A Mạch biết tính nết Từ Tĩnh, thấy ông ta nói vậy biết có hỏi tiếp cũng không hỏi được gì, nên cũng không hỏi lại, chỉ lẳng lặng gia tăng cường độ huấn luyện trong doanh.
Binh lính trong doanh mỗi ngày đều phải luyện tập mệt đến chết, muốn oán giận nhưng cũng không cách nào oán giận nổi, bởi Mạch tướng quân vẫn là tấm gương tốt, cùng luyện tập chung với mọi người, bản thân nếu chỉ là một tiểu binh thì có thể nói gì? Có ai đã từng thấy vị tướng quân nào cùng tham gia thao luyện cùng binh lính chưa? Chưa chứ gì? Vậy là được rồi, luyện tiếp đi! Lại nói có một tên lính trong đội thứ tư, ngũ thứ tám đem kinh nghiệm mà mỗ ta từng học suốt nửa năm giảng lại cho binh lính, nào là tướng quân chúng ta huấn luyện mọi người không khác gì huấn luyện chó, khi ra trận chiến đấu sẽ không khác gì chó hoang, mỗi lần chạy đều không khác gì tế cẩu, đến tối khi buổi huấn luyện kết thúc quay trở lại trướng liền chẳng khác gì chó chết.
Lúc ấy, đội trưởng đội bốn Vương Thất đang ở cách đó không xa, nghe xong liền cho tên lính kia một cước, mắng: “Ăn nói mất dạy, những lời này mà ngươi cũng dám nói, cũng may tướng quân chúng ta là người tốt tính, nếu là người khác, thì cái mông của ngươi đã nhừ đòn rồi!”
Tên lính kia ôm mông vội thành thành thật thật đi luyện tập tiếp, Vương Thất quay lại giải thích với người đồng đội kia: “Ngươi không phải ở trong đội bốn của chúng ta nên không biết, nhớ ngày đó đại nhân chúng ta vẫn là đội trưởng đội bốn, ngài nói với chúng ta rằng khi tham gia vào quân ngũ thì thứ quan trọng nhất chính là hai cái đùi. Thắng, chúng ta có thể truy đuổi thát tử, đuổi kịp mới có thể giết địch; Bại, thát tử đuổi chúng ta chạy, chúng ta chỉ có chạy nhanh thì mới có thể bảo toàn được tính mạng.”
Người đồng đội kia nghe xong lập tức gật đầu nói phải.
Vẻ mặt Vương Thất lại trở nên nghi hoặc mà lẩm bẩm: “Mụ nội nó, ngươi nói xem hắn ta làm sao biết được đại nhân chúng ta chạy giống tế cẩu vậy?”
Lần này, người đồng đội không dám gật đầu nữa.
A Mạch bán mạng như vậy, quả thật khiến cho quan quân trong doanh không thích ứng nổi, tuy biết đại nhân nhà mình nhờ liều mạng mà thành danh, nhưng dù sao cũng là chủ tướng của một doanh, nói gì thì cũng phải chú trọng tới hình tượng của mình chứ, đâu đáng để cả ngày đi theo đám tân binh múa đao lộng thương rồi lại ra ngoài chạy việt dã như thế?
Nhìn A Mạch trên giáo trường múa đại đao vù vù, Vương Thất không thể không tiếc hận thở dài: “Ai, thật đáng tiếc đại nhân chúng ta lại phụ lại thân thể nho nhã của mình.”
Lý Thiếu Hướng lại không để những lời đó của Vương Thất trong lọt vào tai, chỉ nhìn Hắc Diện đang cởi trần trùng trục cùng đám lính thao luyện phía xa xa, tự nhủ: “Nếu như tất cả đều không sợ lạnh giống như anh ta thì tốt biết mấy, ta đỡ phải tốn bao nhiêu là vải bông a.”
Từ Tĩnh đang chắp tay đứng phía sau hai người, nghe bọn họ nói chuyện theo kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia như thế, hừ lạnh một tiếng nói: “Hai tên tiểu tử này, không thao luyện cho tốt, lại nhàn rỗi đứng ở chỗ này mà tốn hơi thừa lời!”
Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng vội vàng quay đầu lại, thấy là Từ Tĩnh, đều toét miệng cười nói: “Từ tiên sinh.”
Từ Tĩnh ngạo mạn khẽ gật đầu, vẫn nhìn A Mạch trên giáo trường ở đằng xa, nói: “Yến tước an tri hồng hộc chi chí!”(1)
Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng nhìn nhau, Lý Thiếu Hướng láu cá, hạ thấp người hướng Từ Tĩnh cười cười, có chút ngượng ngùng nói: “Trong trướng của ta vẫn còn vài thứ chưa tính toán xong, ta phải đi kiểm tra lại một chút, Từ tiên sinh, ta đi trước!”
Vương Thất há hốc miệng nhìn bóng dáng Lý Thiếu Hướng vội vã rời đi, nhất thời nói không ra lời, qua một lúc lâu đột nhiên nhảy dựng lên, kêu lớn: “Ai nha! Đại nhân giao nhiệm vụ cho ta phải thay đổi tiếng lóng cho đội thám báo, thế mà ta lại quên mất, Từ tiên sinh, ta đi trước đây!”
