Du bộ đầu và anh Ba Kho bắt đầu đi vòng dọc theo sát mép hồ để xem cái mùi thối phát ra từ đâu. Mãi đến khi tia nắng đầu tiên ló ra, mặt hồ trở nên sáng sủa, họ mới tìm được nguyên nhân của cái mùi thối đó. Đó là một cái xác chết trôi nổi trên mặt hồ, cách bờ khoảng hơn mười trượng. Cái xác nằm úp sấp, chỉ thấy mỗi phần lưng và tóc trên đầu nổi lên trên mặt nước. Du bộ đầu không ngần ngại liền cởi đồ ra rồi lao xuống. Một lát sau ông đã kéo được cái xác vào bờ. Đó là một người đàn ông còn trẻ tuổi, theo như Du bộ đầu nói chỉ khoảng hai lăm đến ba lăm tuổi. Anh ta bị dìm chết, quần áo trên người cũng bị lấy mất. Thời gian chết là khoảng hơn một tháng trước. Vì ngâm nước nhiều nên mặt cái xác đã biến dạng, rất khó để nhận ra. Thân thể nạn nhân cũng trương phồng lên và trắng hếu như lợn nái có chửa, trông thật tởm lợm.
“Thảo nào thối như vậy.” Anh Ba Kho nghĩ thầm rồi đưa cái còi lên miệng thổi một tiếng thật to. Đó là dấu hiệu yêu cầu tập trung nên chỉ một lát sau, đám dân tráng đã có mặt. Anh Ba Kho ra lệnh: “Mang mọi người trong làng đến đây xem có ai nhận ra được người này không!” Đám dân tráng vội vã đi vào trong làng. Anh Ba Kho chờ khoảng nửa canh giờ thì mọi người đã tập hợp đủ, không thiếu một ai. Thế nhưng kết quả giống như anh Ba và Du bộ đầu đã đoán. Chẳng có ai cung cấp được thêm manh mối mới nào. Anh Ba Kho hơi thất vọng, Thấy trời nắng lên, mọi người đứng cũng vất vả, liền giải tán ai về nhà nấy. Du bộ đầu vẫn loay hoay quanh cái xác nhưng anh Ba Kho không muốn lại gần. Gió thổi mạnh khiến cái xác càng lúc càng bốc mùi thối khủng khiếp. Anh dặn đám dân tráng nấu cơm sáng mặc dù chẳng muốn ăn tí nào. Bụng anh cồn cào như sẵn sàng phun ra bất kỳ thứ gì trong bụng.
Thấy anh khó chịu. Du bộ đầu đưa cho anh một cái lọ nhỏ, bên trong có một ít dầu thơm, bảo anh quẹt lên mũi. Anh Ba Kho làm theo. Bôi xong anh khịt khịt mũi. Cái mùi thối như biến mất hẳn. Trên mũi anh chỉ còn lại mùi hương thoang thoảng của hoa nhài. Anh nhìn cái lọ, thầm nghĩ. “Có lẽ hôm nào phải nhờ sư phụ đặt mua giùm một lọ mới được.” Như đoán được ý nghĩ của anh, Du bộ đầu giải thích: “Thứ này có tiền cũng chưa chắc đã mua nổi. Đây là hàng của người tu đạo. Ta có quen với đệ tử phái Mộc Quyết nên được biếu tặng một lọ.” Anh Ba Kho lè lưỡi, thầm nghĩ cái lọ nhỏ này trên thị trường chắc phải vài trăm lượng bạc là ít.
Đang đứng đợi chôn cất cái xác, một người dân tráng ra chỗ anh Ba, miệng ấp úng định nói gì đó mà không nói nên lời. Anh Ba Kho nhận ra đây là thằng Bò Ba Xị, cháu ông Ba chuyên nuôi bò cái ở xóm trên. Bò Ba Xị từ bé mồ côi cha mẹ, sống với ông. Nhà neo người mà cả hai ông cháu lại thích nhậu nên nó nấu ăn khá là ngon. Thế là anh Ba Kho nhận nó vào đội dân tráng để phục vụ cơm nước cho anh em. Thấy thằng Bò Ba Xị lúng túng, anh Ba hỏi: “Có chuyện gì đấy cu Bò?”
