Sau một tối ních đầy bụng thức ăn, Vô Phong lăn ra ngủ như chết khỏi cần biết trời đất trăng sao, ngay cả ác mộng cũng không thể len vào quấy quả. Sáng hôm sau, điện thoại đổ chuông báo thức năm lần bảy lượt mới bậy được mí mắt của hắn. Nhưng chăn êm nệm ấm luôn là kẻ thù của thời gian, nhất là ở xứ Biên Ngoại thành lạnh lẽo. Được chúng ôm ấp vỗ về, Vô Phong mấy lần quờ tay định đập tan điện thoại. Lăn lê bò toài chán, tên tóc đỏ trở dậy, cổ họng chốc chốc ợ lên vị chua lè. Cảm thấy bê trễ biếng nhác đã đủ, hắn khoác áo rời phòng.
Trên đường xuống tầng một tòa nhà, Vô Phong liếc ra những ô cửa sổ bên cạnh cầu thang. Bên ngoài mưa tuyết lất phất, trời sậm sụi mây xám không một ánh nắng. Dưới khuôn viên, đám người giúp việc đang xúc tuyết để những trảng hoa không bị vùi lấp, số khác thì lau dọn các biệt thự bỏ trống. Ngoài cổng, xe ngựa chốc chốc tới lui mang theo củi, thực phẩm, gia vị, rượu… tất cả đủ dùng trong nửa tháng hoặc cả tháng, tùy thuộc vào thời tiết hay tình trạng nguồn cung. Một ngày của họ Cát Giá trong tháng 2 thường là vậy.
Biên Ngoại thành ít công trình cao tầng nên đứng từ đây, Vô Phong có thể trông ra một phần thành phố. Phía xa, tiệm hàng quán xá mở cửa trong bình lặng, không nhạc nhẽo quảng cáo ầm ĩ giống những nơi mà hắn từng đi qua. Phố sá chỉ có tuyết, vỉa hè im lìm và những hàng cây bạch dương khẽ đung đưa; người qua lại ít, họ đi một mình hoặc dắt theo dã yến. Ngoài gió từ vùng cực bắc thi thoảng tràn xuống cất lên mấy tiếng hú, cả thành phố vận động trong yên ắng và chậm rãi tựa tảng băng trôi. Nó là chốn nghỉ chân lý tưởng, là bàn tay vỗ về kẻ từng sống một cuộc đời nhiều xáo động hay kẻ đang mải miết chạy trốn như Vô Phong.
Dưới chân cầu thang, ông Quản Gia đứng sẵn như thể đã đợi tên tóc đỏ khá lâu. Ông thông báo rằng Mi Kha không có nhà, cô ả ra ngoài từ sớm rồi dặn ông tiếp đãi Vô Phong chu đáo. Hắn có thể ăn ngủ và gọi phục vụ bất kỳ giờ nào. Sau đấy ông Quản Gia dẫn hắn tới nhà ăn, mang lên bánh mì, mứt cam, súp hành và một tách súc-cù-là nóng màu nâu óng. Mọi người đã dùng bữa từ lâu, chỉ Vô Phong là chưa. Phòng ăn đã trở lại vẻ tươm tất, không còn cái thê lương khóc thương con trai của bà Tháp Tước. Nhấp ngụm súc-cù-là nóng thơm phức, Vô Phong tỉnh người, trong phút chốc có cảm giác mình là ông chủ biệt thự hưởng đời sống an nhàn sung túc.
-Mọi tài liệu mà Múy yêu cầu, tôi đã đặt trong phòng làm việc. – Ông Quản Gia nói – Múy có thể đi lại tự do trong khuôn viên, nhưng nếu cần thiết phải ra ngoài, xin hãy báo một tiếng, đích thân tôi sẽ dẫn đường cho Múy.
Đương mơ mộng, Vô Phong rơi tọt xuống đất, nhận ra mình chung quy là tội phạm. Ngay lúc này, hắn có cảm giác tai mắt của Phi Thiên quốc hiện diện khắp nơi, thậm chí hòa tan vào không khí rồi sục sạo khắp ngõ ngách thế giới. Khoảnh khắc tận hưởng đồ ăn thức uống này chỉ là một khoảng lặng trong cuộc đời trốn nã của hắn. Còn phải chạy đến bao giờ? – Hắn tự hỏi. Hai năm, mười năm, cả đời? – Các viễn cảnh u ám làm Vô Phong ngán ngẩm, hắn cần tìm cái gì đó xốc lại tinh thần. Hắn buột miệng hỏi ông Quản Gia:
-Hôm qua, tôi nghe Mi Kha kể về anh trai và lần Lực Lượng Mù Thủy tấn công thành phố. Chuyện đó cụ thể thế nào?
Ông Quản Gia trả lời ngay không chút do dự:
-Hồi đó ngài Tháp Tước đã mất, họ Cát Giá đi xuống trầm trọng. Dòng họ hết tiền, cả khu biệt thự chỉ còn mình tôi làm phục vụ. Các chiến binh bỏ đi vì không có lương, hệ thống phòng thủ không người quản lý, đạn dược vũ khí ngày càng hao gỉ. Ba năm sau ngày ngài Tháp Tước mất, vào một đêm đông, bọn Mù Thủy tấn công Biên Ngoại thành để trả thù. Trong một tháng, chúng khủng bố tàn sát người dân, cưỡng hiếp đàn bà con gái, thiêu cháy quá nửa thành phố. Quân đội Thâm Hàn quốc bị cầm chân bên ngoài và không thể vào nội đô. Băng Hóa quốc bỏ rơi chúng tôi, họ thấy không cần thiết phải cứu một dòng họ đã suy tàn. Rồi bọn Mù Thủy ập tới, những chiến binh họ Cát Giá ngã xuống, ai cũng nghĩ chúng tôi hoặc phải tha hương hoặc phải diệt vong. Đúng lúc đó cậu chủ Hàn Hà đứng lên, cầm kiếm ra ngoài chiến đấu…
Ông Quản Gia ho khan, không giống bị lạnh, mà như đang phấn khích vì được kể một câu chuyện vốn bị chôn chặt quá lâu. Đằng hắng mấy tiếng, ông tiếp tục:
-…cậu chủ mới mười sáu tuổi, đánh kiếm giỏi nhưng chưa từng thực chiến. Cậu ra lệnh tôi ở lại bảo vệ bà chủ và tiểu thư, tự mình chiến đấu. Những gì tôi sắp nói sau đây đều được nghe người ta kể lại, không phải bản thân tôi chứng kiến. Người ta bảo ngay trận đấu đầu tiên, cậu chủ bị thương nhưng vẫn đánh tới khi đối thủ ngã gục. Cậu tiếp tục chiến đấu, hết kẻ này đến kẻ khác, đánh khắp các tòa nhà, khu phố, nghỉ mệt uống nước lấy hơi lại đánh tiếp. Từng người, từng người đàn ông trong thành phố đứng dậy đi theo cậu bé mười sáu tuổi đó. Chục người, trăm người rồi hàng nghìn người… không đợi quân đội, họ mặt đối mặt bọn Mù Thủy, chiến đấu, trả lại tất cả những gì chúng gây ra. Người ta bảo bọn Mù Thủy sợ hãi trước cậu chủ, giẫm đạp lên nhau chạy ra biển rồi chết cóng, xác nổi lềnh lềnh hôi thối cả tháng trời. Sau cuộc chiến, cậu chủ nằm viện, thương tích chằng chịt, còn hết thảy dân chúng thành phố thề trung thành với họ Cát Giá. Trong năm tháng tối tăm nhất, cậu chủ giúp chúng tôi tìm lại mọi vinh quang kiêu hãnh, ngay cả ngài Tháp Tước khi còn sống cũng không làm được như vậy.
Giả như một người khác nghe chuyện, họ sẽ cười thầm và nghĩ ông Quản Gia đang phóng đại hóa theo kiểu cách thường thấy ở người già. Nhưng Vô Phong tin không sót một chữ, thậm chí nghĩ rằng người ta đã nói giảm nói tránh ít nhiều về Quỷ Nhãn. Hắn trầm ngâm:
-Ông nghĩ gì về Quỷ… ý tôi là Hàn Hà? Nếu biết kẻ giết Hàn Hà, ông sẽ làm gì?
