Anh Ba Kho nhéo vào tay mình. Đau quá. Anh buột miệng chửi thề một câu. Biết mình không nằm mơ, anh Ba Kho mới cúi xuống nhìn hai viên gạch. Vẫn chỉ là hai viên gạch bình thường như bao viên gạch khác. Anh Ba Kho dùng ngón tay chọc chọc vào. Viên gạch vẫn cứng và mát mẻ hệt như lần đầu anh cầm nó lên. Anh Ba Kho để cây đèn xuống đất, rồi nhấc hai cục gạch lên. Vẫn không có gì kì lạ xảy ra cả.
Xoay xoay ngắm ngắm chán chê, anh trở lại chỗ nằm với một viên gạch khác trong tay. Lần này để cho chắc, ngoài việc chèn cửa cận thận, anh còn lấy dây buộc viên gạch vào cái cột nhà. Thế rồi anh thoải mái nằm xuống. “Có giỏi thì bay nữa đi.” Cơn buồn ngủ kéo đến thật nhanh. Anh Ba Kho mệt mỏi ngáp một cái rồi nhắm mắt lại. Chả mấy chốc mà anh say giấc nồng. Trên hiên nhà, gió từ ngoài hồ thổi vào từng cơn mát rượi. Tiếng ngáy của Du bộ đầu vẫn đều đều.
Gió thổi càng lúc càng lạnh. Anh Ba Kho quơ tấm chăn chiên bên cạnh khoác lên người, miệng nhép nhép. Đột nhiên mũi anh Ba Kho cảm thấy ngứa ngứa. Anh co người đánh một cái hắt hơi. Trong lúc lấy tay xoa xoa, anh Ba Kho cảm thấy một mùi thối sực vào cổ họng. Anh bịt mũi, thầm nghĩ: “Mùi cá chết ở đâu ra vậy?” Một tiếng hét lớn như tiếng trống đồng làm anh Ba Kho ù tai. “Ai đó? Mau ra đây.”
Anh Ba Kho mở mắt nhỏm dậy. Lúc này Du bộ đầu đã đứng lên, đôi mắt ưng của ông chăm chú nhìn xung quanh. Anh Ba Kho cũng vội mò dưới chân lấy căn mác dài hơn một thước. Du bộ đầu bảo anh Ba Kho: “Đốt đèn lên.” Anh Ba Kho răm rắp làm theo lời ông. Du bộ đầu bắt đầu cẩn thận đi vòng ra sân, mắt ông chăm chú nhìn từng viên gạch, từng ngọn cỏ. Có lúc ông quỳ xuống sát đất, ngửi ngửi. Anh Ba Kho đi theo, cầm đèn rọi, hai mắt dáo dác nhìn xung quanh xem có ai đang nấp không. Từ trong sân, hai người ra vườn rồi vòng đến sau nhà. Du bộ đầu vẫn cẩn thận tìm tìm kiếm kiếm, nhưng không thu được kết quả gì. Mãi đến lúc gà gáy sáng, hai người mới trở về hiên nhà.
Anh Ba Kho mệt mỏi vớ lấy ống đựng nước, uống một hớp. Mồ hôi rịn ra như tắm trên trán anh. Nãy giờ, mặc dù không hoạt động gì nhiều, nhưng anh rất căng thẳng. Anh chỉ sợ kẻ thủ ác nấp đâu đấy quanh nhà, bất ngờ xồ ra lấy mạng hai người. Mãi đến khi quay lại trước nhà, anh mới hết sợ. Dù gì thì bên anh có những hai người, ai cũng biết võ, chả lẽ hai người lại không đánh được một người. Mà cho dù đánh không lại, chả lẽ lại không chạy được. Nghĩ thế, anh Ba Kho bắt đầu thả lỏng cơ thế. Du bộ đầu vẫn đang ngồi bệt trên bệ cửa miệng lẩm bẩm:”Chả lẽ mình nhầm? Không có lẽ nào…”
Anh Ba Kho lúc này mới hỏi Du bộ đầu:”Sư phụ, hồi nãy có chuyện gì thế?”
Du bộ đầu hơi trầm ngâm, rồi trả lời: “Anh đã từng nghe đến “lục giác” của người giang hồ chưa?”
