Tuyên Nhụy ở trong phòng ký túc xá dành cho nghiên cứu sinh của một trường đại học, nghiên cứu sinh đó vốn là cô em kết nghĩa từng được cô ta kèm cặp nên đến giờ vẫn rất cung kính khi nói chuyện với Tuyên Nhụy, như thể vẫn chưa lớn hết. Tuyên Nhụy và tôi ở chỗ này nên cô bé kia chuyển đi chỗ khác.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, Tuyên Nhụy cười hì hì nhìn tôi.
Tuyên Nhụy nói: “Thành Đô là nước trời, đến đây một lần cũng là chuyện không dễ, phải tranh thủ hưởng thụ hấp thu tinh hoa của nước trời này, từ hôm nay tớ sẽ đưa cậu đi thăm những nơi các nhân vật nổi tiếng đã từng sống”.
Tôi hỏi cô ấy: “Cậu đến đấy khi nào?”
Tuyên Nhụy nói: “Đến ngày hôm kia, chưa kịp đi chỗ nào cả, chỉ mong em bé là cậu đến đây thôi”.
Tôi nói: “Thành phố với thành phố thì khác nhau là mấy, có gì mà xem chứ?” Thực ra lòng tôi vẫn muốn yên ổn để có cơ hội cho mình bình tĩnh lại, hỏi xem giữ cô ta và Thang Ninh đã xảy ra chuyện gì vì những hành động của Thang Ninh thực quá khác thường. Tôi thực sự không biết Tuyên Nhụy đã làm gì mà có thể khiến một người đơn thuần và phóng khoáng như Thang Ninh trở nên điên cuồng và tuyệt vọng như thế chứ.
Tuyên Nhụy buông một câu bâng quơ mà lại khiến tôi chú ý: “Văn Đỗ Phủ, Võ Gia Cát, cậu muốn đi chỗ nào trước?”
Thành Đô quả thực là một thành phố dành cho nghỉ ngơi, tôi và Tuyên Nhụy đi một lúc, những con phố nhỏ tuy yên tĩnh nhưng đâu đâu cũng thấy những quán trà, cửa hàng ăn uống, la liệt những chỗ để nghỉ ngơi thư giãn mát xa, rõ ràng hôm nay là thứ hai, nhưng xe đậu trên phố khá đông, người ra người vào tấp nập.
Tôi há hốc miệng giương mắt lên nhìn, Tuyên Nhụy cười hì hì nói: “Chưa thấy bao giờ chứ gì? Lục Thành chỉ cuối tuần mới có cảnh như thế này phải không?” Tôi gật đầu lia lịa.
Tuyên Nhụy tiếp tục đắc ý: “Này, cậu nhìn những người đi đường xem”.
Trong suy nghĩ của tôi, đây không phải là tốc độ vận động của một thành phố thuộc tỉnh, ai ai cũng đều nhàn hạ đi lại, trong tay họ dù có nhiều hay ít đồ cũng không thấy những bước chân vội vã, nét mặt mọi người đều hết sức hài lòng, không rõ là từ đâu nhưng ai cũng đều an lòng với số phận, hài lòng với với hiện trạng cuộc sống. Tôi thấy hơi bất ngờ, hỏi Tuyên Nhụy: “Có phải cậu đã chọn nơi yên ổn nhất để trốn tránh không?”
Tuyên Nhụy cười: “Đây cũng được coi là yên ổn thoải mái sao?”
Khi đến đền thờ Võ Hầu, chứng kiến khắp sân đặt những cái bàn gỗ ghế mây, bài mạt chược, tú lơ khơ, cả một biển người, thì tôi bị choáng thực sự, hỏi luôn Tuyên Nhụy: “Hôm nay là thứ mấy? Rốt cuộc hôm nay là thứ mấy?” Tôi không thể không hỏi, vì ở Lục Thành cũng có những chỗ như thế này nhưng những người ngồi ở đó đều là những ông bà già tóc bạc trắng, mà tôi thì vừa nhìn qua là thấy ở đây đa phần là thanh niên nam nữ tuổi đôi mươi, họ ăn mặc đúng mực, sung sướng hài lòng ngồi uống trà, ăn quà vặt, nói cười rôm rả.
Tuyên Nhụy nói: “Hôm nay là thứ hai”.
