Ngẫm cũng đúng, họ Thiệu nhà người ta vốn không thiếu tiền, vì sao lại muốn bán thứ đã được lưu truyền từ thời tổ tông chứ? Nếu là tôi thì tôi cũng sẽ không bán!
Hôm sau, chú Lê đưa tôi và Đinh Nhất đến Quảng Đông. Vừa xuống máy bay, nữ trợ lý của Thiệu Kiến Hoa đã đợi ở bên ngoài, đang giơ bảng hiệu đón chúng tôi. Cô ấy đưa chúng tôi đến một khách sạn đã được đặt phòng trước, sắp xếp mọi thứ xong thì nói chúng tôi cứ nghỉ ngơi đêm nay, vì bây giờ Thiệu Kiến Hoa vẫn còn đang trên máy bay đến, nên buổi gặp mặt của chúng tôi sẽ được sắp xếp vào sáng ngày mai.
Không ngờ vị Thiệu Kiến Hoa này rất bận bịu, thật có cảm giác là một người ngày ngày trăm công nghìn việc! Nếu ông ta vẫn chưa đến đây, chi bằng chúng tôi ra ngoài dạo chợ đêm nhỉ, chẳng mấy khi được đến Quảng Đông một lần phải không?
Nhưng chú Lê nói ông ấy đi máy bay nên hơi mệt, muốn đi ngủ trước, bảo tôi với Đinh Nhất tự đi, nhưng uống ít rượu thôi, đừng về quá khuya là được! Sao tôi có cảm giác như đang nghe thấy mẹ mình nói vậy? Nhưng đến bây giờ vẫn còn có người dặn dò mình vài câu trước khi ra cửa, cũng là một chuyện rất hạnh phúc…
Tôi và Đinh Nhất đi ra cửa khách sạn, hỏi thăm bảo vệ đứng canh xem gần đây có chợ đêm nào không. Bảo vệ rất nhiệt tình hướng dẫn, đi về phía bên phải 300 mét, sau đó rẽ trái là đến con phố chuyên bán quà vặt.
Chúng tôi dựa theo chỉ dẫn của ông ấy, chỉ một lúc sau đã tìm được con phố quà vặt kia. Vào trong mới thấy ở đây đúng là rất náo nhiệt, người qua người lại nhốn nháo, làm tôi nhớ tới lần đầu tiên quen biết Đinh Nhất.
“Còn nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau không?” Tôi cười, hỏi.
Đinh Nhất suy nghĩ một chút: “Cậu nói tới lần ở Nhã An à?”
Tôi gật đầu: “Đương nhiên, không thì còn lần nào nữa!”
Nhưng Đinh Nhất lại nói, đó là lần đầu tôi nhìn thấy anh ta, còn anh ta đã sớm đi theo tôi cả ngày hôm đấy rồi! Tôi cười mà không nói gì, ngẫm lại thời gian trôi qua thật nhanh, thoáng cái đã gần ba năm rồi, nhưng tôi lại có cảm giác như mới vừa hôm qua vậy.
“Giờ ngẫm lại mới nhớ, cậu đúng là rất tham ăn! Một mình đi đến nơi xa lạ như vậy, mà việc đầu tiên nghĩ đến chính là ăn đã! Giống hệt như bây giờ, cậu vẫn chẳng thay đổi gì cả…” Đinh Nhất trêu chọc tôi.
Lúc này chúng tôi đi đến một quầy bán mì gạo, tôi ngồi xuống bàn rồi ngoắc tay với ông chủ, gọi hai phần mì gạo cuốn*, sau đó quay ra nói chuyện với Đinh Nhất: “Anh đừng có ăn no luôn đấy, tôi thấy chỗ này rất nhiều đồ ăn ngon, định ăn hết từ đầu phố đến cuối phố luôn!”
* Giống bánh cuốn của Việt Nam.
Đinh Nhất thấy cái vẻ tham ăn của tôi thì lắc đầu, cười mà không nói gì cả. Chẳng bao lâu, ông chủ bê ra hai đĩa mì gạo cuốn, tôi không kịp chờ, gắp lên rồi đưa lên miệng cắn một cái, quả thiên là mềm thơm ngon, ăn vào một miếng là muốn nếm miếng thứ hai.