Anh Ba kho đáp: “Có từng nghe. Lục giác là cách gọi của sáu loại giác quan bao gồm hính giác, vị giác, khứu giác, thị giác, xúc giác, trực giác. Có đúng không sư phụ? ”
Du bộ đầu gật đầu: “Đúng vậy, trong sáu loại giác quan, cái thứ sáu là loại huyền bí nhất. Trực giác chỉ là một cách gọi. Bình thường người ta hay bảo nó là linh tính hay cảm thấy. Đó là khi con người cảm nhận được sự thay đổi của bên ngoài, của không gian và thời gian mà không thông qua năm giác quan còn lại. Thậm chí với những người có giác quan thứ sáu bén nhạy, người ta có thể dùng để tiên đoán những gì sắp xảy ra trong tương lai.”
Anh Ba Kho hỏi: “Sư phụ muốn nói đến người tu đạo?”
Du bộ đầu lắc đầu: “Không chỉ người tu đạo, mà cả người luyện võ thậm chí người thường cũng có thể có giác quan thứ sáu rất mạnh mẽ. Như trạng Trình, mặc dầu chỉ là thư sinh tay trói gà không chặt, ông ấy có thể dự đoán được triều đại sẽ chết như thế nào, có bao nhiêu đời vua tất cả. Mấy trăm năm sau khi ông chết, ai cũng đều kinh ngạc rằng mọi thứ diễn ra theo đúng y như lời của ông.” Nói rồi Du bộ đầu than thở: “Giác quan thứ sáu đúng là một món quà đặc biệt mà ông trời ban tặng cho con người.”
Du bộ đầu dùng tay vuốt ve thanh đao trong tay: “Ta từ nhỏ là một trong những người được ông trời ưu ái. Giác quan thứ sáu của ta đặc biệt rất nhạy cảm với sự sống và cái chết. Vì thế nó đã cứu mạng ta vô số lần.” Rồi ông nhìn thẳng vào anh Ba Kho: “Đêm nay nó lại đánh thức ta.” Anh Ba Kho sợ hãi trước cái nhìn dữ tợn của Du bộ đầu. Anh nói: “Chẳng lẽ sư phụ cho là con muốn làm hại sư phụ?”
Du bộ đầu nghĩ nghĩ rồi lại lắc đầu: “Chúng ta không thù không oán, cũng không có bất kỳ lợi ích nào để tranh giành. Tại sao anh lại muốn giết ta?” Nhưng nói xong ông lại khẳng định: “Trực giác của ta chắc chắn không sai được. Đêm nay đã có người muốn giết ta.” Nghe lời nói đanh thép của ông, anh Ba Kho rùng mình hỏi:”Chả lẽ hung thủ trở về đây?” Du bộ đầu lắc lắc đầu: “Trừ phi khinh công của y đạt đến mức siêu phàm nhập thánh, nếu không chắc chắn sẽ bị ta nghe thấy. Hơn nữa bất kể khinh công cao đến đâu, chỉ cần chân chạm đất thì sẽ có dấu vết lưu lại. Anh không biết trước khi ngủ ta đã sắp đặt một ít cạm bẫy xung quanh.” Nói rồi ông giơ giơ một cái túi vải nhỏ. “Thứ bột này gọi là “Lưới trời”. Chỉ cần hung thủ đạp lên, nó sẽ gây ra một mùi vị kỳ dị. Bọn ta khi đi lùng bắt hung phạm thường dùng….”
Anh Ba Kho reo lên, ngắt lời ông: “Có phải nó có mùi thối như mùi cá chết. Hồi đêm con có ngửi thấy.”