-Tôi sợ cậu chủ, nhưng là vì đôi mắt người chết, không phải nhân cách của cậu. – Ông Quản Gia đáp – Cậu luôn một mình, không nhờ ai giúp đỡ, không bao giờ tâm sự nửa lời. Tôi nghĩ cậu ra đi không phải vì bị ghét bỏ, mà bởi cậu tin rằng tiểu thư Mi Kha sẽ gánh vác được dòng họ. Thưa Múy, tôi luôn thờ phụng Nữ Thần Tiên Tri, luôn thực hiện những điều răn. Nhưng tôi cũng là người phương bắc, nữ thần báo thù Nê Mê luôn chảy trong huyết quản của tôi. Nợ tiền có thể bỏ qua nhưng nợ máu phải trả, đây là phương bắc, thưa Múy.
Trước đôi mắt nghiêm cẩn mà sắc bén của ông Quản Gia, tên tóc đỏ tự trách mình đi quá đà. Hắn liền đổi chủ đề:
-Ông còn đánh kiếm được không? Mỗi ngày tôi cần tập luyện, có người đánh cặp càng tốt!
-Rất sẵn lòng và bất cứ lúc nào, thưa Múy. – Ông Quản Gia gật đầu.
Bữa sáng khá nhiều nhưng Vô Phong nốc hết để khỏi phải ló mặt xuống phòng ăn vào ban trưa. Công việc sắp tới toàn chữ nghĩa giấy tờ, một chút xao nhãng cũng làm hắn tốn thời giờ quý báu, nhất là cái xao nhãng nổi lên từ dạ dày. Hắn cần no bụng, tập trung và yên tĩnh.
Tại phòng làm việc cũ của Mi Kha, giấy tờ được đặt ngay ngắn trên bàn và chia làm ba chồng, mỗi chồng cao trên dưới nửa mét. Hết thảy chúng có màu cũ kĩ, giấy rách mép lề quăn queo. Ấy là chưa kể những thẻ dữ liệu xếp ngay ngắn trong khay chờ được cắm vào máy chiếu. Mới liếc qua, Vô Phong đã nản, lòng mong lắm mình có một phần mười trí tuệ của Hỏa Nghi. Lần nào gặp sách vở chữ nghĩa, hắn cũng nhớ thương ông bạn da diết. Tần ngần một lúc, hắn bước vào bàn rồi vớ lấy tập hồ sơ gần nhất cùng lớp bìa da đã nổ phân nửa. Hắn lật lớp bìa, mùi mốc lẫn mùi bụi ram mũi xộc lên như một lời chào hỏi thiếu thân thiện. Phía dưới bụi mốc là những dòng thế này:
Đề Án Mắt Trắng (tuyệt mật)
Định dạng: Bản Sao (Số 1)
Chỉ lưu hành nội bộ
Nghiêm cấm di chuyển tài liệu khỏi Hầm Bom khi chưa được cho phép. Mọi hành vi sao chép, di chuyển, nghiên cứu, buôn bán tài liệu đều được tính là tội phản quốc
Mới đọc trang đầu, Vô Phong đã cần tra cứu. Hắn mở máy chiếu, gõ bàn phím ảo nhập chữ “Hầm Bom” vào ô tìm kiếm. Hàng loạt thông tin xuất hiện nhưng chỉ một kết quả hữu ích. Theo nguồn này, Hầm Bom là hệ thống boong-ke dành cho hoàng gia trong trường hợp khẩn cấp đặt tại phía nam Băng Hóa quốc. Sau này boong-ke không phù hợp, chính phủ chuyển đổi nó thành nơi lưu trữ tài liệu mật. Không có nhiều hình ảnh về Hầm Bom, cùng lắm chỉ có dăm ba bức ảnh chụp những cánh cửa kim loại im lìm nằm sâu dưới lòng đất, đóng chặt trước mọi ánh nhìn. Vô Phong không hiểu tại sao hay bằng cách nào mà họ Cát Giá rút được tài liệu từ một nơi như vậy.
Nhìn lại bàn làm việc đầy ú ụ, Vô Phong quyết định xử lý đống giấy tờ trước, các thẻ dữ liệu có thể sao lưu và xem xét sau. Hắn tiếp tục đọc tập hồ sơ ban nãy, tay lật từng trang giấy mềm nhũn ố vàng. Nhiều điều hắn đã biết như nguyên nhân dẫn đến đề án, chương trình tối ưu hóa cá nhân nhằm tạo ra các chiến binh siêu việt. Nhưng có một số thứ mà hắn nghe lần đầu, chẳng hạn thế này:
“Mắt Trắng thuộc năm loại vũ khí cổ xưa bao gồm: Cánh Tay Quan Tòa, Chén Bất Tử, Cân Đảo Mệnh, Quả Lắc Đen và Mắt Trắng. Năm vũ khí này không thuộc về loài người, không rõ ai sáng tạo, có sức mạnh vượt xa tầm hiểu biết của con người, vào thời phi cơ giới có khả năng thay đổi cục diện cuộc chiến hoặc chính trị. Theo nhiều tài liệu đáng tin cậy cùng những nguồn tin xác thực, Chén Bất Tử và Quả Lắc Đen bị phá hủy vào thời đại phi cơ giới (khoảng năm 6000). Cánh Tay Quan Tòa biến mất vào năm 6497, sau khi Bát Đại Hộ Vệ dùng nó chống lại Quỷ Vương. Cân Đảo Mệnh vĩnh viễn nằm sâu trong phòng bí mật của Thánh Vực, không bao giờ xuất hiện lại. Bốn thứ kể trên không thể chế tạo, ngoại trừ Mắt Trắng…”
Những dòng tiếp theo mô tả cấu tạo, đặc điểm cũng như sức mạnh của Mắt Trắng. Tuy đã nếm trải đầy đủ từ Quỷ Nhãn nhưng nhờ chúng, tên tóc đỏ có dịp nghiên cứu kĩ hơn đồng thời giải đáp vô số thắc mắc mà lúc trước hắn chưa hiểu. Theo mục đích ban đầu, Đề Án muốn tạo ra một lực lượng đa nhiệm từ chiến đấu, hậu cần, trinh thám tới đột nhập ám sát. Chúng bớt tốn kém hơn, bí mật hơn so với vũ khí hủy diệt diện rộng. Nhưng bởi triệu chứng hoại tử trên cơ thể vật chủ Quỷ Nhãn, đề án bị tạm dừng, tái khởi động khi bà Tháp Tước quyết định thí nghiệm lần nữa rồi đóng sổ hoàn toàn. Theo các nhà khoa học chủ trì, Đề Án Mắt Trắng không có bất cứ cơ may nào như họ đã viết:
“…kết quả nghiên cứu quá phụ thuộc tính may rủi. Không thể chắc chắn các thai nhi mang theo Mắt Trắng hay không. Cũng không có câu trả lời mang tính dẫn chứng – lập luận – có hệ thống logic, để giải thích trường hợp hoại tử. Trong vấn đề này, không thể tìm một cầu nối thích hợp giữa khoa học và phép thuật. Chúng ta buộc phải chấp nhận rằng những cá thể ưu việt như Liệt Giả của Phi Thiên quốc là một phép màu của Vạn Thế, hay sâu xa hơn là do bàn tay Đấng Sáng Tạo. Đề án này chưa đủ sức chạm tới thánh thần…”
Kết thúc mục giới thiệu, hồ sơ đi vào phần đánh giá tổng quát cuộc thí nghiệm. Nó bắt đầu từ năm 7489, giữa lúc Liệt Giả của Phi Thiên quốc nổi lên như chiến binh mạnh mẽ nhất. Đề án cần thế hệ chiến binh mới sở hữu thứ gì đấy giống Liệt Giả. Một mục tiêu mơ hồ nhưng bị ép buộc phải có vì tình trạng chiến tranh. Họ Cát Giá tự nguyện tham gia đề án bất chấp mọi rủi ro. Vô Phong tin rằng đây mới là nguyên nhân khiến dòng họ đi xuống chứ không phải chiến tranh hay Lực Lượng Mù Thủy. Cứ mười ca thí nghiệm thì phân nửa thất bại, số còn lại què quặt do hậu quả bùa phép hoặc chất độc hóa học. Họ Cát Giá mất một lượng lớn trẻ sơ sinh lẫn người kế cận. Sự xuống cấp là điều hiển nhiên.
