Hành, gồm Kim, Mộc, Thủy. Hỏa, Thổ, tương sinh tương khắc. Ở đây giữa người Hoa và người Việt có khác biệt rất rõ.
Hiện tại trong người Việt ta có 2 quan niệm : dân gian và Dịch học.
Quan niệm dân gian : tui đã thử hỏi những người xung quanh, tất cả đều cho rằng màu vàng tượng trưng cho Kim, màu trắng tượng trưng cho Thủy, và màu đen tượng trưng cho Thổ. Quan niệm này được một số nhà nghiên cứu nhận định được lưu lại từ nền văn hóa Việt cổ, bởi thời Thái Cổ (Kinh Vương, Hùng Vương), dân Việt sống trong thời đại đồ đồng, lúc đó vàng đã được dùng làm trang sức, còn sắt chưa xuất hiện, nên Kim - vàng. Còn thủy - trắng, bởi nước phải màu trắng (ko bàn đến nước những con kênh như Nhiêu Lộc - Thị Nghè), đất - đen (đất vùng đồng bằng làm nông nghiệp).
Dịch học được người Trung Quốc biên soạn sau này, lúc này đồ sắt đã chiếm chủ đạo, vả lại người Hoa phát nguyên từ cao nguyên Hoàng Thổ, và cũng chỉ người Hoa mới có khái niệm "bạch sơn hắc thủy". Do đó Dịch học lấy Kim - trắng, Thủy - đen, Thổ - vàng.
Trong "Vương Mệnh" tác cho Kim - vàng, Mộc - xanh, Thủy - trắng, Hỏa - đỏ, Thổ - đen. Mọi người đừng lầm nó với Ngũ Hành trong Dịch học
/335
|