Du bộ đầu cau mày: “Không phải rồi. Mùi của loại bột này rất thanh, chỉ những người quen thuộc mới có thể phát hiện ra.” Rồi ông nghi ngờ nhìn anh Ba Kho: “Có mùi cá chết sao? Tại sao hồi đêm ta không ngửi thấy.” Anh Ba Kho trả lời: “Có lẽ lúc đấy sư phụ ngủ say…” Du bộ đầu lắc đầu phủ nhận: “Không thể nào. Anh không biết đối với bọn người quanh năm đi bắt tội phạm như ta, khứu giác đều cực kỳ nhạy bén. Bất kỳ mùi lạ nào đều khiến bọn ta cực kỳ cẩn thận bới nó có thể trở thành mối nguy cơ chí mạng.” Anh Ba Kho cũng gật đầu:”Vậy thì lạ quá, rõ ràng đêm qua con ngửi thấy mùi cá chết mà. À còn nữa, còn chuyện viên gạch..” Anh Ba Kho nhìn về phía cửa. Bất chợt anh sửng sốt. Viên gạch chèn cửa mà anh đã buộc dây vào cột nhà đã không cánh mà bay. Chỉ còn lại đoạn dây ngắn nằm vắt vẻo trên thềm.
Anh Ba Kho sợ đến giật nảy mình. “Sư phụ, sư phụ gạch lại biến mất rồi…” Du bộ đầu quát:”Rốt cuộc có chuyện gì?” Anh Ba Kho liền kể chuyện chèn gạch vào cửa hồi đêm cho sư phụ nghe. Du bộ đầu không nói gì, lẳng lặng cầm sợi dây lên quan sát. Hai người cứ ngồi thế cho đến lúc gà gáy sáng. Lúc này mặt trời vẫn chưa lên. Không gian xung quanh vẫn còn tối tăm. Anh Ba Kho bỗng cảm thấy buồn tè. Anh đi ra sân, đến bên gốc chuối để xả cơn buồn. Trong tiếng nước chảy xè xè, anh Ba Kho chợt nghe tiếng cá quẫy trong hồ. Không biết con cá nào mới rạng sáng đã ló mặt ra kiếm ăn. Ngáp ngắn ngáp dài, anh Ba Kho quay trở lại trong nhà. Bỗng anh lại nghe thấy mùi cá chết. Anh vội gọi Du bộ đầu: “Sư phụ, sư phụ lại có mùi cá chết này.” Du bộ đầu nghe tiếng anh, liền đi vội ra sân. Ông khịt khịt mũi rồi khẳng định: “Đúng là mùi cá chết. Hướng gió phát ra từ phía hồ.” Nói xong ông vội vã đi ra sân, rồi xuyên qua khoảnh vườn nhỏ trồng đầy cây. Anh Ba Kho cũng bám sát theo ông. Đi khoảng bốn năm mươi bước, hồ nước liền hiện ra trước mặt. Làn nước tối om om như miệng một con cá khổng lồ mới chết, phun ra từng hơi thở thối đến không ngửi được.
Xoay xoay ngắm ngắm chán chê, anh trở lại chỗ nằm với một viên gạch khác trong tay. Lần này để cho chắc, ngoài việc chèn cửa cận thận, anh còn lấy dây buộc viên gạch vào cái cột nhà. Thế rồi anh thoải mái nằm xuống. “Có giỏi thì bay nữa đi.” Cơn buồn ngủ kéo đến thật nhanh. Anh Ba Kho mệt mỏi ngáp một cái rồi nhắm mắt lại. Chả mấy chốc mà anh say giấc nồng. Trên hiên nhà, gió từ ngoài hồ thổi vào từng cơn mát rượi. Tiếng ngáy của Du bộ đầu vẫn đều đều.
Gió thổi càng lúc càng lạnh. Anh Ba Kho quơ tấm chăn chiên bên cạnh khoác lên người, miệng nhép nhép. Đột nhiên mũi anh Ba Kho cảm thấy ngứa ngứa. Anh co người đánh một cái hắt hơi. Trong lúc lấy tay xoa xoa, anh Ba Kho cảm thấy một mùi thối sực vào cổ họng. Anh bịt mũi, thầm nghĩ: “Mùi cá chết ở đâu ra vậy?” Một tiếng hét lớn như tiếng trống đồng làm anh Ba Kho ù tai. “Ai đó? Mau ra đây.”