Mặt thằng Bò Ba Xị nhăn nhó như sắp khóc, lí nhí đáp: “Ông Bành ông ấy cầm bạc mua thức ăn mà trốn đâu mất. Đệ tìm ổng từ lúc mờ sáng đến giờ mà chả thấy đâu.” Anh Ba Kho nhăn mày. Ông Bành mà thằng Bò Ba Xị gọi là cháu của lí trưởng làng anh. Mặc dù đã hơn ba mươi nhưng vẫn chưa lấy nổi vợ. Tính tình thì lất ba lất bất nên trong đội dân tráng chả ai ưa. Chỉ có thằng Bò Ba Xị vốn thích nhậu nhẹt nên mới kết bạn nổi với gã. Anh Ba hỏi lại: “Đã tìm kỹ chưa?” Thằng Bò Ba Xị mếu máo:”Đệ tìm khắp làng rồi. Cũng chả ai thấy ổng cả. Hồi đêm ông đi tè xong biến mất tiêu luôn.”
Anh Ba Kho nhíu mày. Số bạc mất chỉ là tiền ăn của anh em dân tráng trong mấy ngày mà thôi. Cũng chả đáng để gã Bành làm như thế. Anh Ba Kho đang suy nghĩ thì Du bộ đầu đã trở lại. Ông hỏi anh có chuyện gì thế. Anh Ba Kho kể lại việc gã Bành cầm tiền trốn mất. Du bộ đầu trầm ngâm một lát rồi hỏi: “Trong đám dân tráng ai quen với hắn nhất?” Anh Ba liền chỉ thằng Bò. Du bộ đầu hỏi thằng Bò Ba Xị: “Hắn có đặc điểm gì dễ nhận biết không?” Thằng Bò Ba Xị nghĩ một lát rồi trả lời: “Sau dái tai của ổng có một cái nốt ruồi đen to như cái cúc áo.” Du bộ đầu suy nghĩ một lát rồi như lên cơn động kinh, chạy ào về phía đám dân tráng đang lấp đất, vừa chạy vừa quát: “Dừng lại, dừng lại!”
Đám dân tráng sợ hãi liền ngừng tay. Du bộ đầu chẳng nói chẳng rằng nhảy ngay xuống hố, dùng tay bới đất lên. Cho đến khi toàn bộ đầu cái xác lộ ra, Du bộ đầu mới dùng tay cầm lấy hai cái tai nạn nhân rồi quan sát kỹ càng. Anh Ba Kho và đám dân tráng cũng xúm lại. Dưới ánh mặt trời, anh Ba Kho nhìn thấy rõ ràng trên dái tai bên trái của cái xác có một nốt ruồi đen và to bằng cái cúc áo. Anh Ba Kho sợ quá. Chả lẽ cái xác là gã Bành cháu lý trưởng? Nếu vậy thì tại sao chỉ trong một đêm cái xác lại biến dạng nhiều đến thế?