Tôi nghĩ không ra, sao những người thanh niên này không làm việc, không chịu chăm chỉ, vì sao khi cần làm việc, cần nỗ lực thì họ lại chạy tới đây thư giãn như chẳng còn điều gì phải lo lắng nữa. Tuyên Nhụy nói không hy vọng tôi hiểu ra, vì chỉ có những người từ nơi khác tới mới nghĩ đến những vấn đề vô vị mà ngốc nghếch thế này.
Vào trong đền thờ, tôi còn hỏi Tuyên Nhụy: “Thế họ sống bằng gì?”
Tuyên Nhụy dương dương đắc ý nhìn tôi: “Quách Doanh, khi chúng ta làm việc ở Lục Thành thì mỗi tháng thu nhập cứng của chúng ta là hơn bốn nghìn tệ, cậu thấy như thế ở mức nào?”
Tôi nói: “Mức trung bình, hơi thấp, có thể đáp ứng một số nhu cầu, nhưng không đủ cho cờ bạc rượu trè trai gái”.
Tuyên Nhụy nói: “Thành Đô chính là thành phố mà chỉ với vài trăm tệ là đủ cho một người sống”.
Tôi nói: “Vài trăm tệ là có thể đủ cho một người ư?”
Tuyên Nhụy cười rinh rích nói: “Thành Đô là thành phố chỉ cần vài trăm tệ là một người có thể sống sung túc”.
Tôi không tin, Tuyên Nhụy bèn dẫn sự thật cho tôi thấy: “Thành Đô có rất nhiều người không làm việc, ở nhà không gạo, không thức ăn, không tiền, liền đến công viên tiêu thời gian vào việc đánh bài mạt chược, chỉ cần vận may không quay lưng lại với họ thì ngày ba trận cũng có thể có thịt có cá ăn”.
Tôi chất vấn: “Đều không có gạo, không có thức ăn, không có tiền hay sao? Họ còn lòng dạ mà đánh bài ư? Họ không sốt ruột à?”
Tuyên Nhụy nói: “Gia Cát tiên sinh đã nói: ‘Nơi này có sông Xuyên, địa hình hiểm trở, đồng ruộng phì nhiêu trải dài hàng nghìn dặm, là mảnh đất của trời’, nghe cũng thấy đó là sự đánh giá rất cao nơi này. Nơi này có được thiên thời địa lợi, là nơi mùa màng thu hoạch tốt, từ xưa đã là chốn phù hoa, là đô thành giàu có sung túc, có địa thế đặc thù, giao thông bất tiện, phần lớn lương thực làm ra đều theo hướng tự cung tự cấp, giàu thì không giàu nhưng giá cả mọi thứ thấp đến mức đáng ngạc nhiên”.
Tôi tiếp tục chất vấn: “Mình hỏi cậu, họ đều không gạo không thức ăn, không tiền, họ còn có tâm trạng mà đánh bài à? Không sốt ruột à?”
Tuyên Nhụy nói: “Hoàng thượng không sốt ruột can gì đến thái giám, người Thành Đô không sốt ruột, cậu suốt ruột cái gì? Trong suy nghĩ của mọi người ở đây đều rất rõ ràng, việc không có gạo, không có thức ăn, không có tiền chỉ là tạm thời, không nên cho là bây giờ chưa có thì mãi mãi về sau cũng sẽ không có”.
Tôi tiếp tục chất vấn: “Quân tử cố cùng ư? Quân tử cố cùng lại trở thành thói quen và phong tục của thành phố này à?”
Tuyên Nhụy chậm chạp trả lời tôi: “Người Tứ Xuyên vốn rất kiên dũng, ra khỏi Tứ Xuyên họ đều là rồng. Cậu nghĩ thử xem ở Lục Thành có bao nhiêu nhân công làm thuê là người Tứ Xuyên? Nói chung về làm ăn họ luôn kém hơn những người dân bản địa, nhưng đến các ngành dịch vụ ăn uống, thì người dân bản địa lại phải bái phục chịu thua”.
Tôi gật đầu thừa nhận, không ngờ Tuyên Nhụy lại phản bác: “Tuy vậy nhưng Thành Đô đúng là một trường hợp ngoại lệ, người Thành Đô rất thích uống trà chuyện gẫu đánh bài, chẳng có chuyện gì thì ra sưởi nắng, không giống những nơi khác của Tứ Xuyên”.