Anh Ba Kho mở mắt nhỏm dậy. Lúc này Du bộ đầu đã đứng lên, đôi mắt ưng của ông chăm chú nhìn xung quanh. Anh Ba Kho cũng vội mò dưới chân lấy căn mác dài hơn một thước. Du bộ đầu bảo anh Ba Kho: “Đốt đèn lên.” Anh Ba Kho răm rắp làm theo lời ông. Du bộ đầu bắt đầu cẩn thận đi vòng ra sân, mắt ông chăm chú nhìn từng viên gạch, từng ngọn cỏ. Có lúc ông quỳ xuống sát đất, ngửi ngửi. Anh Ba Kho đi theo, cầm đèn rọi, hai mắt dáo dác nhìn xung quanh xem có ai đang nấp không. Từ trong sân, hai người ra vườn rồi vòng đến sau nhà. Du bộ đầu vẫn cẩn thận tìm tìm kiếm kiếm, nhưng không thu được kết quả gì. Mãi đến lúc gà gáy sáng, hai người mới trở về hiên nhà.
Anh Ba Kho mệt mỏi vớ lấy ống đựng nước, uống một hớp. Mồ hôi rịn ra như tắm trên trán anh. Nãy giờ, mặc dù không hoạt động gì nhiều, nhưng anh rất căng thẳng. Anh chỉ sợ kẻ thủ ác nấp đâu đấy quanh nhà, bất ngờ xồ ra lấy mạng hai người. Mãi đến khi quay lại trước nhà, anh mới hết sợ. Dù gì thì bên anh có những hai người, ai cũng biết võ, chả lẽ hai người lại không đánh được một người. Mà cho dù đánh không lại, chả lẽ lại không chạy được. Nghĩ thế, anh Ba Kho bắt đầu thả lỏng cơ thế. Du bộ đầu vẫn đang ngồi bệt trên bệ cửa miệng lẩm bẩm:”Chả lẽ mình nhầm? Không có lẽ nào…”
Anh Ba Kho lúc này mới hỏi Du bộ đầu:”Sư phụ, hồi nãy có chuyện gì thế?”
Du bộ đầu hơi trầm ngâm, rồi trả lời: “Anh đã từng nghe đến “lục giác” của người giang hồ chưa?”
Anh Ba kho đáp: “Có từng nghe. Lục giác là cách gọi của sáu loại giác quan bao gồm hính giác, vị giác, khứu giác, thị giác, xúc giác, trực giác. Có đúng không sư phụ? ”
Du bộ đầu gật đầu: “Đúng vậy, trong sáu loại giác quan, cái thứ sáu là loại huyền bí nhất. Trực giác chỉ là một cách gọi. Bình thường người ta hay bảo nó là linh tính hay cảm thấy. Đó là khi con người cảm nhận được sự thay đổi của bên ngoài, của không gian và thời gian mà không thông qua năm giác quan còn lại. Thậm chí với những người có giác quan thứ sáu bén nhạy, người ta có thể dùng để tiên đoán những gì sắp xảy ra trong tương lai.”
Anh Ba Kho hỏi: “Sư phụ muốn nói đến người tu đạo?”
Du bộ đầu lắc đầu: “Không chỉ người tu đạo, mà cả người luyện võ thậm chí người thường cũng có thể có giác quan thứ sáu rất mạnh mẽ. Như trạng Trình, mặc dầu chỉ là thư sinh tay trói gà không chặt, ông ấy có thể dự đoán được triều đại sẽ chết như thế nào, có bao nhiêu đời vua tất cả. Mấy trăm năm sau khi ông chết, ai cũng đều kinh ngạc rằng mọi thứ diễn ra theo đúng y như lời của ông.” Nói rồi Du bộ đầu than thở: “Giác quan thứ sáu đúng là một món quà đặc biệt mà ông trời ban tặng cho con người.”
Du bộ đầu dùng tay vuốt ve thanh đao trong tay: “Ta từ nhỏ là một trong những người được ông trời ưu ái. Giác quan thứ sáu của ta đặc biệt rất nhạy cảm với sự sống và cái chết. Vì thế nó đã cứu mạng ta vô số lần.” Rồi ông nhìn thẳng vào anh Ba Kho: “Đêm nay nó lại đánh thức ta.” Anh Ba Kho sợ hãi trước cái nhìn dữ tợn của Du bộ đầu. Anh nói: “Chẳng lẽ sư phụ cho là con muốn làm hại sư phụ?”