Du bộ đầu xem một lúc rồi đứng dậy, nhảy lên khỏi hố đất. Ông ra hiệu cho đám dân tráng tiếp tục lấp đất. Anh Ba Kho hỏi: “Có khả năng là hắn không?” Du bộ đầu gật gật đầu. Anh Ba Kho hỏi: “Làm thế nào hắn mới chết đêm qua mà cái xác đã biến dạng nhiều như thế?” Du bộ đầu trả lời:”Có rất nhiều cách để làm cái xác phân hủy. Nhiệt độ hay một số chất độc đều dễ dàng làm được. Thậm chí có những loại khiến cái xác biến thành một vũng nước chỉ trong giây lát.” Anh Ba Kho lại hỏi: “Nhưng làm thế nào sư phụ biết được là hắn? Lỡ ai đó cũng có một cái nốt ruồi đen như thế thì sao?” Du bộ đầu suy nghĩ trong giây lát rồi trả lời: “Tỉ lệ trùng lặp như thế rất hiếm. Không phải vì thế mà những đặc điểm này được miêu tả trong “căn cước” để chứng minh một người nào đó. Thêm nữa, anh biết hồi nãy ta tìm được gì trong dạ dày nạn nhân không? Cháo đỗ xanh và thịt vịt.” Nói rồi ông bỏ đi, để mặc anh Ba Kho đứng thẫn thờ. Anh đang nhớ tới bữa tối ngày hôm qua, thằng Bò Ba Xị mua đâu được con vịt. Sau khi luộc xong, nó lấy nước ấy nấu cháo đỗ phục vụ mọi người. Anh Ba Kho ăn xong còn khen thằng Bò nấu ngon nên anh nhớ rõ lắm.
Lúc này một cơn gió lạnh thổi qua khiến anh Ba rùng mình. Trưa nắng nhưng sao ở cái làng này thấy lạnh lẽo thế? Anh dùng hai tay ôm lấy người, trông lên đám dân tráng đang hì hục đắp mộ. Bọn họ vẫn chưa biết đang chôn chiến hữu của mình. Anh Ba Kho lại nghĩ không biết nên nói chuyện với bọn họ như thế nào để anh em khỏi tụt sĩ khí. Trở lại trong làng, anh Ba và đám dân tráng mới thấy Du bộ đầu đang dẫn theo thằng Bò Ba Xị chuẩn bị thuyền. Ngoài nồi cơm và gạo, bọn họ còn mang theo không ít ngọn đuốc. Thì ra Du bộ đầu định đi ra hòn đảo nơi xảy ra vụ án. Anh Ba đành chọn lấy năm người, thêm anh và thằng Bò nữa để đi cùng Du bộ đầu ra đảo.
Tám người ngồi lên hai chiếc thuyền dài nên cũng khá rộng rãi. Mỗi thuyền có hai người chèo, thay phiên nhau nên bọn họ đi rất nhanh. Chả mấy chốc mà anh Ba Kho đã nhìn thấy đám sương mù bao quanh hòn đảo. Trời về trưa, mặt trời đã lên tới tận đỉnh đầu mà sương vẫn không tan hết, nổi trôi từng đám như mây bọc lấy hòn đảo. Hai chiếc thuyền đi sát trong sương, chỉ sợ lạc mất nhau. Cuối cùng thì cũng đặt chân lên đảo một cách bình an. Anh Ba Kho sai người cột thuyền cẩn thận, phái thằng Bò chặt củi nấu cơm xong bắt đầu cùng Du bộ đầu đi dọc theo bờ cát. Chả mấy chốc mà bọn họ tìm được hiện trường vụ án. Bảy cái xác chết nằm lung tung trong chiếc lán mới dựng lên. Không giống với cái xác tìm thấy hồi sáng, bảy người đều trông như mới chết ngày hôm qua. Du bộ đầu bắt đầu kiểm tra từng cái xác một cách tỉ mỉ và kiên nhẫn. Sau cùng ông kết luận cả bảy người đều bị dìm chết.
Một lúc sau, Du bộ đầu bảo anh Ba Kho chuyển cả bảy cái xác lên thuyền. Sau đó mọi người bỏ dở cả nồi cơm đang nấu lên thuyền trở về làng. Anh Ba Kho định hỏi lí do tại sao lại vội vàng như thế nhưng nhìn thấy khuôn mặt căng thẳng của Du bộ đầu, anh cũng biết điều ngậm miệng không hỏi. Về đến làng Du bộ đầu có vẻ như vừa trốn thoát một kiếp, bảo anh Ba:”Tí nữa mang theo mọi người trở về làng Diên Hạ.” Anh Ba Kho cảm thấy kỳ lạ. Anh cảm thấy Du bộ đầu trước và sau khi lên đảo trông như hai người. Nhưng vì tin tưởng sư phụ, anh cũng không nói nhiều, mang mọi người cùng đồ đạc lên thuyền. Lần này, trên thuyền còn có thêm bảy cái xác.