Tôi cười không được, khóc không xong: “Tuyên Nhụy, cuối cùng là cậu muốn nói gì vậy? Thế thì cậu nói cho mình biết người Thành Đô sống như thế nào?”
Tuyên Nhụy như thoát ra khỏi thế giới thực, cười nói: “Thuận theo tự nhiên, có sao bằng lòng như vậy, nghèo có, giàu cũng có, nghèo cũng vui mà giàu cũng vui”.
Trên chuyến bay đến Thành Đô, tôi đọc được một quyển tạp chí giới thiệu về Trùng Khánh và Thành Đô, nói rằng khi đến Thành Đô có một câu nói rất hay rằng: Ngoài Hồng Kông, Hạ Môn, Quảng Châu gần biển ra, Thành Đô là một trong số ít những thành phố coi uống trà là một công việc chính đáng.
Về trà của Thành Đô, trà Nga My là nổi tiếng nhất, trà hương nhài cũng rất đích đáng, nhưng theo tôi thấy người Thành Đô không coi trọng ngon dở hay loại trà, nói cách khác, cái mà người Thành Đô coi trọng không ngoài việc cảm thấy tự do thoải mái khi cầm tách trà lên, tán gẫu trong làn khói bay lãng đãng.
Khi tôi và Tuyên Nhụy ngồi uống trà trong nhà cỏ của Đỗ Phủ, đây chính là kết luận mà tôi rút ra được.
Kỳ thực thành phố nào cũng không thiếu những di tích thời xưa để lại, từ Trường Thành, Di Hoa Viên đến Viện Lâm, Tô Châu, từ Tứ Tử ở Hàng Châu đến Quỳnh Hoa ở Dương Châu, tôi cũng đã đi qua khá nhiều nơi, nhưng rất ít nơi có được cảm giác thư thái yên bình như ở Thành Đô...
Tứ Xuyên rất nhiều trúc, trúc mũi tên, trúc ngà, trúc nước mắt, Tuyên Nhụy nói: “Không có trúc thì không thành vần, không có mưa thì không thành thơ, Thành Đô nhiều trúc nhiều mưa, Đỗ Phủ sao có thể không có thơ cho được?”
Nhưng xem xét tỉ mỉ, Thành Đô dựa vào núi Nga My, nhìn sang Thanh thành, cũng là nơi tiếp giáp với đạo Phật.
Ra khỏi cung Thanh Dương, Tuyên Nhụy nói: “Đến Thành Đô tớ thành kẻ hay ăn nhậu, tối nay đi ăn gì nhỉ?”
Tôi cười nói: “Các món ăn của Tứ Xuyên chính mình thường xuyên ăn rồi mà, giờ đến chỗ khởi thủy của các món ăn Tứ Xuyên thì đương nhiên là ăn món Tứ Xuyên rồi”.
Tuyên Nhụy cười hì hì nói: “Thứ nhất, món ăn Tứ Xuyên, cái tên này nghe chung chung quá, vì chủng loại rất nhiều, điều cậu nói chưa cụ thể; thứ hai, những món ăn Tứ Xuyên của Thành Đô này cậu không ăn nổi đâu”.
Tôi không tin, Tuyên Nhụy bèn lấy một câu chuyện cũ để nhào nặn tôi: “Quách Doanh, cậu không nhớ mùa thu năm kia chính mình đến lầu Thục Hoàng ở Lục Thành ăn món Tứ Xuyên à? Đầu bếp ở đó là người bản địa, lần nào cậu cũng nói không đủ cay, bảo đầu bếp thêm ớt vào, kết quả là lần đó món ăn cay đến mức ngoài tớ ra các cậu không ai ăn được, sau đó nghe nói hóa ra đã thay đầu bếp người Tứ Xuyên rồi”.
Tôi cứng họng: “Cũng khó nói, chưa chắc ớt của Thành Đô đã vừa miệng mình”.
Kết quả là sau nửa tiếng đồng hồ, tôi đã thấy ở một hàng ăn chẳng có món nào là không có ớt.
Tuyên Nhụy nói: “Đến Tứ Xuyên không thể không ăn món đậu phụ Tứ Xuyên, đến Thành Đô không thể không đi ăn mỳ vằn thắn rồng”.