Có lẽ vì cân nhắc tới chuyện hàng quán ở đây khá nhiều, một phần mì gạo cuốn làm quá nhiều sẽ dễ bị lãng phí, nên mỗi đĩa chỉ có khoảng ba cuốn mì, đối với một đứa siêu cấp hám ăn như tôi thì chẳng đủ để nhét kẽ răng ấy!
Ăn xong đĩa mì, cái mũi của tôi lại bị quán cơm thố trước mặt hấp dẫn, vội kéo Đinh Nhất chạy sang. Lần này vì sợ ăn nhiều no bụng, nên tôi và Đinh Nhất chỉ gọi một phần, tiếp đó lại đến quầy hoành thánh…
Đến cuối, tôi chỉ hận sao mình chỉ có một cái bụng? Nếu không phải Đinh Nhất cứ kéo tôi ra, nói thế nào cũng không cho ăn nữa, thì chắc tôi thật sự có thể ăn đến cuối phố mất!
Nói thật, tôi thực sự rất hâm mộ người Quảng Đông, họ thực sự rất quan tâm đến ẩm thực. Nếu bạn muốn ăn và có can đảm ăn, không thì sẽ không xảy ra sự kiện như ở núi Đầu Trâu lần trước. Văn hóa ẩm thực ở đây rất khác với phương Bắc, tóm lại nó thật sự làm cho người phương Bắc lần đầu đến như tôi phải lưu luyến quên lối về.
Vừa rồi chú Lê còn dặn chúng tôi không nên uống rượu, chú ấy lo thừa rồi, với cái bụng này mà còn uống rượu thì làm sao thưởng thức được hết các món ăn ngon tuyệt ở đây chứ? Chẳng mấy khi được đi, tôi cũng không phải vì muốn uống rượu nên mới đến, rượu thì ở đâu mà chả uống được!
Khi nãy ở trên đường thì không thấy gì, nhưng lúc về lại khách sạn, nằm xuống giường xong là tôi không muốn động đậy nữa, sợ không cẩn thận sẽ vỡ bụng mất! Đinh Nhất đã cho tôi uống thuốc tiêu thực xin ở quầy lễ tân rồi, tôi đỏ mặt bảo anh ta phải giữ bí mật, ngày mai nhất định không thể để chú Lê biết tối hôm nay tôi bị mất mặt như vậy!
Ngủ ngon cả đêm, có lẽ vì ăn quá nhiều nên khi vừa đặt lưng là tôi ngủ say ngay. Theo cách nói của Đinh Nhất thì, nửa đêm anh ta phải kéo một con lợn ngủ như chết về đúng vị trí! Mà tiếng ngáy của tôi thì đúng là muốn vỡ trời luôn!
Nghe anh ta nói, tôi càng cảm thấy xấu hổ hơn…
Buổi sáng, chú Lê gọi xuống quầy phục vụ, đặt mấy phần ăn sáng đặc sản ở đây lên. Khi họ đưa tới, nhìn qua thấy đây chẳng phải là mấy món tối qua mình đã ăn hay sao? Tôi lập tức không muốn ăn nữa.
Gần 12 giờ trưa, Thiệu Kiến Hoa mới vội vội vàng vàng vào khách sạn. Tôi thật không ngờ một ông chủ giá trị hơn trăm triệu này lại là một thanh niên trẻ tuổi ngoài 30.
Đúng là tức chết người mà! Người ta tuổi còn trẻ mà đã là người thừa kế tập đoàn rồi, còn tôi vẫn phải chổng mông lên đi ra ngoài bán mạng kiếm tiền mới có cuộc sống như bây giờ…
Lần này Thiệu Kiến Hoa đến chủ yếu là vì muốn mang bảo vật gia truyền nhà anh ta tới cho chúng tôi. Vì món đồ này quá quý giá, nên anh ta phải đích thân mang tới. Khi tôi nhìn tờ thánh chỉ từ đời nhà Thanh, thấy nó hoàn toàn khác biệt với những gì mình từng tưởng tượng.
Nó không có màu vàng kim chói lọi, càng không có những chữ viết hoa lệ trau chuốt, thoạt nhìn chỉ là một miếng vải vàng cũ kĩ, bên trên không hề có câu nào đại loại như ‘Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết’ cả! Đương nhiên trên đó không phải không có chữ nào, chỉ là tôi xem mà không hiểu thôi, bởi vì phía trên đều là chữ viết của Mãn Châu. Tôi cũng chưa từng nghe chú Lê nói người nhà họ Thiệu là người của tộc Mãn!