Vương Thất nói xong, cũng vội vàng lỉnh mất.
Khi A Mạch cùng Trương Sỹ Cường trở về, bên giáo trường cũng chỉ còn lại một mình Từ Tĩnh vẫn chắp tay đứng nhìn như trước. A Mạch luyện tập xong, đầu đầy mồ hôi, dùng khăn lau qua trên mặt, rồi tiện tay ném ra phía sau cho Trương Sỹ Cường, tiến lên hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh đến tìm ta?”
Từ Tĩnh khẽ vuốt râu, xoay người cùng A Mạch quay về hướng doanh trướng, nói: “Đại doanh vừa tới đưa tin, Vệ Hưng lệnh cho chủ tướng các doanh ngày hai mươi hai tháng chạp tề tụ tại đại doanh để nghị sự.”
“Đi đại doanh sao?” A Mạch dừng chân một chút, kinh ngạc nói: “Mọi người không phải mới từ đại doanh trở về sao? Sao đã lại cho gọi vậy? Chúng ta ở gần thì không nói làm gì, nhưng có những doanh cách đại doanh đến vài trăm dặm, đang giữa mùa đông lạnh như thế này lại ép nhau đi lại như vậy! Vệ Hưng rốt cuộc muốn làm gì?”
Từ Tĩnh thản nhiên nói: “Mặc kệ Vệ Hưng muốn làm gì, ngươi cứ đi là được.”
A Mạch cười tự giễu: “Đương nhiên, ta chỉ là chủ tướng nho nhỏ của một doanh, nào dám không đi.”
Từ Tĩnh nhướn mắt nhìn A Mạch một cái, do dự một chút rồi dặn dò: “Lần này ngươi đi đại doanh, ngàn vạn lần không được lén đi tìm Đường Thiệu Nghĩa.”
A Mạch cười nói: “Tiên sinh quá lo, chớ nói lần này ta không được tìm anh ta, mà từ lần trước ta đã không lén đi tìm rồi.”
Vệ Hưng vốn kiêng kị Đường Thiệu Nghĩa, A Mạch sao lại không biết điều này, hơn nữa, thấy Trương Sinh đến tìm nàng uống rượu mà Đường Thiệu Nghĩa lại chưa từng đến, thì có lẽ trong lòng anh ta cũng đã hiểu rất rõ rồi.
Từ Tĩnh vuốt râu không nói, sau một lúc lâu đột nhiên nói: “A Mạch, ngươi khá lắm,” Ông ta ngừng một chút, lại nhắc lại: “Khá lắm.”
A Mạch khẽ giật mình, lập tức cười nói: “Đa tạ tiên sinh khích lệ.”
Từ Tĩnh thản nhiên cười cười, không nói tiếp nữa.
Ngày hai mươi mốt tháng chạp, A Mạch mang theo Trương Sỹ Cường xuất phát đi đại doanh. Một ngày trước, tuyết rơi rất nhiều, trận tuyết lớn như phủ lên dãy núi Ô Lan một chiếc áo pha lê trong suốt, vô cùng tráng lệ. Đường núi bị trận tuyết lớn phủ kín, may mà A Mạch cùng Trương Sỹ Cường đều cưỡi ngựa, mặc dù không thể phi nhanh, nhưng dù sao vẫn còn hơn là đi bộ.
Trương Sỹ Cường cưỡi ngựa đi bên cạnh A Mạch, nhìn con đường bị tuyết lấp kín, không hiểu vì sao lại nghĩ tới chuyện cũ ở thành Dự Châu, cũng là ngày này năm trước, cũng một trận tuyết lớn như vậy, hai người trên đường đi Dự Châu, sinh tử khó liệu.
“Đại nhân, ngài nói ở thành Dự Châu tuyết cũng lớn như vậy sao?” Trương Sỹ Cường đột nhiên hỏi
A Mạch nghe vậy ngẩng đầu, khuôn mặt trầm tĩnh nhìn về phía xa xa, nơi những ngọn núi chồng chất, hồi lâu không nói gì. Trong lòng Trương Sỹ Cường âm thầm hối hận, tự trách mình nói chuyện lung tung, đang yên đang lành tự nhiên nhắc đến thành Dự Châu làm gì, nhưng A Mạch đã quay đầu lại nhìn anh ta khẽ cười nói: “Tuyết trong núi xem ra lớn hơn ở thành Dự Châu một chút.”
Dự Châu, cũng vừa sau một trận tuyết lớn.
Trong thành, ngã tư đường là một màu trắng thuần khiết. Trong phủ Thôi Diễn, lớp tuyết đọng đã sớm được quét tước sạch sẽ, một thị nữ mặc áo xanh ôm một chiếc áo choàng lông chồn từ xa đi đến, gấu váy hất tung trên nền đá không lưu lại chút dấu vết. Thị nữ áo xanh đi thẳng ra ngoài vườn, chỉ khẽ gật đầu với thị vệ rồi lập tức đi thẳng vào trong vườn, khi đến trước cửa một gian phòng mới dừng lại một chút, đổi chiếc áo choàng sang tay khác, rồi vén rèm cửa lên.