Trong một đêm, Tuyên Nhụy dắt tôi đi khắp nơi, đến chỗ này ăn vài miếng điểm tâm, đến chỗ kia ăn một món xào, tôi thấy mồm miệng thơm phức tiếc là vẫn chỉ cái vị ớt đấy, đến khi tôi được ngồi yên vị để ăn uống thì miệng tôi đã hoàn toàn mất cảm giác, nhưng vẫn biết các món khi ăn vào miệng đều rất ngon, tôi không rõ cảm giác này là do bộ phận nào trong miệng cảm nhận được, nhưng chắc chắn không phải là lưỡi.
Tuyên Nhụy nói: “Thành Đô cũng giống như các thành phố khác, cũng có những khách sạn hạng sang đến những quán bình dân, chỉ có điều khác là, ở đây chỗ nào cũng có những nhà hàng ăn ngon giá rẻ, phục vụ chu đáo, phù hợp với người tiêu dùng, nhưng nét độc đáo trong phong cách mà mùi vị thì không khác gì với các quán ăn lâu đời, nổi tiếng”.
Tuyên Nhụy nói: “Người dân Thành Đô sành miệng lắm, những nơi nào món ăn không ngon, đều phải đóng cửa”.
Tuyên Nhụy nói: “Trong vòng năm mươi mét nhất định phải có hàng ăn, đây chính là chỗ khác biệt giữa Thành Đô và các thành phố khác”.
Tôi không tin, nhẩm đếm trên các phố lớn nhỏ, có lần ở trên một con phố phía nam ga tàu của Thành Đô, tôi cụp các đầu ngón tay để đếm trong vòng năm mươi mét mà chưa thấy hàng ăn nào, đang vui mừng muốn gọi Tuyên Nhụy lại để chất vấn. Bỗng nhiên khi ngẩng đầu lên, thấy con đường nhỏ bên cạnh treo một loạt đèn lồng đỏ. Tôi thực sự thấy choáng.
Tuyên Nhụy nói: “Thành Đô là một nơi rất đặc biệt, phía nam, bắc thành phố là chỗ của những người dân các màu da cư ngụ, những người có tiền hay không có tiền hỏi chỗ ở đều cơ bản hiểu rõ, nhưng cho dù là loại cửa hàng thế nào thì ta cũng khó phân biệt được những người ngồi bên trong ai là người có tiền ai không có. Trên đường dù là những người lài xe cũng chưa chắc đã có tiền trong túi, mà những người đứng bên đường ăn món canh ớt cay cũng không thấy được họ nghèo xơ xác...
Tôi không tin, vì các cửa hàng ăn và những nơi vui chơi giải trí ở Lục Thành cũng được phân biệt rõ ràng, giai tầng nào cũng có thể đến chỗ nào, rất nhiều nơi mà người có tiền cũng không thể vào được.
Đến khi tôi nhìn thấy một cửa hàng nhỏ bán bánh kẹp thịt ở nơi hoang vu thế mà có đến bốn năm cái xe ô tô đỗ ngay ngắn trước cửa, tôi mới tin, Thành Đô là một thành phố bình dân như thế.
Nhưng cái thành phố bình lặng và nhàn hạ này, đã giấu giếm bí mật của Tuyên Nhụy và quá khứ của Tuyên Nhụy như thế nào? Có điều gì khiến cô ta phải giấu kín đi như thế?
Mỗi buổi tối, trước khi đi ngủ, dù đã mệt mỏi rã rời sau một ngày đi chơi tôi đều nghĩ đến những vấn đề này, tự dặn mình sáng mai ngủ dậy sẽ hỏi Tuyên Nhụy. Nhưng mỗi sáng ngủ dậy, tôi lại bị Tuyên Nhụy lôi đi ăn uống chơi bời như con ngựa không thể dưng bước, không có thời gian, không có lòng dạ nào mà hỏi, mà tìm hiểu.
Nhẩm tính ngày, tôi đã ở Thành Đô bảy đêm theo âm lịch của người dân tộc Di, mà xem ra không có dấu hiệu Tuyên Nhụy sẽ bình tĩnh lại.
Ngày hai mươi ba tháng tám, khi tôi nằm trên xe cáp ở núi tuyết Tây Lĩnh, ngủ gà ngủ gật trong bộ quần áo bằng lông, thì Thang Ninh gọi điện cho tôi, giọng của cậu ta bình tĩnh mà chân thật: “Quách Doanh, anh không yêu em, nhưng anh phải cưới em, em là một người con gái tốt, anh phải có trách nhiệm với em”.