Thiệu Kiến Hoa thấy vẻ mặt tôi thắc mắc thì giải thích: “Tôi nghe ông nội nói, đạo thánh chỉ này lúc đó do chính Hoàng đế triều Thanh tự tay viết, cho nên nó được viết bằng chữ Mãn Châu. Mà lúc đó ông tổ của chúng tôi là Thiệu Chi Lam tinh thông cả ba loại ngôn ngữ, cho nên việc thánh chỉ này dùng chữ Mãn Châu để viết cũng chẳng có gì lạ.”
Thôi được rồi, đi tìm xác cũng không cần quan tâm đến chuyện trên thánh chỉ này viết cái gì. Tôi đưa tay ra định sờ vào cuộn thánh chỉ kia, nhưng đúng lúc này đột nhiên nghe thấy cô nữ trợ lí nói to: “Chờ một chút!”
Tôi bị dọa rụt tay về, sau đó nhìn sang cô ấy với ánh mắt kỳ quái. Tôi thấy cô ấy lấy trong túi ra một đôi găng tay màu trắng định đưa cho mình, xem ra trước khi chạm vào cuộn thánh chỉ này, ai cũng phải mang găng tay vào hết!
Nhưng mà đeo găng tay cảm nhận tàn hồn? Đây là lần đầu tiên tôi làm như vậy đấy, không biết cách một vật khác như thế này, còn có thể cảm nhận được gì không. Có lẽ nhìn thấy mặt ba người chúng tôi thay đổi, Thiệu Kiến Hoa vội phất tay với nữ trợ lý: “Cất vào đi…”
Nữ trợ lý lập tức lúng túng cất găng tay vào túi! Tôi biết cũng không thể trách cô ấy được, chắc trước đó họ cũng làm như vậy, cho nên cô ấy mới nghĩ đến việc để tôi đeo găng tay.
Cũng phải trách tôi trước đó không nghĩ tới vấn đề này, thế là tôi chuyển bàn tay đang duỗi ra thành một ngón…
Hôm sau, chú Lê đưa tôi và Đinh Nhất đến Quảng Đông. Vừa xuống máy bay, nữ trợ lý của Thiệu Kiến Hoa đã đợi ở bên ngoài, đang giơ bảng hiệu đón chúng tôi. Cô ấy đưa chúng tôi đến một khách sạn đã được đặt phòng trước, sắp xếp mọi thứ xong thì nói chúng tôi cứ nghỉ ngơi đêm nay, vì bây giờ Thiệu Kiến Hoa vẫn còn đang trên máy bay đến, nên buổi gặp mặt của chúng tôi sẽ được sắp xếp vào sáng ngày mai.
Không ngờ vị Thiệu Kiến Hoa này rất bận bịu, thật có cảm giác là một người ngày ngày trăm công nghìn việc! Nếu ông ta vẫn chưa đến đây, chi bằng chúng tôi ra ngoài dạo chợ đêm nhỉ, chẳng mấy khi được đến Quảng Đông một lần phải không?
Nhưng chú Lê nói ông ấy đi máy bay nên hơi mệt, muốn đi ngủ trước, bảo tôi với Đinh Nhất tự đi, nhưng uống ít rượu thôi, đừng về quá khuya là được! Sao tôi có cảm giác như đang nghe thấy mẹ mình nói vậy? Nhưng đến bây giờ vẫn còn có người dặn dò mình vài câu trước khi ra cửa, cũng là một chuyện rất hạnh phúc…
Tôi và Đinh Nhất đi ra cửa khách sạn, hỏi thăm bảo vệ đứng canh xem gần đây có chợ đêm nào không. Bảo vệ rất nhiệt tình hướng dẫn, đi về phía bên phải 300 mét, sau đó rẽ trái là đến con phố chuyên bán quà vặt.
Chúng tôi dựa theo chỉ dẫn của ông ấy, chỉ một lúc sau đã tìm được con phố quà vặt kia. Vào trong mới thấy ở đây đúng là rất náo nhiệt, người qua người lại nhốn nháo, làm tôi nhớ tới lần đầu tiên quen biết Đinh Nhất.