Điều đáng nói là sau khi đề án đóng sổ hoàn toàn, một số gia đình họ Cát Giá tự thí nghiệm con em mình mặc cho máy móc thiếu thốn. Họ quá nóng lòng đòi lại vinh quang bất chấp chính phủ can ngăn. Quan hệ giữa Cát Giá và Băng Hóa quốc vì vậy mà tồi tệ. Nó lý giải tại sao vào ngày Lực Lượng Mù Thủy tấn công Biên Ngoại thành, Băng Hóa quốc hoàn toàn bỏ mặc họ Cát Giá. Trong những cuộc thí nghiệm tự phát kể trên, đa phần thất bại thê thảm, chỉ một số rất ít thành công như anh em An Lí – Át Sa nhưng cũng mắc chứng hoại tử. Tên cả hai đứa trẻ đều có trong hồ sơ.
Lật đi lật lại phần tổng quát, Vô Phong chẳng thấy dòng nào đề cập Mi Kha. Có lẽ người soạn tài liệu không biết cô ả là mẫu vật thành công nhất, hoặc có thể đây chỉ là phần mở đầu nên chưa đến. Tên tóc đỏ tiếp tục đọc, ghi chép vào máy chiếu cá nhân, đọc, ghi chép, tra cứu tham khảo thông tin… Buổi sáng lạnh lẽo cứ thế trôi qua. Hắn không quan tâm màn nắng ban trưa sà xuống cửa sổ, rọi những tơ bụi vẩn vơ báo hiệu một tiết trời chiều ấm áp sắp đến. Kể cả trời chiều đẹp thật, hắn cũng không có thời gian ngắm nghía.
Mãi khi không gian xâm xẩm tối cần ánh điện, Vô Phong mới nhận ra mình đã mài quần trên ghế gần bảy tiếng đồng hồ. Nhận thức thời gian trở lại, lũ phiền toái mang tên “ê mông”, “mỏi mắt”, “nặng đầu” rồi “đói” thi nhau hò hét kêu gọi Vô Phong bỏ cuộc. Hắn bỏ cuộc thật. Hồ sơ hội tụ kiến thức y học và công thức sinh học, diễn giải bằng thứ ngôn ngữ khó hiểu nhất mà loài người từng phát minh. Kinh khủng hơn cả là khái niệm bùa phép với hàng tấn hình vẽ, hàng tấn chú ngữ cổ xưa mà hễ đọc lên là trẹo ngoéo hai hàm răng. Để hiểu sơ mớ bùng nhùng trên, tên tóc đỏ cần phụ tá đắc lực cỡ Hỏa Nghi hoặc Tiểu Hồ. Nói trắng ra, hắn cần cả hai người họ. Nhưng với tất cả kiến thức cao siêu này, Vô Phong gói gọn chúng bằng từ “thất bại”. Cho tới trước thời Mi Kha, mọi bùa phép cùng khoa học đều không thể khống chế xác suất xuất hiện Mắt Trắng ở thai nhi, càng không thể giải thích cũng như ngăn chặn sự hoại tử.
Tuy nhiên Vô Phong đã ghi chép những phần quan trọng nhất (hoặc hắn nghĩ là quan trọng nhất). Giấy tờ vẫn ngồn ngộn. Còn đó hai phần ba chặng đường chờ hắn đi nốt. Tên tóc đỏ vặn vẹo cơ hông rồi bước xuống tầng một biệt thự. Hắn cần ăn rồi dạo bộ cho khuây khỏa.
Nhưng Mi Kha vẫn chưa về, dường như là quá bận rộn với hội đồng thành phố. Và bởi cô ả vắng mặt nên chẳng ai kìm hãm được bà Tháp Tước. Mới cách phòng ăn chục bước chân mà Vô Phong đã nghe thấy tiếng bà già ca cẩm. Thi thoảng bà sụt sùi khóc thương rồi che giấu vụng về bằng cách gào lên hỏi tại sao công chúa cục cưng của bà chưa về. Ngán ngẩm, Vô Phong quay gót. Hốt nhiên phía sau hắn vang lên tiếng chạy bình bịch như muốn trốn khỏi bà Tháp Tước càng nhanh càng tốt. Hắn ngoảnh lại, nhận ra đấy là hai anh em An Lí – Át Sa. Thấy tên tóc đỏ, chúng vội rảo chân cúi đầu chào lễ phép rồi hùng hục chạy tiếp. Vô Phong liền gọi:
-Này, hai đứa! Gượm nào, ta nhờ chút!
Lũ trẻ dừng chân, sắc mặt hớt hải như sợ bà Tháp Tước sẽ tới đây bắt chúng quay lại bàn ăn bất cứ lúc nào. Vô Phong nhe răng cười:
-Ta không bảo hai đứa trở vào kia… – Hắn hất đầu về phía phòng ăn – …ta chỉ muốn hỏi ở đây có phòng luyện tập không? Phòng tập kiếm ấy? Nếu có thì dẫn ta đi nhé!
Bọn nhóc nhìn nhau, trao đổi bằng ánh mắt, thì thào mấy câu rồi gật đầu ưng thuận. Theo chân hai đứa, Vô Phong ra ngoài tòa nhà bằng cửa sau. Lúc này trời nhá nhem tối, các cột đèn cực quang đang thắp sáng khu biệt thự bằng những dải màu cổ tích đầy mê hoặc của nó. Nhưng chỉ một phần nhỏ khuôn viên được hưởng thụ ánh sáng. Phần còn lại – nơi hai đứa trẻ dẫn Vô Phong băng qua – thì chìm trong bóng tối, tuyết rơi lẫn ánh đèn vàng lờ lợt từ những căn biệt thự không người ở. Mặt tiền cổ tích nên thơ, mặt sau nhà mồ lạnh lẽo hoang vu bất ngờ – nếu từ trên cao trông xuống khuôn viên, Vô Phong có thể mô tả như vậy.
Hai đứa trẻ đưa Vô Phong đến tòa nhà cách đấy mười mét. Căn nhà vuông vức sắc cạnh với phần mái lợp gạch đỏ, cửa sắt đóng kín, không có bất cứ lỗ khóa hay bảng điện tử nhập mật mã nào. Giữa cánh cửa chỉ có một hõm khoét sâu vừa đủ cho một bàn tay. Thằng bé An Lí đặt tay vào hõm đoạn lầm rầm chú ngữ, cánh cửa chợt rùng mình tách đôi. Bấy giờ Vô Phong mới hiểu cửa đóng mở bằng phép thuật chứ không theo lối thông thường.
Khi cánh cửa mở ra, bên trong tòa nhà tự động bừng sáng. Mọi thứ được soi tỏ nhờ đèn cực quang cùng bụi lân tinh bám mái nhà. Hàng chục cột xà ngang sắp xếp theo trật tự nhất định tạo thành khung chống đỡ phần mái, và cũng từ khung này rủ xuống các lá cờ gia huy họ Cát Giá. Đông đảo hơn cả là kiếm. Kiếm đủ mọi hình dáng có mặt khắp nơi: treo ngay ngắn trên tường, xếp so le từng cặp ở giá đỡ, nằm im lìm thẳng thớm trên dãy bàn gỗ, số khác bọc hộp kính, một số lơ lửng trong máy tạo chân không để không bị thời gian tàn phá. Vô Phong tin chắc họ Cát Giá bán tháo mọi thứ lấy tiền trả nợ nhưng không bao giờ bán kiếm, dù trong đây có rất nhiều thanh kiếm đủ làm bọn chợ đen rỏ dãi thèm thuồng.