Trong phòng, Thôi Diễn cùng Thường Ngọc Thanh đang diễn tập đối chiến trên một sa bàn nhỏ. Thôi Diễn nghe thấy tiếng động, liền ngẩng đầu lên, thấy thị nữ áo xanh kia ôm áo khoác từ bên ngoài tiến vào, liền trầm giọng phân phó: “Cứ để sang bên cạnh, khi nào Thường đại ca rời đi thì sẽ mặc.”
Giọng của Thôi Diễn rất khàn, một đao của A Mạch mặc dù không thể kết liễu tính mạng của anh ta, nhưng lại đả thương đến cổ họng. Về sau, mặc dù vết thương đã lành, nhưng vốn là một giáo úy thiếu niên vô cùng hăng hái, giờ trên cổ lúc nào cũng buộc một cái cái khăn màu đen, nói cũng ít đi rất nhiều.
Thị nữ khẽ đáp “Vâng”, rồi cúi đầu đứng sang một bên.
Sắc mặt Thường Ngọc Thanh sau khi bị thương vẫn còn tái nhợt, tầm mắt từ trên sa bàn khẽ nâng lên, nhìn lướt qua áo khoác trên tay thị nữ, không chút để ý hỏi: “Đang yên đang lành mang áo khoác cho ta làm gì?”
Thôi Diễn ngắn gọn đáp: “Trời lạnh.”
Thường Ngọc Thanh không khỏi bật cười, lại khiến phổi khẽ đau, nhịn không được bật ra vài tiếng ho.
Thôi Diễn thấy thế vội vàng kêu lên: “Từ Tú Nhi, nhanh lên…”
Không kịp đợi anh ta nói hết lời, thị nữ áo xanh kia đã bưng chén trà nóng đến, đưa cho Thường Ngọc Thanh, nhẹ giọng nói: “Tướng quân mau uống ngụm trà nóng đi.”
Thường Ngọc Thanh lại không tiếp trà, chỉ khoát tay cho Từ Tú Nhi lui ra, trấn áp cơn ho khan quay lại nhìn Thôi Diễn cười nói: “Chẳng lẽ cứ trời lạnh là lại bọc hết áo này áo nọ cho ta mỗi khi ra ngoài, chẳng hóa ra lại khiến cho người khác chê cười.”
Thôi Diễn oán hận nói: “Nếu ta gặp được Vệ Hưng, chắc chắn sẽ không cho anh ta được chết tử tế!”
Thường Ngọc Thanh nghe vậy cười, nói: “Nếu ngươi gặp được Vệ Hưng, nhất định phải cẩn thận, người này một thân nội gia công phu không thể khinh thường.”
“Thế thì sao?” Thôi Diễn không phục nói,“Có địch nổi hàng ngàn, hàng vạn thiết kỵ của chúng ta không?”
Thường Ngọc Thanh khóe miệng hơi nhíu lại, cúi đầu nhìn sa bàn không nói gì.
Thôi Diễn lại nói: “Đại ca, năm sau chúng ta sẽ đi Thái Hưng. Nguyên soái đã an bài…”
Thường Ngọc Thanh đột nhiên đưa mắt nhìn Thôi Diễn, khiến nửa sau câu nói của Thôi Diễn mắc lại trong cổ họng. Thôi Diễn quay đầu nhìn về phía Từ Tú Nhi, Từ Tú Nhi không đợi anh ta phân phó, liền khẽ cúi đầu, khụy gối thi lễ với Thôi Diễn cùng Thường Ngọc Thanh rồi khẽ khàng lui ra ngoài.
Đợi nàng đi khuất, Thường Ngọc Thanh mới nhẹ giọng hỏi: “Nàng đó là thị nữ do Thạch Đạt Xuân đưa tới cho ngươi?”
Thôi Diễn gật đầu nói: “Đúng vậy, lúc ấy ta bị thương nặng không thể cử động, nguyên soái sợ thân binh tay chân thô kệch không làm được việc liền sai Thạch Đạt Xuân tìm một thị nữ cho ta, Thạch Đạt Xuân liền đem tặng nàng đến đây, người cũng thông minh linh hoạt, biết tâm tư người khác.”
Thường Ngọc Thanh thản nhiên nói: “Biết tâm tư người khác cũng là người Nam Hạ, không thể không đề phòng.”
Thôi Diễn gật gật đầu, nói: “Ta nhớ kỹ.” Anh ta ngừng lại một chút, lại nhịn không được hỏi: “Đại ca, Vệ Hưng có giống như lời nguyên soái nói là sẽ tấn công Thái Hưng sao?”
Thường Ngọc Thanh khẽ cười cười, nói: “Nếu như là Thương Dịch Chi trước đây, sợ là sẽ không, nhưng đổi lại là đại tướng quân Vệ Hưng mới được sắc phong bây giờ, thì có đến tám chín phần mười là có. Lương thảo ở Bào Mã Xuyên bị thiêu cháy, anh ta coi thường Chu lão tướng quân không có lương thực, lại muốn tăng thể diện trước mặt người khác mà yên ổn tồn tại trong quân Giang Bắc, nên e rằng muốn làm anh hùng cứu viện Thái Hưng.”