Cậu ta không hỏi xem tôi đang ở đâu, cũng không hỏi vì sao tôi bỏ việc, không đợi tôi trả lời đã gác máy, câu cuối cùng là: “Anh chờ em”.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, Tuyên Nhụy cười hì hì nhìn tôi.
Tuyên Nhụy nói: “Thành Đô là nước trời, đến đây một lần cũng là chuyện không dễ, phải tranh thủ hưởng thụ hấp thu tinh hoa của nước trời này, từ hôm nay tớ sẽ đưa cậu đi thăm những nơi các nhân vật nổi tiếng đã từng sống”.
Tôi hỏi cô ấy: “Cậu đến đấy khi nào?”
Tuyên Nhụy nói: “Đến ngày hôm kia, chưa kịp đi chỗ nào cả, chỉ mong em bé là cậu đến đây thôi”.
Tôi nói: “Thành phố với thành phố thì khác nhau là mấy, có gì mà xem chứ?” Thực ra lòng tôi vẫn muốn yên ổn để có cơ hội cho mình bình tĩnh lại, hỏi xem giữ cô ta và Thang Ninh đã xảy ra chuyện gì vì những hành động của Thang Ninh thực quá khác thường. Tôi thực sự không biết Tuyên Nhụy đã làm gì mà có thể khiến một người đơn thuần và phóng khoáng như Thang Ninh trở nên điên cuồng và tuyệt vọng như thế chứ.
Tuyên Nhụy buông một câu bâng quơ mà lại khiến tôi chú ý: “Văn Đỗ Phủ, Võ Gia Cát, cậu muốn đi chỗ nào trước?”
Thành Đô quả thực là một thành phố dành cho nghỉ ngơi, tôi và Tuyên Nhụy đi một lúc, những con phố nhỏ tuy yên tĩnh nhưng đâu đâu cũng thấy những quán trà, cửa hàng ăn uống, la liệt những chỗ để nghỉ ngơi thư giãn mát xa, rõ ràng hôm nay là thứ hai, nhưng xe đậu trên phố khá đông, người ra người vào tấp nập.
Tôi há hốc miệng giương mắt lên nhìn, Tuyên Nhụy cười hì hì nói: “Chưa thấy bao giờ chứ gì? Lục Thành chỉ cuối tuần mới có cảnh như thế này phải không?” Tôi gật đầu lia lịa.
Tuyên Nhụy tiếp tục đắc ý: “Này, cậu nhìn những người đi đường xem”.
Trong suy nghĩ của tôi, đây không phải là tốc độ vận động của một thành phố thuộc tỉnh, ai ai cũng đều nhàn hạ đi lại, trong tay họ dù có nhiều hay ít đồ cũng không thấy những bước chân vội vã, nét mặt mọi người đều hết sức hài lòng, không rõ là từ đâu nhưng ai cũng đều an lòng với số phận, hài lòng với với hiện trạng cuộc sống. Tôi thấy hơi bất ngờ, hỏi Tuyên Nhụy: “Có phải cậu đã chọn nơi yên ổn nhất để trốn tránh không?”
Tuyên Nhụy cười: “Đây cũng được coi là yên ổn thoải mái sao?”
Khi đến đền thờ Võ Hầu, chứng kiến khắp sân đặt những cái bàn gỗ ghế mây, bài mạt chược, tú lơ khơ, cả một biển người, thì tôi bị choáng thực sự, hỏi luôn Tuyên Nhụy: “Hôm nay là thứ mấy? Rốt cuộc hôm nay là thứ mấy?” Tôi không thể không hỏi, vì ở Lục Thành cũng có những chỗ như thế này nhưng những người ngồi ở đó đều là những ông bà già tóc bạc trắng, mà tôi thì vừa nhìn qua là thấy ở đây đa phần là thanh niên nam nữ tuổi đôi mươi, họ ăn mặc đúng mực, sung sướng hài lòng ngồi uống trà, ăn quà vặt, nói cười rôm rả.
Tuyên Nhụy nói: “Hôm nay là thứ hai”.
Tôi nghĩ không ra, sao những người thanh niên này không làm việc, không chịu chăm chỉ, vì sao khi cần làm việc, cần nỗ lực thì họ lại chạy tới đây thư giãn như chẳng còn điều gì phải lo lắng nữa. Tuyên Nhụy nói không hy vọng tôi hiểu ra, vì chỉ có những người từ nơi khác tới mới nghĩ đến những vấn đề vô vị mà ngốc nghếch thế này.