Vô Phong cảm ơn bọn trẻ đoạn bước lên sàn. Hắn vươn vai mấy động tác dãn cơ rồi rút ra Bộc Phá. Thanh kiếm vẫn theo hắn từ chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành đến giờ. Nhưng mới vung vẩy vài đường, hắn cảm giác tinh thần nặng trịch tựa thể có áp lực vô hình đè xuống. Vô Phong không bất ngờ vì sau chiến tranh, hắn hầu như chỉ ngủ và bỏ bễ luyện tập. Hắn cần thời gian để lấy lại cảm giác chiến đấu.
Đương tập dợt, hắn nhận ra hai đứa nhỏ đang dán mắt theo dõi mình. Tên tóc đỏ hất hàm:
-Mấy nhóc đánh kiếm bao giờ chưa? Thử không?
Át Sa rúm người còn An Lí dạn dĩ hơn. Thằng nhỏ bước lên cầm thử Bộc Phá. Đôi chân nó di chuyển theo những bước cố định và rất bài bản, chứng tỏ đã tập luyện lâu ngày. Nhưng bởi cấu tạo Bộc Phá khác biệt nên đôi tay An Lí khá lóng ngóng, chẳng biết nên điều khiển thanh kiếm sao cho hiệu quả. Vô Phong cười:
-Không sử dụng nó bằng lối thông thường đâu, nhóc! Phải dùng nhiều mới quen tay. Hay thử kiếm thường? Chúng ta cùng luyện tập! Nói xem, nhóc, họ Cát Giá tập kiếm thế nào?
Thằng nhóc An Lí liền chạy tới các giá đỡ, rút ra loại kiếm gỗ mà nó tập luyện hàng ngày. Nó đưa Vô Phong một thanh rồi chụm gót chân thủ thế, tay trái chắp sau lưng, tay phải giương thẳng kiếm, ngực hơi ưỡn. Bằng cái giọng non nớt, thằng nhóc giảng giải:
-Kiếm sĩ họ Cát Giá phải hội tụ đủ bảy nguyên tắc: thể lực, trí lực, kỹ thuật, tốc độ, chiến thuật, chiến lược và tinh thần. Kỹ thuật quan trọng hơn cả. Kiếm luôn tra vỏ, không được để trần. Khi di chuyển thì mang kiếm sau lưng hoặc trên vai, khi chiến đấu thì phải để kiếm cạnh hông: không được làm ngược lại. Đánh kiếm nên đánh một tay, hạn chế dùng hai tay: tránh thương tích. Đánh kiếm nên né tránh, hạn chế đỡ đòn: tránh sơ hở. Nếu đỡ đòn thì nên gạt, hạn chế chống đỡ trực tiếp: tránh mài mòn lưỡi kiếm. Đánh kiếm nên đâm, hạn chế chém: tránh tiêu hao thể lực. Đánh kiếm luôn nhìn thẳng, tuyệt đối không quay lưng: tránh để đối thủ chớp thời cơ. Đánh kiếm ra đòn nhanh, thu đòn phải nhanh hơn: tránh trường hợp đối thủ tấn công bất ngờ. Đánh kiếm thì rà bước chân, hạn chế chạy: tuyệt đối không nhảy. Đánh tay đôi thì sải bước ngắn, đánh hỗn chiến thì sải bước dài, đánh trận lớn thì chạy. Đánh kiếm thì dùng trang phục gọn nhẹ, không lòa xòa, giày bám chắc và ma sát tốt. Tập kiếm ở nơi rộng, có xà ngang đỡ mái, các xà ngang sẽ dồn ép tinh thần và giúp kiếm sĩ kiểm soát chính mình.
Thằng nhỏ dứt lời, Vô Phong liền ngẩng đầu nhìn lên. Bấy giờ hắn mới hiểu thứ áp lực vô hình nọ bắt nguồn từ các xà ngang. Chúng không phải đồ phép thuật, chỉ là một hình thái kiến trúc nhưng họ Cát Giá biết tận dụng nó vào luyện tập. Tên tóc đỏ gật gù khen hay đoạn cười:
-Tốt đấy, nhóc! Thử tấn công xem nào! Lại đây!
Được khuyến khích, An Lí bắt đầu di chuyển. Nó thực hiện đòn đánh y chang lời dạy bảo của dòng họ. Rất bài bản, rất sách vở. Nhưng đó không phải thứ sách vở mang tính máy móc. Trong thoáng chốc, Vô Phong nhận ra đâu đó những cú đâm chuẩn xác, những cú sải bước nhanh như điện xẹt cộng thêm sức dồn ép kinh khủng từ đôi mắt người chết. “Quỷ Nhãn!” – Hắn nghĩ thầm, mồ hôi rịn trán. Nếu không phải Vô Phong thực chiến lâu, hắn đã bị thằng nhóc An Lí đánh trúng chân, hông và bụng nhiều lần. Kinh nghiệm của họ Cát Giá rút ra trong thực chiến và qua hàng trăm thế hệ cống hiến ngoài chiến trường, do vậy mới sản sinh một Quỷ Nhãn khiến cả sa mạc Hồi Đằng khiếp hãi.
Dù vậy, An Lí vẫn chỉ là trẻ con. Bằng chút tiểu xảo, Vô Phong tóm được tay thằng bé rồi hẩy vai, hất nó ngã văng khỏi sàn tập. Chiến trường đầy rẫy tiểu xảo còn An Lí chưa bao giờ va chạm. Tên tóc đỏ bật cười, bèn chạy lại đỡ thằng nhóc dậy:
-Có sao không? He he, ta lỡ tay, nhóc đừng giận…
Có lẽ vì nóng máu nên An Lí bộc phát sức mạnh Mắt Trắng, thái dương của nó nổi gân xanh, đôi mắt lòng đen tròng trắng công kích thẳng vào trí não Vô Phong. Tên tóc đỏ choáng váng, cảnh vật xung quanh lập tức thay đổi. Hắn đang đứng trong một tòa nhà bốc cháy, sàn gỗ bong lở vì lửa thiêu, mái gỗ thủng toác để lộ trời đêm đặc tuyết. Ngôi nhà này, bầu trời này, tất cả đều mang dáng dấp phương bắc. Tại nơi mà thằng nhóc An Lí đang nằm sóng xoài lại là một đứa trẻ khác với quần áo bê bết bụi bẩn, nó lê lết giữa mặt sàn đỏ lửa, vừa lết vừa xua tay:
“Xin đừng… tôi không biết… cha tôi chỉ là người đánh xe, không phải nhà khoa học gì cả! Xin đừng… xin ông… tôi không biết…”
Một mũi kiếm đâm tới cắt lời thằng bé, sau đó là một tiếng thét thảm khốc vang khắp ngôi nhà cháy đỏ. Vô Phong bừng tỉnh, toàn thân bủn rủn. Hắn vẫn đang ở phòng tập kiếm nhưng khoảnh khắc vừa nãy kéo dài tựa hàng thế kỷ. Thấy hắn không ổn, thằng nhóc An Lí tỏ ra hối lỗi:
-Xin lỗi Múy, cháu chưa biết điều khiển sức mạnh. Múy ổn chứ?
Vô Phong gật gật tỏ vẻ bình thường nhưng vùng dậy chạy ra ngoài. Hắn để ý con bé Át Sa nhìn theo với một thái độ kỳ lạ như thể nó đã chứng kiến những điều mà hắn vừa trải qua. Bước qua cánh cửa sắt, hắn để tuyết lẫn gió xoa dịu đầu óc. Khổ nỗi càng lạnh bao nhiêu, hắn càng nhớ căn nhà cháy rực bấy nhiêu, nhớ luôn cả khuôn mặt sợ hãi của đứa trẻ. Trong hồ sơ Đề Án Mắt Trắng, con mắt người chết có thể khiến người đối diện gặp ảo giác. Nhưng tên tóc đỏ không nghĩ đó là ảo giác, dường như một phần ký ức nào đấy lại thoát ra. Hắn sợ rằng nó cùng những thứ giống nó đang lẩn quất trên lục địa Băng Thổ. Nếu có thể kéo lùi thời gian, Vô Phong muốn quay lại thời điểm mà Mi Kha đề nghị hắn tham gia truy tìm các nhà khoa học thực hiện Đề Án Mắt Trắng. Hắn muốn thương lượng một lần nữa.