Thôi Diễn lo nghĩ, ngữ khí kiên định nói: “Lúc này đây, nhất định phải khiến cho quân Giang Bắc có đi mà không có về, một kẻ cũng không thể lưu lại!”
Nghe anh ta nói như vậy, trong đầu Thường Ngọc Thanh lại đột nhiên thoảng hiện lên một bóng dáng cao cao, gầy yếu, đuôi lông mày nhịn không được khẽ nhướn lên, cười nhạo nói: “Chưa hẳn!”
Thôi Diễn sửng sốt, có chút khó hiểu nhìn về phía Thường Ngọc Thanh, Thường Ngọc Thanh cũng không nói toạc ra, chỉ khẽ nhếch khóe miệng cười cười, nói: “Chỉ cần nhớ rằng nếu gặp lại Mạch Tuệ chớ để xảy ra chuyện là được!”
Thôi Diễn yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, đột nhiên hỏi: “Nếu ta giết nàng, đại ca có trách ta không?”
Thường Ngọc Thanh ngẩn ra, lại nhìn vẻ mặt thành thật của Thôi Diễn, bật cười nói: “Ngươi không giết nàng, chẳng lẽ muốn bắt giam nàng?”
Thôi Diễn nghe Thường Ngọc Thanh nói như thế liền nhẹ lòng, không khỏi cũng bật cười nói: “Ta còn sợ đại ca có ý với nàng, chẳng may nếu trên sa trường gặp nàng, thì giết hay không giết đây!”
Thường Ngọc Thanh chậm rãi thu lại ý cười, nghiêm mặt nói: “A Diễn, ngươi phải nhớ cho kỹ, ta là quân nhân, trên sa trường chỉ có hai quốc gia đối địch, chứ không có tư tình!”
Thôi Diễn nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, nặng nề mà gật đầu.
Những điều Thường Ngọc Thanh đoán quả nhiên đúng, Vệ Hưng năm trước triệu tập chủ tướng các doanh quân Giang Bắc tề tụ tại đại doanh là để thương thảo kế hoạch giải cứu thành Thái Hưng trong năm sau. Nhậm chức đại tướng quân Giang Bắc sau khi Đường Thiệu Nghĩa tập kích bất ngờ vào đại doanh tích trữ lương thảo của quân Bắc Mạc, Vệ Hưng quả thật rất cần một chiến công hiển hách để chứng minh chính mình.
Nam Hạ, tháng hai, năm thứ tư theo lịch Thịnh Nguyên, Vệ Hưng không để ý đến phản đối của đám người Đường Thiệu Nghĩa, hạ quân lệnh đại tướng quân, lệnh cho quân Giang Bắc phân bố ở núi Ô Lan lặng lẽ quy tụ tại phía đông nam của núi Ô Lan.
Tháng ba, các bộ binh doanh của quân Giang Bắc, cung nỏ doanh cùng kỵ binh doanh của Đường Thiệu Nghĩa, tổng cộng hơn tám vạn người tụ tập lại, vượt qua Liễu Khê, Hán Bảo thẳng tiến cứu viện thành Thái Hưng.
Thành Thái Hưng, bị Bắc Mạc vây khốn gần hai năm, rốt cục đã nghênh đón một đội quan chi viện lớn nhất.
Quân coi giữ thành Thái Hưng là hơn ba vạn người, cùng hơn tám vạn quân Giang Bắc, tổng cộng lên đến mười một vạn quân, trong ngoài giáp công đại quân Bắc Mạc có thể sẽ đem lại một hiệu quả rất lớn. Mà tám vạn đại quân Bắc Mạc của Chu Chí Nhẫn, lương thảo đã bị Đường Thiệu Nghĩa thiêu sạch, gần nửa năm nay đều trong tình trạng thiếu lương, chỉ trông cậy vào sự điều phối lương thảo của các thành trì khác mà Bắc Mạc chiếm đóng để miễn cưỡng duy trì, chỉ cần cắt đứt lương thảo của ông ta, như vậy, đại quân Bắc Mạc không cần tấn công cũng tự loạn.
Có vẻ như hết thảy mọi việc thoạt nhìn đều giống như Vệ Hưng đang làm một cuộc mua bán hàng giả mà không phải lo lắng chuyện bồi hoàn, không biết rằng, phía trước đang có một tấm lưới rất lớn đang giăng sẵn chờ quân Giang Bắc nhảy vào, mà Trần Khởi, người giăng võng thật sự đã chờ từ lâu lắm rồi.
———————–
Chú thích:
1- Yên tước an tri, hồng hộc chi khí: Yến: chim én. Tước: chim sẻ. An: làm sao? Tri: biết. Hồng hộc: chim hồng và chim hộc, hai loại chim rất khỏe, bay cao và xa. Chí: chí khí.
Câu trên có nghĩa là: Chim én và chim sẻ làm sao biết được cái chí khí của chim hồng và chim hộc.