Vào trong đền thờ, tôi còn hỏi Tuyên Nhụy: “Thế họ sống bằng gì?”
Tuyên Nhụy dương dương đắc ý nhìn tôi: “Quách Doanh, khi chúng ta làm việc ở Lục Thành thì mỗi tháng thu nhập cứng của chúng ta là hơn bốn nghìn tệ, cậu thấy như thế ở mức nào?”
Tôi nói: “Mức trung bình, hơi thấp, có thể đáp ứng một số nhu cầu, nhưng không đủ cho cờ bạc rượu trè trai gái”.
Tuyên Nhụy nói: “Thành Đô chính là thành phố mà chỉ với vài trăm tệ là đủ cho một người sống”.
Tôi nói: “Vài trăm tệ là có thể đủ cho một người ư?”
Tuyên Nhụy cười rinh rích nói: “Thành Đô là thành phố chỉ cần vài trăm tệ là một người có thể sống sung túc”.
Tôi không tin, Tuyên Nhụy bèn dẫn sự thật cho tôi thấy: “Thành Đô có rất nhiều người không làm việc, ở nhà không gạo, không thức ăn, không tiền, liền đến công viên tiêu thời gian vào việc đánh bài mạt chược, chỉ cần vận may không quay lưng lại với họ thì ngày ba trận cũng có thể có thịt có cá ăn”.
Tôi chất vấn: “Đều không có gạo, không có thức ăn, không có tiền hay sao? Họ còn lòng dạ mà đánh bài ư? Họ không sốt ruột à?”
Tuyên Nhụy nói: “Gia Cát tiên sinh đã nói: ‘Nơi này có sông Xuyên, địa hình hiểm trở, đồng ruộng phì nhiêu trải dài hàng nghìn dặm, là mảnh đất của trời’, nghe cũng thấy đó là sự đánh giá rất cao nơi này. Nơi này có được thiên thời địa lợi, là nơi mùa màng thu hoạch tốt, từ xưa đã là chốn phù hoa, là đô thành giàu có sung túc, có địa thế đặc thù, giao thông bất tiện, phần lớn lương thực làm ra đều theo hướng tự cung tự cấp, giàu thì không giàu nhưng giá cả mọi thứ thấp đến mức đáng ngạc nhiên”.
Tôi tiếp tục chất vấn: “Mình hỏi cậu, họ đều không gạo không thức ăn, không tiền, họ còn có tâm trạng mà đánh bài à? Không sốt ruột à?”
Tuyên Nhụy nói: “Hoàng thượng không sốt ruột can gì đến thái giám, người Thành Đô không sốt ruột, cậu suốt ruột cái gì? Trong suy nghĩ của mọi người ở đây đều rất rõ ràng, việc không có gạo, không có thức ăn, không có tiền chỉ là tạm thời, không nên cho là bây giờ chưa có thì mãi mãi về sau cũng sẽ không có”.
Tôi tiếp tục chất vấn: “Quân tử cố cùng ư? Quân tử cố cùng lại trở thành thói quen và phong tục của thành phố này à?”
Tuyên Nhụy chậm chạp trả lời tôi: “Người Tứ Xuyên vốn rất kiên dũng, ra khỏi Tứ Xuyên họ đều là rồng. Cậu nghĩ thử xem ở Lục Thành có bao nhiêu nhân công làm thuê là người Tứ Xuyên? Nói chung về làm ăn họ luôn kém hơn những người dân bản địa, nhưng đến các ngành dịch vụ ăn uống, thì người dân bản địa lại phải bái phục chịu thua”.
Tôi gật đầu thừa nhận, không ngờ Tuyên Nhụy lại phản bác: “Tuy vậy nhưng Thành Đô đúng là một trường hợp ngoại lệ, người Thành Đô rất thích uống trà chuyện gẫu đánh bài, chẳng có chuyện gì thì ra sưởi nắng, không giống những nơi khác của Tứ Xuyên”.
Tôi cười không được, khóc không xong: “Tuyên Nhụy, cuối cùng là cậu muốn nói gì vậy? Thế thì cậu nói cho mình biết người Thành Đô sống như thế nào?”