Đến chập chiều thuyền mới cập bến làng Diên Hạ. Vì tránh cho mọi người hoảng sợ, anh Ba Kho ra lệnh cho đám dân tráng bí mật mang bảy cái xác lên một nhà kho kín đáo nằm cạnh bờ nước, cách bến tàu khoảng hai trăm thước. Đó là một căn nhà kho cũ được dân làng dựng lên dùng để chứa những thứ hàng hóa không sạch sẽ. Du bộ đầu dặn anh Ba Kho: “Cho dù như thế nào thì cũng phải bảo vệ kỹ cho bảy cái xác.” Anh Ba Kho hỏi:”Sư phụ, có chuyện lớn rồi phải không ạ?” Du bộ đầu nhìn anh lúc lâu mới trả lời: “Hòn đảo đó rất nguy hiểm. Lúc lên đó, trực giác của ta mách bảo phải chạy trốn ngay, đừng quay đầu lại.” Anh Ba Kho cũng run bắn lên. Chẳng lẽ kẻ giết người nấp trên hòn đảo?
Dường như nhìn thấu suy nghĩ của anh, Du bộ đầu mới nói: “Anh cũng đừng suy nghĩ kẻ giết người nữa. Đó không phải là vấn đề mà chúng ta có thể giải quyết được.” Anh Ba Kho cảm thấy giọng nói của ông không trầm ổn như thường ngày nữa. “Anh biết không? Cả bảy nạn nhân đều bị dìm chết nhưng dường như không ai dám phản kháng. Không hề có lấy một vết tích của sự chống cự. Trong mắt bọn họ, ngoại trừ sợ hãi cũng chỉ còn có sợ hãi…” Du bộ đầu thở dài. “Nếu ta đoán không nhầm thì mấy người này đều từng là tù phạm, thậm chí là trọng phạm. Vậy thứ gì khiến cho cả đám người hung ác đều sợ hãi mà buông bỏ chống cự, thậm chí chết rồi mà ánh mắt vẫn còn không thể thoát khỏi nỗi sợ?.... Ta nghĩ ta phải trở về tổng bộ một chuyến. Nếu may mắn chúng ta có thể tìm được lời giải…” Anh Ba Kho nghe sự phụ muốn đi, vội vàng trở về nhà chuẩn bị. Anh cũng có một ít thổ sản để hiếu kính sư mẫu và các tiểu sư đệ. Anh không nhận ra đôi mắt dần mờ tối của Du bộ đầu.
“Thảo nào thối như vậy.” Anh Ba Kho nghĩ thầm rồi đưa cái còi lên miệng thổi một tiếng thật to. Đó là dấu hiệu yêu cầu tập trung nên chỉ một lát sau, đám dân tráng đã có mặt. Anh Ba Kho ra lệnh: “Mang mọi người trong làng đến đây xem có ai nhận ra được người này không!” Đám dân tráng vội vã đi vào trong làng. Anh Ba Kho chờ khoảng nửa canh giờ thì mọi người đã tập hợp đủ, không thiếu một ai. Thế nhưng kết quả giống như anh Ba và Du bộ đầu đã đoán. Chẳng có ai cung cấp được thêm manh mối mới nào. Anh Ba Kho hơi thất vọng, Thấy trời nắng lên, mọi người đứng cũng vất vả, liền giải tán ai về nhà nấy. Du bộ đầu vẫn loay hoay quanh cái xác nhưng anh Ba Kho không muốn lại gần. Gió thổi mạnh khiến cái xác càng lúc càng bốc mùi thối khủng khiếp. Anh dặn đám dân tráng nấu cơm sáng mặc dù chẳng muốn ăn tí nào. Bụng anh cồn cào như sẵn sàng phun ra bất kỳ thứ gì trong bụng.