Ý nói: Kẻ tiểu nhân làm sao biết được chí khí của người quân tử anh hùng.
Binh lính trong doanh mỗi ngày đều phải luyện tập mệt đến chết, muốn oán giận nhưng cũng không cách nào oán giận nổi, bởi Mạch tướng quân vẫn là tấm gương tốt, cùng luyện tập chung với mọi người, bản thân nếu chỉ là một tiểu binh thì có thể nói gì? Có ai đã từng thấy vị tướng quân nào cùng tham gia thao luyện cùng binh lính chưa? Chưa chứ gì? Vậy là được rồi, luyện tiếp đi! Lại nói có một tên lính trong đội thứ tư, ngũ thứ tám đem kinh nghiệm mà mỗ ta từng học suốt nửa năm giảng lại cho binh lính, nào là tướng quân chúng ta huấn luyện mọi người không khác gì huấn luyện chó, khi ra trận chiến đấu sẽ không khác gì chó hoang, mỗi lần chạy đều không khác gì tế cẩu, đến tối khi buổi huấn luyện kết thúc quay trở lại trướng liền chẳng khác gì chó chết.
Lúc ấy, đội trưởng đội bốn Vương Thất đang ở cách đó không xa, nghe xong liền cho tên lính kia một cước, mắng: “Ăn nói mất dạy, những lời này mà ngươi cũng dám nói, cũng may tướng quân chúng ta là người tốt tính, nếu là người khác, thì cái mông của ngươi đã nhừ đòn rồi!”
Tên lính kia ôm mông vội thành thành thật thật đi luyện tập tiếp, Vương Thất quay lại giải thích với người đồng đội kia: “Ngươi không phải ở trong đội bốn của chúng ta nên không biết, nhớ ngày đó đại nhân chúng ta vẫn là đội trưởng đội bốn, ngài nói với chúng ta rằng khi tham gia vào quân ngũ thì thứ quan trọng nhất chính là hai cái đùi. Thắng, chúng ta có thể truy đuổi thát tử, đuổi kịp mới có thể giết địch; Bại, thát tử đuổi chúng ta chạy, chúng ta chỉ có chạy nhanh thì mới có thể bảo toàn được tính mạng.”
Người đồng đội kia nghe xong lập tức gật đầu nói phải.
Vẻ mặt Vương Thất lại trở nên nghi hoặc mà lẩm bẩm: “Mụ nội nó, ngươi nói xem hắn ta làm sao biết được đại nhân chúng ta chạy giống tế cẩu vậy?”
Lần này, người đồng đội không dám gật đầu nữa.
A Mạch bán mạng như vậy, quả thật khiến cho quan quân trong doanh không thích ứng nổi, tuy biết đại nhân nhà mình nhờ liều mạng mà thành danh, nhưng dù sao cũng là chủ tướng của một doanh, nói gì thì cũng phải chú trọng tới hình tượng của mình chứ, đâu đáng để cả ngày đi theo đám tân binh múa đao lộng thương rồi lại ra ngoài chạy việt dã như thế?
Nhìn A Mạch trên giáo trường múa đại đao vù vù, Vương Thất không thể không tiếc hận thở dài: “Ai, thật đáng tiếc đại nhân chúng ta lại phụ lại thân thể nho nhã của mình.”
Lý Thiếu Hướng lại không để những lời đó của Vương Thất trong lọt vào tai, chỉ nhìn Hắc Diện đang cởi trần trùng trục cùng đám lính thao luyện phía xa xa, tự nhủ: “Nếu như tất cả đều không sợ lạnh giống như anh ta thì tốt biết mấy, ta đỡ phải tốn bao nhiêu là vải bông a.”
Từ Tĩnh đang chắp tay đứng phía sau hai người, nghe bọn họ nói chuyện theo kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia như thế, hừ lạnh một tiếng nói: “Hai tên tiểu tử này, không thao luyện cho tốt, lại nhàn rỗi đứng ở chỗ này mà tốn hơi thừa lời!”
Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng vội vàng quay đầu lại, thấy là Từ Tĩnh, đều toét miệng cười nói: “Từ tiên sinh.”
Từ Tĩnh ngạo mạn khẽ gật đầu, vẫn nhìn A Mạch trên giáo trường ở đằng xa, nói: “Yến tước an tri hồng hộc chi chí!”(1)
Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng nhìn nhau, Lý Thiếu Hướng láu cá, hạ thấp người hướng Từ Tĩnh cười cười, có chút ngượng ngùng nói: “Trong trướng của ta vẫn còn vài thứ chưa tính toán xong, ta phải đi kiểm tra lại một chút, Từ tiên sinh, ta đi trước!”
Vương Thất há hốc miệng nhìn bóng dáng Lý Thiếu Hướng vội vã rời đi, nhất thời nói không ra lời, qua một lúc lâu đột nhiên nhảy dựng lên, kêu lớn: “Ai nha! Đại nhân giao nhiệm vụ cho ta phải thay đổi tiếng lóng cho đội thám báo, thế mà ta lại quên mất, Từ tiên sinh, ta đi trước đây!”