Tuyên Nhụy như thoát ra khỏi thế giới thực, cười nói: “Thuận theo tự nhiên, có sao bằng lòng như vậy, nghèo có, giàu cũng có, nghèo cũng vui mà giàu cũng vui”.
Trên chuyến bay đến Thành Đô, tôi đọc được một quyển tạp chí giới thiệu về Trùng Khánh và Thành Đô, nói rằng khi đến Thành Đô có một câu nói rất hay rằng: Ngoài Hồng Kông, Hạ Môn, Quảng Châu gần biển ra, Thành Đô là một trong số ít những thành phố coi uống trà là một công việc chính đáng.
Về trà của Thành Đô, trà Nga My là nổi tiếng nhất, trà hương nhài cũng rất đích đáng, nhưng theo tôi thấy người Thành Đô không coi trọng ngon dở hay loại trà, nói cách khác, cái mà người Thành Đô coi trọng không ngoài việc cảm thấy tự do thoải mái khi cầm tách trà lên, tán gẫu trong làn khói bay lãng đãng.
Khi tôi và Tuyên Nhụy ngồi uống trà trong nhà cỏ của Đỗ Phủ, đây chính là kết luận mà tôi rút ra được.
Kỳ thực thành phố nào cũng không thiếu những di tích thời xưa để lại, từ Trường Thành, Di Hoa Viên đến Viện Lâm, Tô Châu, từ Tứ Tử ở Hàng Châu đến Quỳnh Hoa ở Dương Châu, tôi cũng đã đi qua khá nhiều nơi, nhưng rất ít nơi có được cảm giác thư thái yên bình như ở Thành Đô...
Tứ Xuyên rất nhiều trúc, trúc mũi tên, trúc ngà, trúc nước mắt, Tuyên Nhụy nói: “Không có trúc thì không thành vần, không có mưa thì không thành thơ, Thành Đô nhiều trúc nhiều mưa, Đỗ Phủ sao có thể không có thơ cho được?”
Nhưng xem xét tỉ mỉ, Thành Đô dựa vào núi Nga My, nhìn sang Thanh thành, cũng là nơi tiếp giáp với đạo Phật.
Ra khỏi cung Thanh Dương, Tuyên Nhụy nói: “Đến Thành Đô tớ thành kẻ hay ăn nhậu, tối nay đi ăn gì nhỉ?”
Tôi cười nói: “Các món ăn của Tứ Xuyên chính mình thường xuyên ăn rồi mà, giờ đến chỗ khởi thủy của các món ăn Tứ Xuyên thì đương nhiên là ăn món Tứ Xuyên rồi”.
Tuyên Nhụy cười hì hì nói: “Thứ nhất, món ăn Tứ Xuyên, cái tên này nghe chung chung quá, vì chủng loại rất nhiều, điều cậu nói chưa cụ thể; thứ hai, những món ăn Tứ Xuyên của Thành Đô này cậu không ăn nổi đâu”.
Tôi không tin, Tuyên Nhụy bèn lấy một câu chuyện cũ để nhào nặn tôi: “Quách Doanh, cậu không nhớ mùa thu năm kia chính mình đến lầu Thục Hoàng ở Lục Thành ăn món Tứ Xuyên à? Đầu bếp ở đó là người bản địa, lần nào cậu cũng nói không đủ cay, bảo đầu bếp thêm ớt vào, kết quả là lần đó món ăn cay đến mức ngoài tớ ra các cậu không ai ăn được, sau đó nghe nói hóa ra đã thay đầu bếp người Tứ Xuyên rồi”.
Tôi cứng họng: “Cũng khó nói, chưa chắc ớt của Thành Đô đã vừa miệng mình”.
Kết quả là sau nửa tiếng đồng hồ, tôi đã thấy ở một hàng ăn chẳng có món nào là không có ớt.
Tuyên Nhụy nói: “Đến Tứ Xuyên không thể không ăn món đậu phụ Tứ Xuyên, đến Thành Đô không thể không đi ăn mỳ vằn thắn rồng”.
Trong một đêm, Tuyên Nhụy dắt tôi đi khắp nơi, đến chỗ này ăn vài miếng điểm tâm, đến chỗ kia ăn một món xào, tôi thấy mồm miệng thơm phức tiếc là vẫn chỉ cái vị ớt đấy, đến khi tôi được ngồi yên vị để ăn uống thì miệng tôi đã hoàn toàn mất cảm giác, nhưng vẫn biết các món khi ăn vào miệng đều rất ngon, tôi không rõ cảm giác này là do bộ phận nào trong miệng cảm nhận được, nhưng chắc chắn không phải là lưỡi.