Du bộ đầu nghĩ nghĩ rồi lại lắc đầu: “Chúng ta không thù không oán, cũng không có bất kỳ lợi ích nào để tranh giành. Tại sao anh lại muốn giết ta?” Nhưng nói xong ông lại khẳng định: “Trực giác của ta chắc chắn không sai được. Đêm nay đã có người muốn giết ta.” Nghe lời nói đanh thép của ông, anh Ba Kho rùng mình hỏi:”Chả lẽ hung thủ trở về đây?” Du bộ đầu lắc lắc đầu: “Trừ phi khinh công của y đạt đến mức siêu phàm nhập thánh, nếu không chắc chắn sẽ bị ta nghe thấy. Hơn nữa bất kể khinh công cao đến đâu, chỉ cần chân chạm đất thì sẽ có dấu vết lưu lại. Anh không biết trước khi ngủ ta đã sắp đặt một ít cạm bẫy xung quanh.” Nói rồi ông giơ giơ một cái túi vải nhỏ. “Thứ bột này gọi là “Lưới trời”. Chỉ cần hung thủ đạp lên, nó sẽ gây ra một mùi vị kỳ dị. Bọn ta khi đi lùng bắt hung phạm thường dùng….”
Anh Ba Kho reo lên, ngắt lời ông: “Có phải nó có mùi thối như mùi cá chết. Hồi đêm con có ngửi thấy.”
Du bộ đầu cau mày: “Không phải rồi. Mùi của loại bột này rất thanh, chỉ những người quen thuộc mới có thể phát hiện ra.” Rồi ông nghi ngờ nhìn anh Ba Kho: “Có mùi cá chết sao? Tại sao hồi đêm ta không ngửi thấy.” Anh Ba Kho trả lời: “Có lẽ lúc đấy sư phụ ngủ say…” Du bộ đầu lắc đầu phủ nhận: “Không thể nào. Anh không biết đối với bọn người quanh năm đi bắt tội phạm như ta, khứu giác đều cực kỳ nhạy bén. Bất kỳ mùi lạ nào đều khiến bọn ta cực kỳ cẩn thận bới nó có thể trở thành mối nguy cơ chí mạng.” Anh Ba Kho cũng gật đầu:”Vậy thì lạ quá, rõ ràng đêm qua con ngửi thấy mùi cá chết mà. À còn nữa, còn chuyện viên gạch..” Anh Ba Kho nhìn về phía cửa. Bất chợt anh sửng sốt. Viên gạch chèn cửa mà anh đã buộc dây vào cột nhà đã không cánh mà bay. Chỉ còn lại đoạn dây ngắn nằm vắt vẻo trên thềm.
Anh Ba Kho sợ đến giật nảy mình. “Sư phụ, sư phụ gạch lại biến mất rồi…” Du bộ đầu quát:”Rốt cuộc có chuyện gì?” Anh Ba Kho liền kể chuyện chèn gạch vào cửa hồi đêm cho sư phụ nghe. Du bộ đầu không nói gì, lẳng lặng cầm sợi dây lên quan sát. Hai người cứ ngồi thế cho đến lúc gà gáy sáng. Lúc này mặt trời vẫn chưa lên. Không gian xung quanh vẫn còn tối tăm. Anh Ba Kho bỗng cảm thấy buồn tè. Anh đi ra sân, đến bên gốc chuối để xả cơn buồn. Trong tiếng nước chảy xè xè, anh Ba Kho chợt nghe tiếng cá quẫy trong hồ. Không biết con cá nào mới rạng sáng đã ló mặt ra kiếm ăn. Ngáp ngắn ngáp dài, anh Ba Kho quay trở lại trong nhà. Bỗng anh lại nghe thấy mùi cá chết. Anh vội gọi Du bộ đầu: “Sư phụ, sư phụ lại có mùi cá chết này.” Du bộ đầu nghe tiếng anh, liền đi vội ra sân. Ông khịt khịt mũi rồi khẳng định: “Đúng là mùi cá chết. Hướng gió phát ra từ phía hồ.” Nói xong ông vội vã đi ra sân, rồi xuyên qua khoảnh vườn nhỏ trồng đầy cây. Anh Ba Kho cũng bám sát theo ông. Đi khoảng bốn năm mươi bước, hồ nước liền hiện ra trước mặt. Làn nước tối om om như miệng một con cá khổng lồ mới chết, phun ra từng hơi thở thối đến không ngửi được.
/146
|