Vương Thất nói xong, cũng vội vàng lỉnh mất.
Khi A Mạch cùng Trương Sỹ Cường trở về, bên giáo trường cũng chỉ còn lại một mình Từ Tĩnh vẫn chắp tay đứng nhìn như trước. A Mạch luyện tập xong, đầu đầy mồ hôi, dùng khăn lau qua trên mặt, rồi tiện tay ném ra phía sau cho Trương Sỹ Cường, tiến lên hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh đến tìm ta?”
Từ Tĩnh khẽ vuốt râu, xoay người cùng A Mạch quay về hướng doanh trướng, nói: “Đại doanh vừa tới đưa tin, Vệ Hưng lệnh cho chủ tướng các doanh ngày hai mươi hai tháng chạp tề tụ tại đại doanh để nghị sự.”
“Đi đại doanh sao?” A Mạch dừng chân một chút, kinh ngạc nói: “Mọi người không phải mới từ đại doanh trở về sao? Sao đã lại cho gọi vậy? Chúng ta ở gần thì không nói làm gì, nhưng có những doanh cách đại doanh đến vài trăm dặm, đang giữa mùa đông lạnh như thế này lại ép nhau đi lại như vậy! Vệ Hưng rốt cuộc muốn làm gì?”
Từ Tĩnh thản nhiên nói: “Mặc kệ Vệ Hưng muốn làm gì, ngươi cứ đi là được.”
A Mạch cười tự giễu: “Đương nhiên, ta chỉ là chủ tướng nho nhỏ của một doanh, nào dám không đi.”
Từ Tĩnh nhướn mắt nhìn A Mạch một cái, do dự một chút rồi dặn dò: “Lần này ngươi đi đại doanh, ngàn vạn lần không được lén đi tìm Đường Thiệu Nghĩa.”
A Mạch cười nói: “Tiên sinh quá lo, chớ nói lần này ta không được tìm anh ta, mà từ lần trước ta đã không lén đi tìm rồi.”
Vệ Hưng vốn kiêng kị Đường Thiệu Nghĩa, A Mạch sao lại không biết điều này, hơn nữa, thấy Trương Sinh đến tìm nàng uống rượu mà Đường Thiệu Nghĩa lại chưa từng đến, thì có lẽ trong lòng anh ta cũng đã hiểu rất rõ rồi.
Từ Tĩnh vuốt râu không nói, sau một lúc lâu đột nhiên nói: “A Mạch, ngươi khá lắm,” Ông ta ngừng một chút, lại nhắc lại: “Khá lắm.”
A Mạch khẽ giật mình, lập tức cười nói: “Đa tạ tiên sinh khích lệ.”
Từ Tĩnh thản nhiên cười cười, không nói tiếp nữa.
Ngày hai mươi mốt tháng chạp, A Mạch mang theo Trương Sỹ Cường xuất phát đi đại doanh. Một ngày trước, tuyết rơi rất nhiều, trận tuyết lớn như phủ lên dãy núi Ô Lan một chiếc áo pha lê trong suốt, vô cùng tráng lệ. Đường núi bị trận tuyết lớn phủ kín, may mà A Mạch cùng Trương Sỹ Cường đều cưỡi ngựa, mặc dù không thể phi nhanh, nhưng dù sao vẫn còn hơn là đi bộ.
Trương Sỹ Cường cưỡi ngựa đi bên cạnh A Mạch, nhìn con đường bị tuyết lấp kín, không hiểu vì sao lại nghĩ tới chuyện cũ ở thành Dự Châu, cũng là ngày này năm trước, cũng một trận tuyết lớn như vậy, hai người trên đường đi Dự Châu, sinh tử khó liệu.
“Đại nhân, ngài nói ở thành Dự Châu tuyết cũng lớn như vậy sao?” Trương Sỹ Cường đột nhiên hỏi
A Mạch nghe vậy ngẩng đầu, khuôn mặt trầm tĩnh nhìn về phía xa xa, nơi những ngọn núi chồng chất, hồi lâu không nói gì. Trong lòng Trương Sỹ Cường âm thầm hối hận, tự trách mình nói chuyện lung tung, đang yên đang lành tự nhiên nhắc đến thành Dự Châu làm gì, nhưng A Mạch đã quay đầu lại nhìn anh ta khẽ cười nói: “Tuyết trong núi xem ra lớn hơn ở thành Dự Châu một chút.”
Dự Châu, cũng vừa sau một trận tuyết lớn.
Trong thành, ngã tư đường là một màu trắng thuần khiết. Trong phủ Thôi Diễn, lớp tuyết đọng đã sớm được quét tước sạch sẽ, một thị nữ mặc áo xanh ôm một chiếc áo choàng lông chồn từ xa đi đến, gấu váy hất tung trên nền đá không lưu lại chút dấu vết. Thị nữ áo xanh đi thẳng ra ngoài vườn, chỉ khẽ gật đầu với thị vệ rồi lập tức đi thẳng vào trong vườn, khi đến trước cửa một gian phòng mới dừng lại một chút, đổi chiếc áo choàng sang tay khác, rồi vén rèm cửa lên.