Khi bất lực trước thời gian, hắn nhận ra mình đang chạy trốn khỏi Phi Thiên quốc, những ký ức mập mờ và cả nữ thần báo thù. Người Băng Thổ không sai: nữ thần báo thù chưa bao giờ biến mất.
Trên đường xuống tầng một tòa nhà, Vô Phong liếc ra những ô cửa sổ bên cạnh cầu thang. Bên ngoài mưa tuyết lất phất, trời sậm sụi mây xám không một ánh nắng. Dưới khuôn viên, đám người giúp việc đang xúc tuyết để những trảng hoa không bị vùi lấp, số khác thì lau dọn các biệt thự bỏ trống. Ngoài cổng, xe ngựa chốc chốc tới lui mang theo củi, thực phẩm, gia vị, rượu… tất cả đủ dùng trong nửa tháng hoặc cả tháng, tùy thuộc vào thời tiết hay tình trạng nguồn cung. Một ngày của họ Cát Giá trong tháng 2 thường là vậy.
Biên Ngoại thành ít công trình cao tầng nên đứng từ đây, Vô Phong có thể trông ra một phần thành phố. Phía xa, tiệm hàng quán xá mở cửa trong bình lặng, không nhạc nhẽo quảng cáo ầm ĩ giống những nơi mà hắn từng đi qua. Phố sá chỉ có tuyết, vỉa hè im lìm và những hàng cây bạch dương khẽ đung đưa; người qua lại ít, họ đi một mình hoặc dắt theo dã yến. Ngoài gió từ vùng cực bắc thi thoảng tràn xuống cất lên mấy tiếng hú, cả thành phố vận động trong yên ắng và chậm rãi tựa tảng băng trôi. Nó là chốn nghỉ chân lý tưởng, là bàn tay vỗ về kẻ từng sống một cuộc đời nhiều xáo động hay kẻ đang mải miết chạy trốn như Vô Phong.
Dưới chân cầu thang, ông Quản Gia đứng sẵn như thể đã đợi tên tóc đỏ khá lâu. Ông thông báo rằng Mi Kha không có nhà, cô ả ra ngoài từ sớm rồi dặn ông tiếp đãi Vô Phong chu đáo. Hắn có thể ăn ngủ và gọi phục vụ bất kỳ giờ nào. Sau đấy ông Quản Gia dẫn hắn tới nhà ăn, mang lên bánh mì, mứt cam, súp hành và một tách súc-cù-là nóng màu nâu óng. Mọi người đã dùng bữa từ lâu, chỉ Vô Phong là chưa. Phòng ăn đã trở lại vẻ tươm tất, không còn cái thê lương khóc thương con trai của bà Tháp Tước. Nhấp ngụm súc-cù-là nóng thơm phức, Vô Phong tỉnh người, trong phút chốc có cảm giác mình là ông chủ biệt thự hưởng đời sống an nhàn sung túc.
-Mọi tài liệu mà Múy yêu cầu, tôi đã đặt trong phòng làm việc. – Ông Quản Gia nói – Múy có thể đi lại tự do trong khuôn viên, nhưng nếu cần thiết phải ra ngoài, xin hãy báo một tiếng, đích thân tôi sẽ dẫn đường cho Múy.
Đương mơ mộng, Vô Phong rơi tọt xuống đất, nhận ra mình chung quy là tội phạm. Ngay lúc này, hắn có cảm giác tai mắt của Phi Thiên quốc hiện diện khắp nơi, thậm chí hòa tan vào không khí rồi sục sạo khắp ngõ ngách thế giới. Khoảnh khắc tận hưởng đồ ăn thức uống này chỉ là một khoảng lặng trong cuộc đời trốn nã của hắn. Còn phải chạy đến bao giờ? – Hắn tự hỏi. Hai năm, mười năm, cả đời? – Các viễn cảnh u ám làm Vô Phong ngán ngẩm, hắn cần tìm cái gì đó xốc lại tinh thần. Hắn buột miệng hỏi ông Quản Gia:
-Hôm qua, tôi nghe Mi Kha kể về anh trai và lần Lực Lượng Mù Thủy tấn công thành phố. Chuyện đó cụ thể thế nào?
Ông Quản Gia trả lời ngay không chút do dự:
-Hồi đó ngài Tháp Tước đã mất, họ Cát Giá đi xuống trầm trọng. Dòng họ hết tiền, cả khu biệt thự chỉ còn mình tôi làm phục vụ. Các chiến binh bỏ đi vì không có lương, hệ thống phòng thủ không người quản lý, đạn dược vũ khí ngày càng hao gỉ. Ba năm sau ngày ngài Tháp Tước mất, vào một đêm đông, bọn Mù Thủy tấn công Biên Ngoại thành để trả thù. Trong một tháng, chúng khủng bố tàn sát người dân, cưỡng hiếp đàn bà con gái, thiêu cháy quá nửa thành phố. Quân đội Thâm Hàn quốc bị cầm chân bên ngoài và không thể vào nội đô. Băng Hóa quốc bỏ rơi chúng tôi, họ thấy không cần thiết phải cứu một dòng họ đã suy tàn. Rồi bọn Mù Thủy ập tới, những chiến binh họ Cát Giá ngã xuống, ai cũng nghĩ chúng tôi hoặc phải tha hương hoặc phải diệt vong. Đúng lúc đó cậu chủ Hàn Hà đứng lên, cầm kiếm ra ngoài chiến đấu…
Ông Quản Gia ho khan, không giống bị lạnh, mà như đang phấn khích vì được kể một câu chuyện vốn bị chôn chặt quá lâu. Đằng hắng mấy tiếng, ông tiếp tục:
-…cậu chủ mới mười sáu tuổi, đánh kiếm giỏi nhưng chưa từng thực chiến. Cậu ra lệnh tôi ở lại bảo vệ bà chủ và tiểu thư, tự mình chiến đấu. Những gì tôi sắp nói sau đây đều được nghe người ta kể lại, không phải bản thân tôi chứng kiến. Người ta bảo ngay trận đấu đầu tiên, cậu chủ bị thương nhưng vẫn đánh tới khi đối thủ ngã gục. Cậu tiếp tục chiến đấu, hết kẻ này đến kẻ khác, đánh khắp các tòa nhà, khu phố, nghỉ mệt uống nước lấy hơi lại đánh tiếp. Từng người, từng người đàn ông trong thành phố đứng dậy đi theo cậu bé mười sáu tuổi đó. Chục người, trăm người rồi hàng nghìn người… không đợi quân đội, họ mặt đối mặt bọn Mù Thủy, chiến đấu, trả lại tất cả những gì chúng gây ra. Người ta bảo bọn Mù Thủy sợ hãi trước cậu chủ, giẫm đạp lên nhau chạy ra biển rồi chết cóng, xác nổi lềnh lềnh hôi thối cả tháng trời. Sau cuộc chiến, cậu chủ nằm viện, thương tích chằng chịt, còn hết thảy dân chúng thành phố thề trung thành với họ Cát Giá. Trong năm tháng tối tăm nhất, cậu chủ giúp chúng tôi tìm lại mọi vinh quang kiêu hãnh, ngay cả ngài Tháp Tước khi còn sống cũng không làm được như vậy.
Giả như một người khác nghe chuyện, họ sẽ cười thầm và nghĩ ông Quản Gia đang phóng đại hóa theo kiểu cách thường thấy ở người già. Nhưng Vô Phong tin không sót một chữ, thậm chí nghĩ rằng người ta đã nói giảm nói tránh ít nhiều về Quỷ Nhãn. Hắn trầm ngâm:
-Ông nghĩ gì về Quỷ… ý tôi là Hàn Hà? Nếu biết kẻ giết Hàn Hà, ông sẽ làm gì?