Thấy anh khó chịu. Du bộ đầu đưa cho anh một cái lọ nhỏ, bên trong có một ít dầu thơm, bảo anh quẹt lên mũi. Anh Ba Kho làm theo. Bôi xong anh khịt khịt mũi. Cái mùi thối như biến mất hẳn. Trên mũi anh chỉ còn lại mùi hương thoang thoảng của hoa nhài. Anh nhìn cái lọ, thầm nghĩ. “Có lẽ hôm nào phải nhờ sư phụ đặt mua giùm một lọ mới được.” Như đoán được ý nghĩ của anh, Du bộ đầu giải thích: “Thứ này có tiền cũng chưa chắc đã mua nổi. Đây là hàng của người tu đạo. Ta có quen với đệ tử phái Mộc Quyết nên được biếu tặng một lọ.” Anh Ba Kho lè lưỡi, thầm nghĩ cái lọ nhỏ này trên thị trường chắc phải vài trăm lượng bạc là ít.
Đang đứng đợi chôn cất cái xác, một người dân tráng ra chỗ anh Ba, miệng ấp úng định nói gì đó mà không nói nên lời. Anh Ba Kho nhận ra đây là thằng Bò Ba Xị, cháu ông Ba chuyên nuôi bò cái ở xóm trên. Bò Ba Xị từ bé mồ côi cha mẹ, sống với ông. Nhà neo người mà cả hai ông cháu lại thích nhậu nên nó nấu ăn khá là ngon. Thế là anh Ba Kho nhận nó vào đội dân tráng để phục vụ cơm nước cho anh em. Thấy thằng Bò Ba Xị lúng túng, anh Ba hỏi: “Có chuyện gì đấy cu Bò?”
Mặt thằng Bò Ba Xị nhăn nhó như sắp khóc, lí nhí đáp: “Ông Bành ông ấy cầm bạc mua thức ăn mà trốn đâu mất. Đệ tìm ổng từ lúc mờ sáng đến giờ mà chả thấy đâu.” Anh Ba Kho nhăn mày. Ông Bành mà thằng Bò Ba Xị gọi là cháu của lí trưởng làng anh. Mặc dù đã hơn ba mươi nhưng vẫn chưa lấy nổi vợ. Tính tình thì lất ba lất bất nên trong đội dân tráng chả ai ưa. Chỉ có thằng Bò Ba Xị vốn thích nhậu nhẹt nên mới kết bạn nổi với gã. Anh Ba hỏi lại: “Đã tìm kỹ chưa?” Thằng Bò Ba Xị mếu máo:”Đệ tìm khắp làng rồi. Cũng chả ai thấy ổng cả. Hồi đêm ông đi tè xong biến mất tiêu luôn.”
Anh Ba Kho nhíu mày. Số bạc mất chỉ là tiền ăn của anh em dân tráng trong mấy ngày mà thôi. Cũng chả đáng để gã Bành làm như thế. Anh Ba Kho đang suy nghĩ thì Du bộ đầu đã trở lại. Ông hỏi anh có chuyện gì thế. Anh Ba Kho kể lại việc gã Bành cầm tiền trốn mất. Du bộ đầu trầm ngâm một lát rồi hỏi: “Trong đám dân tráng ai quen với hắn nhất?” Anh Ba liền chỉ thằng Bò. Du bộ đầu hỏi thằng Bò Ba Xị: “Hắn có đặc điểm gì dễ nhận biết không?” Thằng Bò Ba Xị nghĩ một lát rồi trả lời: “Sau dái tai của ổng có một cái nốt ruồi đen to như cái cúc áo.” Du bộ đầu suy nghĩ một lát rồi như lên cơn động kinh, chạy ào về phía đám dân tráng đang lấp đất, vừa chạy vừa quát: “Dừng lại, dừng lại!”