“Còn nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau không?” Tôi cười, hỏi.
Đinh Nhất suy nghĩ một chút: “Cậu nói tới lần ở Nhã An à?”
Tôi gật đầu: “Đương nhiên, không thì còn lần nào nữa!”
Nhưng Đinh Nhất lại nói, đó là lần đầu tôi nhìn thấy anh ta, còn anh ta đã sớm đi theo tôi cả ngày hôm đấy rồi! Tôi cười mà không nói gì, ngẫm lại thời gian trôi qua thật nhanh, thoáng cái đã gần ba năm rồi, nhưng tôi lại có cảm giác như mới vừa hôm qua vậy.
“Giờ ngẫm lại mới nhớ, cậu đúng là rất tham ăn! Một mình đi đến nơi xa lạ như vậy, mà việc đầu tiên nghĩ đến chính là ăn đã! Giống hệt như bây giờ, cậu vẫn chẳng thay đổi gì cả…” Đinh Nhất trêu chọc tôi.
Lúc này chúng tôi đi đến một quầy bán mì gạo, tôi ngồi xuống bàn rồi ngoắc tay với ông chủ, gọi hai phần mì gạo cuốn*, sau đó quay ra nói chuyện với Đinh Nhất: “Anh đừng có ăn no luôn đấy, tôi thấy chỗ này rất nhiều đồ ăn ngon, định ăn hết từ đầu phố đến cuối phố luôn!”
* Giống bánh cuốn của Việt Nam.
Đinh Nhất thấy cái vẻ tham ăn của tôi thì lắc đầu, cười mà không nói gì cả. Chẳng bao lâu, ông chủ bê ra hai đĩa mì gạo cuốn, tôi không kịp chờ, gắp lên rồi đưa lên miệng cắn một cái, quả thiên là mềm thơm ngon, ăn vào một miếng là muốn nếm miếng thứ hai.
Có lẽ vì cân nhắc tới chuyện hàng quán ở đây khá nhiều, một phần mì gạo cuốn làm quá nhiều sẽ dễ bị lãng phí, nên mỗi đĩa chỉ có khoảng ba cuốn mì, đối với một đứa siêu cấp hám ăn như tôi thì chẳng đủ để nhét kẽ răng ấy!
Ăn xong đĩa mì, cái mũi của tôi lại bị quán cơm thố trước mặt hấp dẫn, vội kéo Đinh Nhất chạy sang. Lần này vì sợ ăn nhiều no bụng, nên tôi và Đinh Nhất chỉ gọi một phần, tiếp đó lại đến quầy hoành thánh…
Đến cuối, tôi chỉ hận sao mình chỉ có một cái bụng? Nếu không phải Đinh Nhất cứ kéo tôi ra, nói thế nào cũng không cho ăn nữa, thì chắc tôi thật sự có thể ăn đến cuối phố mất!
Nói thật, tôi thực sự rất hâm mộ người Quảng Đông, họ thực sự rất quan tâm đến ẩm thực. Nếu bạn muốn ăn và có can đảm ăn, không thì sẽ không xảy ra sự kiện như ở núi Đầu Trâu lần trước. Văn hóa ẩm thực ở đây rất khác với phương Bắc, tóm lại nó thật sự làm cho người phương Bắc lần đầu đến như tôi phải lưu luyến quên lối về.
Vừa rồi chú Lê còn dặn chúng tôi không nên uống rượu, chú ấy lo thừa rồi, với cái bụng này mà còn uống rượu thì làm sao thưởng thức được hết các món ăn ngon tuyệt ở đây chứ? Chẳng mấy khi được đi, tôi cũng không phải vì muốn uống rượu nên mới đến, rượu thì ở đâu mà chả uống được!
Khi nãy ở trên đường thì không thấy gì, nhưng lúc về lại khách sạn, nằm xuống giường xong là tôi không muốn động đậy nữa, sợ không cẩn thận sẽ vỡ bụng mất! Đinh Nhất đã cho tôi uống thuốc tiêu thực xin ở quầy lễ tân rồi, tôi đỏ mặt bảo anh ta phải giữ bí mật, ngày mai nhất định không thể để chú Lê biết tối hôm nay tôi bị mất mặt như vậy!