-Tôi sợ cậu chủ, nhưng là vì đôi mắt người chết, không phải nhân cách của cậu. – Ông Quản Gia đáp – Cậu luôn một mình, không nhờ ai giúp đỡ, không bao giờ tâm sự nửa lời. Tôi nghĩ cậu ra đi không phải vì bị ghét bỏ, mà bởi cậu tin rằng tiểu thư Mi Kha sẽ gánh vác được dòng họ. Thưa Múy, tôi luôn thờ phụng Nữ Thần Tiên Tri, luôn thực hiện những điều răn. Nhưng tôi cũng là người phương bắc, nữ thần báo thù Nê Mê luôn chảy trong huyết quản của tôi. Nợ tiền có thể bỏ qua nhưng nợ máu phải trả, đây là phương bắc, thưa Múy.
Trước đôi mắt nghiêm cẩn mà sắc bén của ông Quản Gia, tên tóc đỏ tự trách mình đi quá đà. Hắn liền đổi chủ đề:
-Ông còn đánh kiếm được không? Mỗi ngày tôi cần tập luyện, có người đánh cặp càng tốt!
-Rất sẵn lòng và bất cứ lúc nào, thưa Múy. – Ông Quản Gia gật đầu.
Bữa sáng khá nhiều nhưng Vô Phong nốc hết để khỏi phải ló mặt xuống phòng ăn vào ban trưa. Công việc sắp tới toàn chữ nghĩa giấy tờ, một chút xao nhãng cũng làm hắn tốn thời giờ quý báu, nhất là cái xao nhãng nổi lên từ dạ dày. Hắn cần no bụng, tập trung và yên tĩnh.
Tại phòng làm việc cũ của Mi Kha, giấy tờ được đặt ngay ngắn trên bàn và chia làm ba chồng, mỗi chồng cao trên dưới nửa mét. Hết thảy chúng có màu cũ kĩ, giấy rách mép lề quăn queo. Ấy là chưa kể những thẻ dữ liệu xếp ngay ngắn trong khay chờ được cắm vào máy chiếu. Mới liếc qua, Vô Phong đã nản, lòng mong lắm mình có một phần mười trí tuệ của Hỏa Nghi. Lần nào gặp sách vở chữ nghĩa, hắn cũng nhớ thương ông bạn da diết. Tần ngần một lúc, hắn bước vào bàn rồi vớ lấy tập hồ sơ gần nhất cùng lớp bìa da đã nổ phân nửa. Hắn lật lớp bìa, mùi mốc lẫn mùi bụi ram mũi xộc lên như một lời chào hỏi thiếu thân thiện. Phía dưới bụi mốc là những dòng thế này:
Đề Án Mắt Trắng (tuyệt mật)
Định dạng: Bản Sao (Số 1)
Chỉ lưu hành nội bộ
Nghiêm cấm di chuyển tài liệu khỏi Hầm Bom khi chưa được cho phép. Mọi hành vi sao chép, di chuyển, nghiên cứu, buôn bán tài liệu đều được tính là tội phản quốc
Mới đọc trang đầu, Vô Phong đã cần tra cứu. Hắn mở máy chiếu, gõ bàn phím ảo nhập chữ “Hầm Bom” vào ô tìm kiếm. Hàng loạt thông tin xuất hiện nhưng chỉ một kết quả hữu ích. Theo nguồn này, Hầm Bom là hệ thống boong-ke dành cho hoàng gia trong trường hợp khẩn cấp đặt tại phía nam Băng Hóa quốc. Sau này boong-ke không phù hợp, chính phủ chuyển đổi nó thành nơi lưu trữ tài liệu mật. Không có nhiều hình ảnh về Hầm Bom, cùng lắm chỉ có dăm ba bức ảnh chụp những cánh cửa kim loại im lìm nằm sâu dưới lòng đất, đóng chặt trước mọi ánh nhìn. Vô Phong không hiểu tại sao hay bằng cách nào mà họ Cát Giá rút được tài liệu từ một nơi như vậy.
Nhìn lại bàn làm việc đầy ú ụ, Vô Phong quyết định xử lý đống giấy tờ trước, các thẻ dữ liệu có thể sao lưu và xem xét sau. Hắn tiếp tục đọc tập hồ sơ ban nãy, tay lật từng trang giấy mềm nhũn ố vàng. Nhiều điều hắn đã biết như nguyên nhân dẫn đến đề án, chương trình tối ưu hóa cá nhân nhằm tạo ra các chiến binh siêu việt. Nhưng có một số thứ mà hắn nghe lần đầu, chẳng hạn thế này:
“Mắt Trắng thuộc năm loại vũ khí cổ xưa bao gồm: Cánh Tay Quan Tòa, Chén Bất Tử, Cân Đảo Mệnh, Quả Lắc Đen và Mắt Trắng. Năm vũ khí này không thuộc về loài người, không rõ ai sáng tạo, có sức mạnh vượt xa tầm hiểu biết của con người, vào thời phi cơ giới có khả năng thay đổi cục diện cuộc chiến hoặc chính trị. Theo nhiều tài liệu đáng tin cậy cùng những nguồn tin xác thực, Chén Bất Tử và Quả Lắc Đen bị phá hủy vào thời đại phi cơ giới (khoảng năm 6000). Cánh Tay Quan Tòa biến mất vào năm 6497, sau khi Bát Đại Hộ Vệ dùng nó chống lại Quỷ Vương. Cân Đảo Mệnh vĩnh viễn nằm sâu trong phòng bí mật của Thánh Vực, không bao giờ xuất hiện lại. Bốn thứ kể trên không thể chế tạo, ngoại trừ Mắt Trắng…”
Những dòng tiếp theo mô tả cấu tạo, đặc điểm cũng như sức mạnh của Mắt Trắng. Tuy đã nếm trải đầy đủ từ Quỷ Nhãn nhưng nhờ chúng, tên tóc đỏ có dịp nghiên cứu kĩ hơn đồng thời giải đáp vô số thắc mắc mà lúc trước hắn chưa hiểu. Theo mục đích ban đầu, Đề Án muốn tạo ra một lực lượng đa nhiệm từ chiến đấu, hậu cần, trinh thám tới đột nhập ám sát. Chúng bớt tốn kém hơn, bí mật hơn so với vũ khí hủy diệt diện rộng. Nhưng bởi triệu chứng hoại tử trên cơ thể vật chủ Quỷ Nhãn, đề án bị tạm dừng, tái khởi động khi bà Tháp Tước quyết định thí nghiệm lần nữa rồi đóng sổ hoàn toàn. Theo các nhà khoa học chủ trì, Đề Án Mắt Trắng không có bất cứ cơ may nào như họ đã viết:
“…kết quả nghiên cứu quá phụ thuộc tính may rủi. Không thể chắc chắn các thai nhi mang theo Mắt Trắng hay không. Cũng không có câu trả lời mang tính dẫn chứng – lập luận – có hệ thống logic, để giải thích trường hợp hoại tử. Trong vấn đề này, không thể tìm một cầu nối thích hợp giữa khoa học và phép thuật. Chúng ta buộc phải chấp nhận rằng những cá thể ưu việt như Liệt Giả của Phi Thiên quốc là một phép màu của Vạn Thế, hay sâu xa hơn là do bàn tay Đấng Sáng Tạo. Đề án này chưa đủ sức chạm tới thánh thần…”
Kết thúc mục giới thiệu, hồ sơ đi vào phần đánh giá tổng quát cuộc thí nghiệm. Nó bắt đầu từ năm 7489, giữa lúc Liệt Giả của Phi Thiên quốc nổi lên như chiến binh mạnh mẽ nhất. Đề án cần thế hệ chiến binh mới sở hữu thứ gì đấy giống Liệt Giả. Một mục tiêu mơ hồ nhưng bị ép buộc phải có vì tình trạng chiến tranh. Họ Cát Giá tự nguyện tham gia đề án bất chấp mọi rủi ro. Vô Phong tin rằng đây mới là nguyên nhân khiến dòng họ đi xuống chứ không phải chiến tranh hay Lực Lượng Mù Thủy. Cứ mười ca thí nghiệm thì phân nửa thất bại, số còn lại què quặt do hậu quả bùa phép hoặc chất độc hóa học. Họ Cát Giá mất một lượng lớn trẻ sơ sinh lẫn người kế cận. Sự xuống cấp là điều hiển nhiên.