Tuyên Nhụy nói: “Thành Đô cũng giống như các thành phố khác, cũng có những khách sạn hạng sang đến những quán bình dân, chỉ có điều khác là, ở đây chỗ nào cũng có những nhà hàng ăn ngon giá rẻ, phục vụ chu đáo, phù hợp với người tiêu dùng, nhưng nét độc đáo trong phong cách mà mùi vị thì không khác gì với các quán ăn lâu đời, nổi tiếng”.
Tuyên Nhụy nói: “Người dân Thành Đô sành miệng lắm, những nơi nào món ăn không ngon, đều phải đóng cửa”.
Tuyên Nhụy nói: “Trong vòng năm mươi mét nhất định phải có hàng ăn, đây chính là chỗ khác biệt giữa Thành Đô và các thành phố khác”.
Tôi không tin, nhẩm đếm trên các phố lớn nhỏ, có lần ở trên một con phố phía nam ga tàu của Thành Đô, tôi cụp các đầu ngón tay để đếm trong vòng năm mươi mét mà chưa thấy hàng ăn nào, đang vui mừng muốn gọi Tuyên Nhụy lại để chất vấn. Bỗng nhiên khi ngẩng đầu lên, thấy con đường nhỏ bên cạnh treo một loạt đèn lồng đỏ. Tôi thực sự thấy choáng.
Tuyên Nhụy nói: “Thành Đô là một nơi rất đặc biệt, phía nam, bắc thành phố là chỗ của những người dân các màu da cư ngụ, những người có tiền hay không có tiền hỏi chỗ ở đều cơ bản hiểu rõ, nhưng cho dù là loại cửa hàng thế nào thì ta cũng khó phân biệt được những người ngồi bên trong ai là người có tiền ai không có. Trên đường dù là những người lài xe cũng chưa chắc đã có tiền trong túi, mà những người đứng bên đường ăn món canh ớt cay cũng không thấy được họ nghèo xơ xác...
Tôi không tin, vì các cửa hàng ăn và những nơi vui chơi giải trí ở Lục Thành cũng được phân biệt rõ ràng, giai tầng nào cũng có thể đến chỗ nào, rất nhiều nơi mà người có tiền cũng không thể vào được.
Đến khi tôi nhìn thấy một cửa hàng nhỏ bán bánh kẹp thịt ở nơi hoang vu thế mà có đến bốn năm cái xe ô tô đỗ ngay ngắn trước cửa, tôi mới tin, Thành Đô là một thành phố bình dân như thế.
Nhưng cái thành phố bình lặng và nhàn hạ này, đã giấu giếm bí mật của Tuyên Nhụy và quá khứ của Tuyên Nhụy như thế nào? Có điều gì khiến cô ta phải giấu kín đi như thế?
Mỗi buổi tối, trước khi đi ngủ, dù đã mệt mỏi rã rời sau một ngày đi chơi tôi đều nghĩ đến những vấn đề này, tự dặn mình sáng mai ngủ dậy sẽ hỏi Tuyên Nhụy. Nhưng mỗi sáng ngủ dậy, tôi lại bị Tuyên Nhụy lôi đi ăn uống chơi bời như con ngựa không thể dưng bước, không có thời gian, không có lòng dạ nào mà hỏi, mà tìm hiểu.
Nhẩm tính ngày, tôi đã ở Thành Đô bảy đêm theo âm lịch của người dân tộc Di, mà xem ra không có dấu hiệu Tuyên Nhụy sẽ bình tĩnh lại.
Ngày hai mươi ba tháng tám, khi tôi nằm trên xe cáp ở núi tuyết Tây Lĩnh, ngủ gà ngủ gật trong bộ quần áo bằng lông, thì Thang Ninh gọi điện cho tôi, giọng của cậu ta bình tĩnh mà chân thật: “Quách Doanh, anh không yêu em, nhưng anh phải cưới em, em là một người con gái tốt, anh phải có trách nhiệm với em”.
Cậu ta không hỏi xem tôi đang ở đâu, cũng không hỏi vì sao tôi bỏ việc, không đợi tôi trả lời đã gác máy, câu cuối cùng là: “Anh chờ em”.
/21
|