Đám dân tráng sợ hãi liền ngừng tay. Du bộ đầu chẳng nói chẳng rằng nhảy ngay xuống hố, dùng tay bới đất lên. Cho đến khi toàn bộ đầu cái xác lộ ra, Du bộ đầu mới dùng tay cầm lấy hai cái tai nạn nhân rồi quan sát kỹ càng. Anh Ba Kho và đám dân tráng cũng xúm lại. Dưới ánh mặt trời, anh Ba Kho nhìn thấy rõ ràng trên dái tai bên trái của cái xác có một nốt ruồi đen và to bằng cái cúc áo. Anh Ba Kho sợ quá. Chả lẽ cái xác là gã Bành cháu lý trưởng? Nếu vậy thì tại sao chỉ trong một đêm cái xác lại biến dạng nhiều đến thế?
Du bộ đầu xem một lúc rồi đứng dậy, nhảy lên khỏi hố đất. Ông ra hiệu cho đám dân tráng tiếp tục lấp đất. Anh Ba Kho hỏi: “Có khả năng là hắn không?” Du bộ đầu gật gật đầu. Anh Ba Kho hỏi: “Làm thế nào hắn mới chết đêm qua mà cái xác đã biến dạng nhiều như thế?” Du bộ đầu trả lời:”Có rất nhiều cách để làm cái xác phân hủy. Nhiệt độ hay một số chất độc đều dễ dàng làm được. Thậm chí có những loại khiến cái xác biến thành một vũng nước chỉ trong giây lát.” Anh Ba Kho lại hỏi: “Nhưng làm thế nào sư phụ biết được là hắn? Lỡ ai đó cũng có một cái nốt ruồi đen như thế thì sao?” Du bộ đầu suy nghĩ trong giây lát rồi trả lời: “Tỉ lệ trùng lặp như thế rất hiếm. Không phải vì thế mà những đặc điểm này được miêu tả trong “căn cước” để chứng minh một người nào đó. Thêm nữa, anh biết hồi nãy ta tìm được gì trong dạ dày nạn nhân không? Cháo đỗ xanh và thịt vịt.” Nói rồi ông bỏ đi, để mặc anh Ba Kho đứng thẫn thờ. Anh đang nhớ tới bữa tối ngày hôm qua, thằng Bò Ba Xị mua đâu được con vịt. Sau khi luộc xong, nó lấy nước ấy nấu cháo đỗ phục vụ mọi người. Anh Ba Kho ăn xong còn khen thằng Bò nấu ngon nên anh nhớ rõ lắm.
Lúc này một cơn gió lạnh thổi qua khiến anh Ba rùng mình. Trưa nắng nhưng sao ở cái làng này thấy lạnh lẽo thế? Anh dùng hai tay ôm lấy người, trông lên đám dân tráng đang hì hục đắp mộ. Bọn họ vẫn chưa biết đang chôn chiến hữu của mình. Anh Ba Kho lại nghĩ không biết nên nói chuyện với bọn họ như thế nào để anh em khỏi tụt sĩ khí. Trở lại trong làng, anh Ba và đám dân tráng mới thấy Du bộ đầu đang dẫn theo thằng Bò Ba Xị chuẩn bị thuyền. Ngoài nồi cơm và gạo, bọn họ còn mang theo không ít ngọn đuốc. Thì ra Du bộ đầu định đi ra hòn đảo nơi xảy ra vụ án. Anh Ba đành chọn lấy năm người, thêm anh và thằng Bò nữa để đi cùng Du bộ đầu ra đảo.
Tám người ngồi lên hai chiếc thuyền dài nên cũng khá rộng rãi. Mỗi thuyền có hai người chèo, thay phiên nhau nên bọn họ đi rất nhanh. Chả mấy chốc mà anh Ba Kho đã nhìn thấy đám sương mù bao quanh hòn đảo. Trời về trưa, mặt trời đã lên tới tận đỉnh đầu mà sương vẫn không tan hết, nổi trôi từng đám như mây bọc lấy hòn đảo. Hai chiếc thuyền đi sát trong sương, chỉ sợ lạc mất nhau. Cuối cùng thì cũng đặt chân lên đảo một cách bình an. Anh Ba Kho sai người cột thuyền cẩn thận, phái thằng Bò chặt củi nấu cơm xong bắt đầu cùng Du bộ đầu đi dọc theo bờ cát. Chả mấy chốc mà bọn họ tìm được hiện trường vụ án. Bảy cái xác chết nằm lung tung trong chiếc lán mới dựng lên. Không giống với cái xác tìm thấy hồi sáng, bảy người đều trông như mới chết ngày hôm qua. Du bộ đầu bắt đầu kiểm tra từng cái xác một cách tỉ mỉ và kiên nhẫn. Sau cùng ông kết luận cả bảy người đều bị dìm chết.