Điều đáng nói là sau khi đề án đóng sổ hoàn toàn, một số gia đình họ Cát Giá tự thí nghiệm con em mình mặc cho máy móc thiếu thốn. Họ quá nóng lòng đòi lại vinh quang bất chấp chính phủ can ngăn. Quan hệ giữa Cát Giá và Băng Hóa quốc vì vậy mà tồi tệ. Nó lý giải tại sao vào ngày Lực Lượng Mù Thủy tấn công Biên Ngoại thành, Băng Hóa quốc hoàn toàn bỏ mặc họ Cát Giá. Trong những cuộc thí nghiệm tự phát kể trên, đa phần thất bại thê thảm, chỉ một số rất ít thành công như anh em An Lí – Át Sa nhưng cũng mắc chứng hoại tử. Tên cả hai đứa trẻ đều có trong hồ sơ.
Lật đi lật lại phần tổng quát, Vô Phong chẳng thấy dòng nào đề cập Mi Kha. Có lẽ người soạn tài liệu không biết cô ả là mẫu vật thành công nhất, hoặc có thể đây chỉ là phần mở đầu nên chưa đến. Tên tóc đỏ tiếp tục đọc, ghi chép vào máy chiếu cá nhân, đọc, ghi chép, tra cứu tham khảo thông tin… Buổi sáng lạnh lẽo cứ thế trôi qua. Hắn không quan tâm màn nắng ban trưa sà xuống cửa sổ, rọi những tơ bụi vẩn vơ báo hiệu một tiết trời chiều ấm áp sắp đến. Kể cả trời chiều đẹp thật, hắn cũng không có thời gian ngắm nghía.
Mãi khi không gian xâm xẩm tối cần ánh điện, Vô Phong mới nhận ra mình đã mài quần trên ghế gần bảy tiếng đồng hồ. Nhận thức thời gian trở lại, lũ phiền toái mang tên “ê mông”, “mỏi mắt”, “nặng đầu” rồi “đói” thi nhau hò hét kêu gọi Vô Phong bỏ cuộc. Hắn bỏ cuộc thật. Hồ sơ hội tụ kiến thức y học và công thức sinh học, diễn giải bằng thứ ngôn ngữ khó hiểu nhất mà loài người từng phát minh. Kinh khủng hơn cả là khái niệm bùa phép với hàng tấn hình vẽ, hàng tấn chú ngữ cổ xưa mà hễ đọc lên là trẹo ngoéo hai hàm răng. Để hiểu sơ mớ bùng nhùng trên, tên tóc đỏ cần phụ tá đắc lực cỡ Hỏa Nghi hoặc Tiểu Hồ. Nói trắng ra, hắn cần cả hai người họ. Nhưng với tất cả kiến thức cao siêu này, Vô Phong gói gọn chúng bằng từ “thất bại”. Cho tới trước thời Mi Kha, mọi bùa phép cùng khoa học đều không thể khống chế xác suất xuất hiện Mắt Trắng ở thai nhi, càng không thể giải thích cũng như ngăn chặn sự hoại tử.
Tuy nhiên Vô Phong đã ghi chép những phần quan trọng nhất (hoặc hắn nghĩ là quan trọng nhất). Giấy tờ vẫn ngồn ngộn. Còn đó hai phần ba chặng đường chờ hắn đi nốt. Tên tóc đỏ vặn vẹo cơ hông rồi bước xuống tầng một biệt thự. Hắn cần ăn rồi dạo bộ cho khuây khỏa.
Nhưng Mi Kha vẫn chưa về, dường như là quá bận rộn với hội đồng thành phố. Và bởi cô ả vắng mặt nên chẳng ai kìm hãm được bà Tháp Tước. Mới cách phòng ăn chục bước chân mà Vô Phong đã nghe thấy tiếng bà già ca cẩm. Thi thoảng bà sụt sùi khóc thương rồi che giấu vụng về bằng cách gào lên hỏi tại sao công chúa cục cưng của bà chưa về. Ngán ngẩm, Vô Phong quay gót. Hốt nhiên phía sau hắn vang lên tiếng chạy bình bịch như muốn trốn khỏi bà Tháp Tước càng nhanh càng tốt. Hắn ngoảnh lại, nhận ra đấy là hai anh em An Lí – Át Sa. Thấy tên tóc đỏ, chúng vội rảo chân cúi đầu chào lễ phép rồi hùng hục chạy tiếp. Vô Phong liền gọi:
-Này, hai đứa! Gượm nào, ta nhờ chút!
Lũ trẻ dừng chân, sắc mặt hớt hải như sợ bà Tháp Tước sẽ tới đây bắt chúng quay lại bàn ăn bất cứ lúc nào. Vô Phong nhe răng cười:
-Ta không bảo hai đứa trở vào kia… – Hắn hất đầu về phía phòng ăn – …ta chỉ muốn hỏi ở đây có phòng luyện tập không? Phòng tập kiếm ấy? Nếu có thì dẫn ta đi nhé!
Bọn nhóc nhìn nhau, trao đổi bằng ánh mắt, thì thào mấy câu rồi gật đầu ưng thuận. Theo chân hai đứa, Vô Phong ra ngoài tòa nhà bằng cửa sau. Lúc này trời nhá nhem tối, các cột đèn cực quang đang thắp sáng khu biệt thự bằng những dải màu cổ tích đầy mê hoặc của nó. Nhưng chỉ một phần nhỏ khuôn viên được hưởng thụ ánh sáng. Phần còn lại – nơi hai đứa trẻ dẫn Vô Phong băng qua – thì chìm trong bóng tối, tuyết rơi lẫn ánh đèn vàng lờ lợt từ những căn biệt thự không người ở. Mặt tiền cổ tích nên thơ, mặt sau nhà mồ lạnh lẽo hoang vu bất ngờ – nếu từ trên cao trông xuống khuôn viên, Vô Phong có thể mô tả như vậy.
Hai đứa trẻ đưa Vô Phong đến tòa nhà cách đấy mười mét. Căn nhà vuông vức sắc cạnh với phần mái lợp gạch đỏ, cửa sắt đóng kín, không có bất cứ lỗ khóa hay bảng điện tử nhập mật mã nào. Giữa cánh cửa chỉ có một hõm khoét sâu vừa đủ cho một bàn tay. Thằng bé An Lí đặt tay vào hõm đoạn lầm rầm chú ngữ, cánh cửa chợt rùng mình tách đôi. Bấy giờ Vô Phong mới hiểu cửa đóng mở bằng phép thuật chứ không theo lối thông thường.
Khi cánh cửa mở ra, bên trong tòa nhà tự động bừng sáng. Mọi thứ được soi tỏ nhờ đèn cực quang cùng bụi lân tinh bám mái nhà. Hàng chục cột xà ngang sắp xếp theo trật tự nhất định tạo thành khung chống đỡ phần mái, và cũng từ khung này rủ xuống các lá cờ gia huy họ Cát Giá. Đông đảo hơn cả là kiếm. Kiếm đủ mọi hình dáng có mặt khắp nơi: treo ngay ngắn trên tường, xếp so le từng cặp ở giá đỡ, nằm im lìm thẳng thớm trên dãy bàn gỗ, số khác bọc hộp kính, một số lơ lửng trong máy tạo chân không để không bị thời gian tàn phá. Vô Phong tin chắc họ Cát Giá bán tháo mọi thứ lấy tiền trả nợ nhưng không bao giờ bán kiếm, dù trong đây có rất nhiều thanh kiếm đủ làm bọn chợ đen rỏ dãi thèm thuồng.
Vô Phong cảm ơn bọn trẻ đoạn bước lên sàn. Hắn vươn vai mấy động tác dãn cơ rồi rút ra Bộc Phá. Thanh kiếm vẫn theo hắn từ chiến tranh Tuyệt Tưởng Thành đến giờ. Nhưng mới vung vẩy vài đường, hắn cảm giác tinh thần nặng trịch tựa thể có áp lực vô hình đè xuống. Vô Phong không bất ngờ vì sau chiến tranh, hắn hầu như chỉ ngủ và bỏ bễ luyện tập. Hắn cần thời gian để lấy lại cảm giác chiến đấu.