Ngủ ngon cả đêm, có lẽ vì ăn quá nhiều nên khi vừa đặt lưng là tôi ngủ say ngay. Theo cách nói của Đinh Nhất thì, nửa đêm anh ta phải kéo một con lợn ngủ như chết về đúng vị trí! Mà tiếng ngáy của tôi thì đúng là muốn vỡ trời luôn!
Nghe anh ta nói, tôi càng cảm thấy xấu hổ hơn…
Buổi sáng, chú Lê gọi xuống quầy phục vụ, đặt mấy phần ăn sáng đặc sản ở đây lên. Khi họ đưa tới, nhìn qua thấy đây chẳng phải là mấy món tối qua mình đã ăn hay sao? Tôi lập tức không muốn ăn nữa.
Gần 12 giờ trưa, Thiệu Kiến Hoa mới vội vội vàng vàng vào khách sạn. Tôi thật không ngờ một ông chủ giá trị hơn trăm triệu này lại là một thanh niên trẻ tuổi ngoài 30.
Đúng là tức chết người mà! Người ta tuổi còn trẻ mà đã là người thừa kế tập đoàn rồi, còn tôi vẫn phải chổng mông lên đi ra ngoài bán mạng kiếm tiền mới có cuộc sống như bây giờ…
Lần này Thiệu Kiến Hoa đến chủ yếu là vì muốn mang bảo vật gia truyền nhà anh ta tới cho chúng tôi. Vì món đồ này quá quý giá, nên anh ta phải đích thân mang tới. Khi tôi nhìn tờ thánh chỉ từ đời nhà Thanh, thấy nó hoàn toàn khác biệt với những gì mình từng tưởng tượng.
Nó không có màu vàng kim chói lọi, càng không có những chữ viết hoa lệ trau chuốt, thoạt nhìn chỉ là một miếng vải vàng cũ kĩ, bên trên không hề có câu nào đại loại như ‘Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết’ cả! Đương nhiên trên đó không phải không có chữ nào, chỉ là tôi xem mà không hiểu thôi, bởi vì phía trên đều là chữ viết của Mãn Châu. Tôi cũng chưa từng nghe chú Lê nói người nhà họ Thiệu là người của tộc Mãn!
Thiệu Kiến Hoa thấy vẻ mặt tôi thắc mắc thì giải thích: “Tôi nghe ông nội nói, đạo thánh chỉ này lúc đó do chính Hoàng đế triều Thanh tự tay viết, cho nên nó được viết bằng chữ Mãn Châu. Mà lúc đó ông tổ của chúng tôi là Thiệu Chi Lam tinh thông cả ba loại ngôn ngữ, cho nên việc thánh chỉ này dùng chữ Mãn Châu để viết cũng chẳng có gì lạ.”
Thôi được rồi, đi tìm xác cũng không cần quan tâm đến chuyện trên thánh chỉ này viết cái gì. Tôi đưa tay ra định sờ vào cuộn thánh chỉ kia, nhưng đúng lúc này đột nhiên nghe thấy cô nữ trợ lí nói to: “Chờ một chút!”
Tôi bị dọa rụt tay về, sau đó nhìn sang cô ấy với ánh mắt kỳ quái. Tôi thấy cô ấy lấy trong túi ra một đôi găng tay màu trắng định đưa cho mình, xem ra trước khi chạm vào cuộn thánh chỉ này, ai cũng phải mang găng tay vào hết!
Nhưng mà đeo găng tay cảm nhận tàn hồn? Đây là lần đầu tiên tôi làm như vậy đấy, không biết cách một vật khác như thế này, còn có thể cảm nhận được gì không. Có lẽ nhìn thấy mặt ba người chúng tôi thay đổi, Thiệu Kiến Hoa vội phất tay với nữ trợ lý: “Cất vào đi…”
Nữ trợ lý lập tức lúng túng cất găng tay vào túi! Tôi biết cũng không thể trách cô ấy được, chắc trước đó họ cũng làm như vậy, cho nên cô ấy mới nghĩ đến việc để tôi đeo găng tay.
Cũng phải trách tôi trước đó không nghĩ tới vấn đề này, thế là tôi chuyển bàn tay đang duỗi ra thành một ngón…
/1940
|