Một lúc sau, Du bộ đầu bảo anh Ba Kho chuyển cả bảy cái xác lên thuyền. Sau đó mọi người bỏ dở cả nồi cơm đang nấu lên thuyền trở về làng. Anh Ba Kho định hỏi lí do tại sao lại vội vàng như thế nhưng nhìn thấy khuôn mặt căng thẳng của Du bộ đầu, anh cũng biết điều ngậm miệng không hỏi. Về đến làng Du bộ đầu có vẻ như vừa trốn thoát một kiếp, bảo anh Ba:”Tí nữa mang theo mọi người trở về làng Diên Hạ.” Anh Ba Kho cảm thấy kỳ lạ. Anh cảm thấy Du bộ đầu trước và sau khi lên đảo trông như hai người. Nhưng vì tin tưởng sư phụ, anh cũng không nói nhiều, mang mọi người cùng đồ đạc lên thuyền. Lần này, trên thuyền còn có thêm bảy cái xác.
Đến chập chiều thuyền mới cập bến làng Diên Hạ. Vì tránh cho mọi người hoảng sợ, anh Ba Kho ra lệnh cho đám dân tráng bí mật mang bảy cái xác lên một nhà kho kín đáo nằm cạnh bờ nước, cách bến tàu khoảng hai trăm thước. Đó là một căn nhà kho cũ được dân làng dựng lên dùng để chứa những thứ hàng hóa không sạch sẽ. Du bộ đầu dặn anh Ba Kho: “Cho dù như thế nào thì cũng phải bảo vệ kỹ cho bảy cái xác.” Anh Ba Kho hỏi:”Sư phụ, có chuyện lớn rồi phải không ạ?” Du bộ đầu nhìn anh lúc lâu mới trả lời: “Hòn đảo đó rất nguy hiểm. Lúc lên đó, trực giác của ta mách bảo phải chạy trốn ngay, đừng quay đầu lại.” Anh Ba Kho cũng run bắn lên. Chẳng lẽ kẻ giết người nấp trên hòn đảo?
Dường như nhìn thấu suy nghĩ của anh, Du bộ đầu mới nói: “Anh cũng đừng suy nghĩ kẻ giết người nữa. Đó không phải là vấn đề mà chúng ta có thể giải quyết được.” Anh Ba Kho cảm thấy giọng nói của ông không trầm ổn như thường ngày nữa. “Anh biết không? Cả bảy nạn nhân đều bị dìm chết nhưng dường như không ai dám phản kháng. Không hề có lấy một vết tích của sự chống cự. Trong mắt bọn họ, ngoại trừ sợ hãi cũng chỉ còn có sợ hãi…” Du bộ đầu thở dài. “Nếu ta đoán không nhầm thì mấy người này đều từng là tù phạm, thậm chí là trọng phạm. Vậy thứ gì khiến cho cả đám người hung ác đều sợ hãi mà buông bỏ chống cự, thậm chí chết rồi mà ánh mắt vẫn còn không thể thoát khỏi nỗi sợ?.... Ta nghĩ ta phải trở về tổng bộ một chuyến. Nếu may mắn chúng ta có thể tìm được lời giải…” Anh Ba Kho nghe sự phụ muốn đi, vội vàng trở về nhà chuẩn bị. Anh cũng có một ít thổ sản để hiếu kính sư mẫu và các tiểu sư đệ. Anh không nhận ra đôi mắt dần mờ tối của Du bộ đầu.
/146
|