Đương tập dợt, hắn nhận ra hai đứa nhỏ đang dán mắt theo dõi mình. Tên tóc đỏ hất hàm:
-Mấy nhóc đánh kiếm bao giờ chưa? Thử không?
Át Sa rúm người còn An Lí dạn dĩ hơn. Thằng nhỏ bước lên cầm thử Bộc Phá. Đôi chân nó di chuyển theo những bước cố định và rất bài bản, chứng tỏ đã tập luyện lâu ngày. Nhưng bởi cấu tạo Bộc Phá khác biệt nên đôi tay An Lí khá lóng ngóng, chẳng biết nên điều khiển thanh kiếm sao cho hiệu quả. Vô Phong cười:
-Không sử dụng nó bằng lối thông thường đâu, nhóc! Phải dùng nhiều mới quen tay. Hay thử kiếm thường? Chúng ta cùng luyện tập! Nói xem, nhóc, họ Cát Giá tập kiếm thế nào?
Thằng nhóc An Lí liền chạy tới các giá đỡ, rút ra loại kiếm gỗ mà nó tập luyện hàng ngày. Nó đưa Vô Phong một thanh rồi chụm gót chân thủ thế, tay trái chắp sau lưng, tay phải giương thẳng kiếm, ngực hơi ưỡn. Bằng cái giọng non nớt, thằng nhóc giảng giải:
-Kiếm sĩ họ Cát Giá phải hội tụ đủ bảy nguyên tắc: thể lực, trí lực, kỹ thuật, tốc độ, chiến thuật, chiến lược và tinh thần. Kỹ thuật quan trọng hơn cả. Kiếm luôn tra vỏ, không được để trần. Khi di chuyển thì mang kiếm sau lưng hoặc trên vai, khi chiến đấu thì phải để kiếm cạnh hông: không được làm ngược lại. Đánh kiếm nên đánh một tay, hạn chế dùng hai tay: tránh thương tích. Đánh kiếm nên né tránh, hạn chế đỡ đòn: tránh sơ hở. Nếu đỡ đòn thì nên gạt, hạn chế chống đỡ trực tiếp: tránh mài mòn lưỡi kiếm. Đánh kiếm nên đâm, hạn chế chém: tránh tiêu hao thể lực. Đánh kiếm luôn nhìn thẳng, tuyệt đối không quay lưng: tránh để đối thủ chớp thời cơ. Đánh kiếm ra đòn nhanh, thu đòn phải nhanh hơn: tránh trường hợp đối thủ tấn công bất ngờ. Đánh kiếm thì rà bước chân, hạn chế chạy: tuyệt đối không nhảy. Đánh tay đôi thì sải bước ngắn, đánh hỗn chiến thì sải bước dài, đánh trận lớn thì chạy. Đánh kiếm thì dùng trang phục gọn nhẹ, không lòa xòa, giày bám chắc và ma sát tốt. Tập kiếm ở nơi rộng, có xà ngang đỡ mái, các xà ngang sẽ dồn ép tinh thần và giúp kiếm sĩ kiểm soát chính mình.
Thằng nhỏ dứt lời, Vô Phong liền ngẩng đầu nhìn lên. Bấy giờ hắn mới hiểu thứ áp lực vô hình nọ bắt nguồn từ các xà ngang. Chúng không phải đồ phép thuật, chỉ là một hình thái kiến trúc nhưng họ Cát Giá biết tận dụng nó vào luyện tập. Tên tóc đỏ gật gù khen hay đoạn cười:
-Tốt đấy, nhóc! Thử tấn công xem nào! Lại đây!
Được khuyến khích, An Lí bắt đầu di chuyển. Nó thực hiện đòn đánh y chang lời dạy bảo của dòng họ. Rất bài bản, rất sách vở. Nhưng đó không phải thứ sách vở mang tính máy móc. Trong thoáng chốc, Vô Phong nhận ra đâu đó những cú đâm chuẩn xác, những cú sải bước nhanh như điện xẹt cộng thêm sức dồn ép kinh khủng từ đôi mắt người chết. “Quỷ Nhãn!” – Hắn nghĩ thầm, mồ hôi rịn trán. Nếu không phải Vô Phong thực chiến lâu, hắn đã bị thằng nhóc An Lí đánh trúng chân, hông và bụng nhiều lần. Kinh nghiệm của họ Cát Giá rút ra trong thực chiến và qua hàng trăm thế hệ cống hiến ngoài chiến trường, do vậy mới sản sinh một Quỷ Nhãn khiến cả sa mạc Hồi Đằng khiếp hãi.
Dù vậy, An Lí vẫn chỉ là trẻ con. Bằng chút tiểu xảo, Vô Phong tóm được tay thằng bé rồi hẩy vai, hất nó ngã văng khỏi sàn tập. Chiến trường đầy rẫy tiểu xảo còn An Lí chưa bao giờ va chạm. Tên tóc đỏ bật cười, bèn chạy lại đỡ thằng nhóc dậy:
-Có sao không? He he, ta lỡ tay, nhóc đừng giận…
Có lẽ vì nóng máu nên An Lí bộc phát sức mạnh Mắt Trắng, thái dương của nó nổi gân xanh, đôi mắt lòng đen tròng trắng công kích thẳng vào trí não Vô Phong. Tên tóc đỏ choáng váng, cảnh vật xung quanh lập tức thay đổi. Hắn đang đứng trong một tòa nhà bốc cháy, sàn gỗ bong lở vì lửa thiêu, mái gỗ thủng toác để lộ trời đêm đặc tuyết. Ngôi nhà này, bầu trời này, tất cả đều mang dáng dấp phương bắc. Tại nơi mà thằng nhóc An Lí đang nằm sóng xoài lại là một đứa trẻ khác với quần áo bê bết bụi bẩn, nó lê lết giữa mặt sàn đỏ lửa, vừa lết vừa xua tay:
“Xin đừng… tôi không biết… cha tôi chỉ là người đánh xe, không phải nhà khoa học gì cả! Xin đừng… xin ông… tôi không biết…”
Một mũi kiếm đâm tới cắt lời thằng bé, sau đó là một tiếng thét thảm khốc vang khắp ngôi nhà cháy đỏ. Vô Phong bừng tỉnh, toàn thân bủn rủn. Hắn vẫn đang ở phòng tập kiếm nhưng khoảnh khắc vừa nãy kéo dài tựa hàng thế kỷ. Thấy hắn không ổn, thằng nhóc An Lí tỏ ra hối lỗi:
-Xin lỗi Múy, cháu chưa biết điều khiển sức mạnh. Múy ổn chứ?
Vô Phong gật gật tỏ vẻ bình thường nhưng vùng dậy chạy ra ngoài. Hắn để ý con bé Át Sa nhìn theo với một thái độ kỳ lạ như thể nó đã chứng kiến những điều mà hắn vừa trải qua. Bước qua cánh cửa sắt, hắn để tuyết lẫn gió xoa dịu đầu óc. Khổ nỗi càng lạnh bao nhiêu, hắn càng nhớ căn nhà cháy rực bấy nhiêu, nhớ luôn cả khuôn mặt sợ hãi của đứa trẻ. Trong hồ sơ Đề Án Mắt Trắng, con mắt người chết có thể khiến người đối diện gặp ảo giác. Nhưng tên tóc đỏ không nghĩ đó là ảo giác, dường như một phần ký ức nào đấy lại thoát ra. Hắn sợ rằng nó cùng những thứ giống nó đang lẩn quất trên lục địa Băng Thổ. Nếu có thể kéo lùi thời gian, Vô Phong muốn quay lại thời điểm mà Mi Kha đề nghị hắn tham gia truy tìm các nhà khoa học thực hiện Đề Án Mắt Trắng. Hắn muốn thương lượng một lần nữa.
Khi bất lực trước thời gian, hắn nhận ra mình đang chạy trốn khỏi Phi Thiên quốc, những ký ức mập mờ và cả nữ thần báo thù. Người Băng Thổ không sai: nữ thần báo thù chưa bao giờ biến mất.
/334
|