Trong phòng, Thôi Diễn cùng Thường Ngọc Thanh đang diễn tập đối chiến trên một sa bàn nhỏ. Thôi Diễn nghe thấy tiếng động, liền ngẩng đầu lên, thấy thị nữ áo xanh kia ôm áo khoác từ bên ngoài tiến vào, liền trầm giọng phân phó: “Cứ để sang bên cạnh, khi nào Thường đại ca rời đi thì sẽ mặc.”
Giọng của Thôi Diễn rất khàn, một đao của A Mạch mặc dù không thể kết liễu tính mạng của anh ta, nhưng lại đả thương đến cổ họng. Về sau, mặc dù vết thương đã lành, nhưng vốn là một giáo úy thiếu niên vô cùng hăng hái, giờ trên cổ lúc nào cũng buộc một cái cái khăn màu đen, nói cũng ít đi rất nhiều.
Thị nữ khẽ đáp “Vâng”, rồi cúi đầu đứng sang một bên.
Sắc mặt Thường Ngọc Thanh sau khi bị thương vẫn còn tái nhợt, tầm mắt từ trên sa bàn khẽ nâng lên, nhìn lướt qua áo khoác trên tay thị nữ, không chút để ý hỏi: “Đang yên đang lành mang áo khoác cho ta làm gì?”
Thôi Diễn ngắn gọn đáp: “Trời lạnh.”
Thường Ngọc Thanh không khỏi bật cười, lại khiến phổi khẽ đau, nhịn không được bật ra vài tiếng ho.
Thôi Diễn thấy thế vội vàng kêu lên: “Từ Tú Nhi, nhanh lên…”
Không kịp đợi anh ta nói hết lời, thị nữ áo xanh kia đã bưng chén trà nóng đến, đưa cho Thường Ngọc Thanh, nhẹ giọng nói: “Tướng quân mau uống ngụm trà nóng đi.”
Thường Ngọc Thanh lại không tiếp trà, chỉ khoát tay cho Từ Tú Nhi lui ra, trấn áp cơn ho khan quay lại nhìn Thôi Diễn cười nói: “Chẳng lẽ cứ trời lạnh là lại bọc hết áo này áo nọ cho ta mỗi khi ra ngoài, chẳng hóa ra lại khiến cho người khác chê cười.”
Thôi Diễn oán hận nói: “Nếu ta gặp được Vệ Hưng, chắc chắn sẽ không cho anh ta được chết tử tế!”
Thường Ngọc Thanh nghe vậy cười, nói: “Nếu ngươi gặp được Vệ Hưng, nhất định phải cẩn thận, người này một thân nội gia công phu không thể khinh thường.”
“Thế thì sao?” Thôi Diễn không phục nói,“Có địch nổi hàng ngàn, hàng vạn thiết kỵ của chúng ta không?”
Thường Ngọc Thanh khóe miệng hơi nhíu lại, cúi đầu nhìn sa bàn không nói gì.
Thôi Diễn lại nói: “Đại ca, năm sau chúng ta sẽ đi Thái Hưng. Nguyên soái đã an bài…”
Thường Ngọc Thanh đột nhiên đưa mắt nhìn Thôi Diễn, khiến nửa sau câu nói của Thôi Diễn mắc lại trong cổ họng. Thôi Diễn quay đầu nhìn về phía Từ Tú Nhi, Từ Tú Nhi không đợi anh ta phân phó, liền khẽ cúi đầu, khụy gối thi lễ với Thôi Diễn cùng Thường Ngọc Thanh rồi khẽ khàng lui ra ngoài.
Đợi nàng đi khuất, Thường Ngọc Thanh mới nhẹ giọng hỏi: “Nàng đó là thị nữ do Thạch Đạt Xuân đưa tới cho ngươi?”
Thôi Diễn gật đầu nói: “Đúng vậy, lúc ấy ta bị thương nặng không thể cử động, nguyên soái sợ thân binh tay chân thô kệch không làm được việc liền sai Thạch Đạt Xuân tìm một thị nữ cho ta, Thạch Đạt Xuân liền đem tặng nàng đến đây, người cũng thông minh linh hoạt, biết tâm tư người khác.”
Thường Ngọc Thanh thản nhiên nói: “Biết tâm tư người khác cũng là người Nam Hạ, không thể không đề phòng.”
Thôi Diễn gật gật đầu, nói: “Ta nhớ kỹ.” Anh ta ngừng lại một chút, lại nhịn không được hỏi: “Đại ca, Vệ Hưng có giống như lời nguyên soái nói là sẽ tấn công Thái Hưng sao?”
Thường Ngọc Thanh khẽ cười cười, nói: “Nếu như là Thương Dịch Chi trước đây, sợ là sẽ không, nhưng đổi lại là đại tướng quân Vệ Hưng mới được sắc phong bây giờ, thì có đến tám chín phần mười là có. Lương thảo ở Bào Mã Xuyên bị thiêu cháy, anh ta coi thường Chu lão tướng quân không có lương thực, lại muốn tăng thể diện trước mặt người khác mà yên ổn tồn tại trong quân Giang Bắc, nên e rằng muốn làm anh hùng cứu viện Thái Hưng.”
Thôi Diễn lo nghĩ, ngữ khí kiên định nói: “Lúc này đây, nhất định phải khiến cho quân Giang Bắc có đi mà không có về, một kẻ cũng không thể lưu lại!”
Nghe anh ta nói như vậy, trong đầu Thường Ngọc Thanh lại đột nhiên thoảng hiện lên một bóng dáng cao cao, gầy yếu, đuôi lông mày nhịn không được khẽ nhướn lên, cười nhạo nói: “Chưa hẳn!”
Thôi Diễn sửng sốt, có chút khó hiểu nhìn về phía Thường Ngọc Thanh, Thường Ngọc Thanh cũng không nói toạc ra, chỉ khẽ nhếch khóe miệng cười cười, nói: “Chỉ cần nhớ rằng nếu gặp lại Mạch Tuệ chớ để xảy ra chuyện là được!”
Thôi Diễn yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, đột nhiên hỏi: “Nếu ta giết nàng, đại ca có trách ta không?”
Thường Ngọc Thanh ngẩn ra, lại nhìn vẻ mặt thành thật của Thôi Diễn, bật cười nói: “Ngươi không giết nàng, chẳng lẽ muốn bắt giam nàng?”
Thôi Diễn nghe Thường Ngọc Thanh nói như thế liền nhẹ lòng, không khỏi cũng bật cười nói: “Ta còn sợ đại ca có ý với nàng, chẳng may nếu trên sa trường gặp nàng, thì giết hay không giết đây!”
Thường Ngọc Thanh chậm rãi thu lại ý cười, nghiêm mặt nói: “A Diễn, ngươi phải nhớ cho kỹ, ta là quân nhân, trên sa trường chỉ có hai quốc gia đối địch, chứ không có tư tình!”
Thôi Diễn nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, nặng nề mà gật đầu.
Những điều Thường Ngọc Thanh đoán quả nhiên đúng, Vệ Hưng năm trước triệu tập chủ tướng các doanh quân Giang Bắc tề tụ tại đại doanh là để thương thảo kế hoạch giải cứu thành Thái Hưng trong năm sau. Nhậm chức đại tướng quân Giang Bắc sau khi Đường Thiệu Nghĩa tập kích bất ngờ vào đại doanh tích trữ lương thảo của quân Bắc Mạc, Vệ Hưng quả thật rất cần một chiến công hiển hách để chứng minh chính mình.
Nam Hạ, tháng hai, năm thứ tư theo lịch Thịnh Nguyên, Vệ Hưng không để ý đến phản đối của đám người Đường Thiệu Nghĩa, hạ quân lệnh đại tướng quân, lệnh cho quân Giang Bắc phân bố ở núi Ô Lan lặng lẽ quy tụ tại phía đông nam của núi Ô Lan.
Tháng ba, các bộ binh doanh của quân Giang Bắc, cung nỏ doanh cùng kỵ binh doanh của Đường Thiệu Nghĩa, tổng cộng hơn tám vạn người tụ tập lại, vượt qua Liễu Khê, Hán Bảo thẳng tiến cứu viện thành Thái Hưng.
Thành Thái Hưng, bị Bắc Mạc vây khốn gần hai năm, rốt cục đã nghênh đón một đội quan chi viện lớn nhất.
Quân coi giữ thành Thái Hưng là hơn ba vạn người, cùng hơn tám vạn quân Giang Bắc, tổng cộng lên đến mười một vạn quân, trong ngoài giáp công đại quân Bắc Mạc có thể sẽ đem lại một hiệu quả rất lớn. Mà tám vạn đại quân Bắc Mạc của Chu Chí Nhẫn, lương thảo đã bị Đường Thiệu Nghĩa thiêu sạch, gần nửa năm nay đều trong tình trạng thiếu lương, chỉ trông cậy vào sự điều phối lương thảo của các thành trì khác mà Bắc Mạc chiếm đóng để miễn cưỡng duy trì, chỉ cần cắt đứt lương thảo của ông ta, như vậy, đại quân Bắc Mạc không cần tấn công cũng tự loạn.
Có vẻ như hết thảy mọi việc thoạt nhìn đều giống như Vệ Hưng đang làm một cuộc mua bán hàng giả mà không phải lo lắng chuyện bồi hoàn, không biết rằng, phía trước đang có một tấm lưới rất lớn đang giăng sẵn chờ quân Giang Bắc nhảy vào, mà Trần Khởi, người giăng võng thật sự đã chờ từ lâu lắm rồi.
———————–
Chú thích:
1- Yên tước an tri, hồng hộc chi khí: Yến: chim én. Tước: chim sẻ. An: làm sao? Tri: biết. Hồng hộc: chim hồng và chim hộc, hai loại chim rất khỏe, bay cao và xa. Chí: chí khí.
Câu trên có nghĩa là: Chim én và chim sẻ làm sao biết được cái chí khí của chim hồng và chim hộc.
Ý nói: Kẻ tiểu nhân làm sao biết được chí khí của người quân tử anh hùng.
/156
|